HMS Seymour (K563)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi DE-98 (chưa đặt tên)
Đặt hàng 1942[1]
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 1 tháng 9, 1943[2]
Hạ thủy 1 tháng 11, 1943[2]
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc
Xóa đăng bạ 25 tháng 2, 1946[2]
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 5 tháng 1, 1946[2]
Số phận Bán để tháo dỡ, 10 tháng 12, 1946[2]
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Seymour (K563)
Đặt tên theo Hugh Seymour[3]
Nhập biên chế 23 tháng 12, 1943[1]
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 5 tháng 1, 1946[2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Seymour (K563) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-98 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt cái tên này, được đặt theo Phó đô đốc Hugh Seymour (1759-1801), hạm trưởng chiếc HMS Leviathan (1790) và đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa KỳChiến tranh Cách mạng Pháp.[3] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1946, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[4][5]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[6] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[6]

Seymour được đặt lườn như là chiếc DE-98 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 1 tháng 9, 1943 và được hạ thủy vào ngày 1 tháng 11, 1943.[1][2][3] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Seymour (K563) vào ngày 23 tháng 12, 1943[1][2][3] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Gerald Joseph Parry.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Seymour phục vụ hộ tống và tuần tra trước khi chuyển sang hoạt động như tàu Frigate Kiểm soát Lực lượng Duyên hải (CFCF), chỉ huy một chi hạm đội xuồng phóng lôi MTB (Motor Torpedo Boat) hoạt động tại eo biển MancheBắc Hải nhằm đối phó các tàu E-Boat đối phương. Trong cuộc đổ bộ Normandy diễn ra vào ngày 6 tháng 6, 1944, con tàu được điều động đến Sheerness tạm thời dưới quyền Bộ chỉ huy Nore, và làm nhiệm vụ hộ tống cho bốn tàu chở quân đi từ Southend-on-Sea sang Normandy sau đợt đổ bộ đầu tiên.[1][2][8]

Tiếp tục ở lại khu vực chiến trận trong giai đoạn tiếp theo, Seymour hoạt động tuần tra chống tàu ngầm và tàu E-Boat đối phương. Vào tháng 8, con tàu trải qua một sự kiện gây hoảng sợ. Trong một chuyến tuần tra vào ban đêm, cả con tàu bị rung chuyển mạnh bởi một vụ vụ nổ lớn, toàn bộ tàu bị mất điện và nó chết đứng giữa biển; rõ ràng con tàu đã kích hoạt một quả thủy lôi dò âm Oyster. Tuy nhiên sau khi xem xét, con tàu không chịu bất kỳ hư hại nào, và nguyên nhân mất điện là chấn động của vụ nổ đã khiến cầu dao ngắt mạch.[8]

Trong chuyến tuần tra tại khu vực cửa sông Scheldt vào đêm 14-15 tháng 1, 1945, radar của Seymour phát hiện sáu tàu E-Boat đối phương ở khoảng cách 5,5 mi (8,9 km) lúc 01 giờ 35 phút. Mười phút sau, đèn pha của một chiếc MTB chiếu sáng các tàu đối phương, nên những chiếc E-boat cơ động lẫn tránh với tốc độ cao, khiến những chiếc MTB không theo đuổi kịp, một phần do điều kiện thời tiết không thuận lợi. Khi Seymour khai hỏa, đối thủ đã đi xa khỏi tầm bắn và mất tín hiệu trên radar.[8]

Đến đêm 22-23 tháng 1, năm tàu E-Boat đối phương áp sát bờ biển North Foreland đã đụng độ với chi hạm đội của Seymour; đối phương đã tấn công với toàn bộ mười quả ngư lôi mang theo, buộc Seymourtàu corvette Guillemot (L89) phải từ bỏ cuộc truy đuổi để tránh ngư lôi. Tuy nhiên đối thủ lọt vào tầm bắn của khẩu đội pháo bờ biển tại pháo đài Tounge Sands, khiến một chiếc E-boat bị đánh chìm. Khi đội của Seymour bắt kịp đối thủ, trong trận chiến tiếp theo chiếc MTB495 đã va chạm với một tàu E-boat và bị hư hại đến mức là một tổn thất toàn bộ. Cuối cùng đến ngày 1-2 tháng 3, Seymour cũng ghi được chiến công đánh chìm chiếc E-boat S-220.[8][9]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Seymour được điều sang Hải đội Rosyth vào tháng 8, thực hiện những chuyến đi sang các cảng Đức để áp tải về Anh 40 tàu buôn được chiếm giữ như những bồi hoàn thiệt hại chiến tranh. Nó tiếp tục trải qua một tháng tại Kristiansand, Na Uy phục vụ như một tàu chỉ huy trước khi quay trở về Devonport. Con tàu viếng thăm Barry IslandBarrow-in-Furness trước khi được sửa chữa trục chân vịt A tại Birkenhead.[8]

Seymour được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 1, 1946,[1][2][3][8] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 2[2] hoặc 25 tháng 2, 1946,[1] và bị bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 12, 1946.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “HMS Seymour (K 563)”. uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f g h i j k Yarnall, Paul R (ngày 28 tháng 11 năm 2019). “Seymour (DE 98)/HMS Seymour (K 563)”. NavSource.org. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f Tynan, Roy (2003). “HMS Seymour K563 (DE 98)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  5. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  6. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  7. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  8. ^ a b c d e f Tynan, Roy (2003). “Operations of the Coastal Forces Control Frigates”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2021.
  9. ^ Emmerich, Michael (ngày 3 tháng 4 năm 2006). “Schnellboot 1939/1940”. German Naval History. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]