I-165 (tàu ngầm Nhật)
I-65 đang rời Kure để chạy thử máy, ngày 30 tháng 8 năm 1932.
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | I-65 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure |
Đặt lườn | 19 tháng 12, 1929 |
Hạ thủy | 2 tháng 6, 1931 |
Hoàn thành | 1 tháng 12, 1932 |
Nhập biên chế | 1 tháng 12, 1932 |
Đổi tên | I-165, 20 tháng 5, 1942 |
Xếp lớp lại | Tàu huấn luyện, tháng 12, 1944 |
Số phận | Bị máy bay Hoa Kỳ đánh chìm, 27 tháng 6, 1945 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu V) |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 97,7 m (320 ft 6 in) |
Sườn ngang | 8,2 m (26 ft 11 in) |
Mớn nước | 4,7 m (15 ft 5 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 70 m (230 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 75 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
I-65, sau đổi tên thành I-165, là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan, tham gia Trận Midway, cũng như tuần tra trong Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. I-165 đã phạm tội ác chiến tranh khi thảm sát hàng loạt những người sống sót từ tàu buôn Nancy Moller vào năm 1944. Đến giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, I-165 tham gia huấn luyện và hỗ trợ kiểu ngư lôi tự sát Kaiten, trước khi bị máy bay Hoa Kỳ đánh chìm tại khu vực quần đảo Mariana vào ngày 27 tháng 6, 1945.
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp tàu ngầm Kaidai V là phiên bản được cải tiến từ phân lớp Kaidai IV dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 1.732 tấn (1.705 tấn Anh) khi nổi và 2.367 tấn (2.330 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 97,7 m (320 ft 6 in), mạn tàu rộng 8,2 m (26 ft 11 in) và mớn nước sâu 4,70 m (15 ft 5 in). Con tàu có thể lặn sâu 75 m (246 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 75 sĩ quan và thủy thủ.[1]
Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel 3.400 mã lực phanh (2.535 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW). Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) khi nổi và 8,25 hải lý trên giờ (15,28 km/h; 9,49 mph)khi lặn. Khi Kaidai V di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 10.800 hải lý (20.000 km; 12.400 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[2]
Lớp Kaidai V có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Hải pháo trên boong tàu được nâng cấp lên kiểu 10 cm (3,9 in)/50 caliber lưỡng dụng,[2] và bổ sung một súng máy 13,2 mm (0,52 in) phòng không.[1]
Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
I-65 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure ở Kure, Hiroshima vào ngày 19 tháng 12, 1929.[3] Nó được hạ thủy vào ngày 2 tháng 6, 1931,[3] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 1 tháng 12, 1932.[3]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
1932 - 1940[sửa | sửa mã nguồn]
Vào ngày nhập biên chế, I-65 gia nhập Đội tàu ngầm 30 cùng các tàu ngầm chị em I-66 và I-67[4] và vào ngày này 1 tháng 12, 1932, Đội tàu ngầm 30 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội, thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp.[5] Đội tàu ngầm 30 lại được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, cùng thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 15 tháng 11, 1933.[5] Đội tàu ngầm 30 được chuyển sang Hải đội Phòng vệ Sasebo trực thuộc Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 15 tháng 11, 1934.[5]
Vào ngày 27 tháng 9, 1934, I-65 rời Ryojun, Mãn Châu để cùng các tàu ngầm I-56, I-57, I-58, I-61, I-62, I-64, I-66 và I-67 thực hiện chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Thanh Đảo, Trung Quốc.[5][6][7][8][9][10][11][12][13] Sau khi hoàn tất, cả chín chiếc tàu ngầm đều quay về Sasebo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 10, 1934.[5][6][7][8][9][10][11][12][13] Đội tàu ngầm 30 gia nhập trở lại Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội vào ngày 15 tháng 11, 1935.[5]
Vào ngày 13 tháng 4, 1936, I-65 cùng các tàu chị em I-66 và I-67 khởi hành từ Fukuoka cho một chuyến đi huấn luyện tại khu vực Thanh Đảo, Trung Quốc.[13] Họ hoàn tất chuyến đi và quay trở về Sasebo vào ngày 22 tháng 4, 1936.[5][12][13] Ba chiếc tàu ngầm lại xuất phát từ Makō (nay là Mã Công) thuộc quần đảo Bành Hồ vào ngày 4 tháng 8, 1936 cho một chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Hạ Môn;[5][12][13] họ quay trở về vào ngày 6 tháng 9, 1936.[5][12][13] Đội tàu ngầm 30 được điều về Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 1 tháng 12, 1937.[5] Vào ngày 15 tháng 12, 1938, Đội tàu ngầm 30 được đưa về Hạm đội dự bị 3 tại Quân khu Hải quân Sasebo.[5] Đến ngày 15 tháng 11, 1939, Đội tàu ngầm 30 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 4 thuộc Đệ Nhất hạm đội,[5] rồi đến ngày 15 tháng 11, 1940, Đội tàu ngầm 30 lại được điều sang Hải đội Tàu ngầm 5 trực thuộc Hạm đội Liên hợp.[5]
1941[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 93
- ^ a b Bagnasco 1977, tr. 183
- ^ a b c Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “IJN Submarine I-165: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Submarine Division 30”. ijnsubsite.com. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m “I-165 ex I-65”. ijnsubsite.com. 11 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b “I-156”. ijnsubsite.com. 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
- ^ a b “I-157”. iijnsubsite.info. 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-158”. iijnsubsite.info. 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-61”. iijnsubsite.info. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-162 ex I-62”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-164 ex I-64”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b c d e “I-166 ex I-66”. iijnsubsite.info. 30 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b c d e f “I-67”. iijnsubsite.info. 14 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
- Boyd, Carl (2012). The Japanese Submarine Force in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1557500151.
- Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
- Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Edwards, Bernard (1997). Blood and Bushido: Japanese Atrocities at Sea 1941–1945. New York: Brick Tower Press. ISBN 1-883283-18-3.
- Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
- Rohwer, Jürgen (2005). Chronology of the War at Sea 1939–1945: The Naval History of World War Two . Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-119-2.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-165: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.