Phân biệt đối xử theo màu da

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Người có làn da sáng thường được ưu ái hơn, dễ có cơ hội thành công hơn, trong khi những người có da tối màu dễ bị phân biệt đối xử
Người có làn da sáng thường được ưu ái hơn, dễ có cơ hội thành công hơn, trong khi những người có da tối màu dễ bị phân biệt đối xử

Phân biệt đối xử theo màu da (Discrimination based on skin color) là một dạng định kiếnphân biệt đối xử trong đó những người thuộc nhóm dân tộc nhất định hoặc những người được coi là thuộc chủng tộc có làn da sẫm màu hơn sẽ bị phân loại và ứng xử khác nhau dựa vào màu da sẫm màu hơn[1], một cách ngắn gọn, đây là tình trạng khi trong cùng một nhóm người thì ai đó có làn da sẫm màu thì sẽ bị phân biệt đối xử. Thuyết màu da tập trung vào cách thức phân biệt chủng tộc được thể hiện trong tâm lý của một dân tộc và nó ảnh hưởng như thế nào đến khái niệm sắc đẹp (tiêu chuẩn cái đẹp), sự giàu cóđặc quyền của họ. Sự khác biệt chính giữa chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự phân biệt đối xử theo màu da là trong khi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đề cập đến sự khuất phục, cam chịu của nhóm này dưới trướng của nhóm khác hoặc niềm tin vào quyền lực tối cao của chủng tộc ưu việt hơn, thì sự phân biệt đối xử theo màu da đề cập đến sự phân biệt đối xử trong nhóm, bên cạnh sự phân biệt đối xử giữa các nhóm[2].

Đại cương[sửa | sửa mã nguồn]

Những nghiên cứu đã phát hiện ra bằng chứng đa dạng về phân biệt đối xử dựa trên màu da trong tư pháp hình sự, kinh doanh, nền kinh tế, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, phương tiện truyền thôngchính trịHoa KỳChâu Âu. Ngoài ra, đã có nghiên cứu cho thấy rõ ràng sự thiên vị dựa trên màu da trong hệ thống giáo dục. Học sinh da màu đang phải đối mặt với chi phí giáo dục cao hơn và sự bất bình đẳng trong các chương trình nâng cao và là mục tiêu của giáo viên hoặc bạn bè thuộc các nhóm bị thiệt thòi khác. Ngoài vấn đề này đã được ghi nhận ở Hoa Kỳ, tông màu da sáng hơn còn được coi là thích hợp hơn ở nhiều quốc gia ở Châu Phi, Châu ÁNam Mỹ[3]. Phân biệt chủng tộc ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống đương đại. Nghiên cứu cho thấy người dân tộc thiểu số có ít cơ hội hơn trong giáo dục đại học và việc làm, chịu sự giám sát chặt chẽ hơn của cảnh sát và ít có khả năng nhận được sự chăm sóc đầy đủ từ bác sĩ.

Một số phân tích tổng hợp tìm thấy bằng chứng sâu rộng về sắc tộc và phân biệt chủng tộc trong việc tuyển dụng ở thị trường lao động Bắc MỹChâu Âu[4][5][6]. Một phân tích tổng hợp năm 2016 gồm 738 bài kiểm tra tương ứng trong 43 nghiên cứu riêng biệt được thực hiện ở các nước OECD trong năm 1990–2015 cho thấy có sự phân biệt chủng tộc sâu rộng trong cả quy trình tuyển dụng ở Châu Âu và Bắc Mỹ[5]. Các ứng viên thuộc nhóm thiểu số tương đương cần gửi nhiều đơn đăng ký hơn khoảng 50% so với các ứng viên thuộc nhóm đa số để được mời phỏng vấn[5]. Nghiên cứu gần đây ở Hoa Kỳ cho thấy sự bất bình đẳng về kinh tế xã hội và sức khỏe giữa người Mỹ gốc Phi dọc theo dãy màu da thường tương tự hoặc thậm chí lớn hơn về mức độ so với những gì tồn tại giữa người da trắng và người Mỹ gốc Phi[7][8].

Trên thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Ở châu Phi[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời kỳ thuộc địa của Châu Âu, những người đi du lịch ở Châu Phi đã nhấn mạnh và bổ sung thêm vào một diễn ngôn ở Châu Âu về phụ nữ da đen vốn cho rằng tất cả phụ nữ da đen đều có thân hình to đô. Đây là biểu tượng của sự khác biệt, kiểu hình thấp kém, văn hóa và trí tuệ lạc hậu của những phụ nữ này. Ở một số vùng của Châu Phi, những người có làn da sáng hơn được cho là hấp dẫn hơn và có khả năng thành công hơn những người có tông màu da tối hơn[9]. Ở một số quốc gia, rào cản này đã khiến hàng triệu phụ nữ và nam giới chuyển sang các phương pháp điều trị làm sáng da, nhiều phương pháp trong số đó được chứng minh là gây hại cho cơ thể[10]. Về mặt lịch sử, việc làm sáng da ở Châu Phi có thể bắt nguồn từ thời thuộc địa Châu Âu, nơi những người có làn da sáng hơn nhận được nhiều đặc quyền hơn những người có tông màu tối hơn[11].

Những kẻ Thực dân châu Âu ở Rwanda đã thiết lập một hệ thống đẳng cấp dựa trên màu da, từ đó họ đặt địa vị người Tutsi lên trên những người Hutu dựa trên làn da sáng hơn của họ, dẫn đến sự phát triển của bản sắc chính trị phân biệt chủng tộc chưa từng tồn tại ở Rwanda trước chủ nghĩa thực dân[12][13] và đây chính là nguồn cơ cho sự mâu thuẫn, xung đột không dứt giữa người Hutu và người Tutsi. Hệ thống phân cấp chủng tộc và phân loại màu sắc làn da ở các quốc gia châu Phi thuộc địa đã để lại những ảnh hưởng tâm lý đối với nhiều người có làn da sẫm màu[11][10]. Trong thế kỷ XXI, đã có tới 77% phụ nữ Nigeria, 52% phụ nữ Senegalvà 25% phụ nữ Mali đã và đang sử dụng các sản phẩm làm sáng da[9][11]. Trang Der Spiegel báo cáo rằng ở Ghana thì "Khi bạn có làn da sáng, bạn kiếm được nhiều tiền hơn" và rằng, "Một số phụ nữ mang thai uống thuốc viên với hy vọng rằng nó sẽ giúp họ một đứa trẻ được sinh ra với làn da trắng. Một số bôi kem tẩy trắng cho đứa con họ với hy vọng rằng nó sẽ cải thiện cơ hội cho con cái họ"[10].

Ở châu Á[sửa | sửa mã nguồn]

Đông, NamĐông Nam Á, sở thích về làn da sáng hơn là phổ biến[14], đặc biệt là ở các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan, [ [Bangladesh]], Philippines, Indonesia, Thái LanNhật Bản[15][16][17]. Vào đầu thế kỷ XXI, bốn trong số mười phụ nữ được khảo sát ở Hồng Kông, Malaysia, PhilippinesHàn Quốc cho biết đã sử dụng kem làm trắng da[18]. Một cuộc khảo sát kết luận rằng 3/4 đàn ông Malaysia nghĩ rằng bạn tình của họ sẽ hấp dẫn hơn nếu họ có làn da sáng hơn[14]. Ở một số quốc gia Đông Nam Á như Malaysia, lý tưởng làm đẹp phổ biến là "vẻ ngoài lai Á-Âu". Người dân địa phương gọi là "vẻ ngoài châu Á", ở Malaysia, đó là một lý tưởng bắt nguồn từ lý tưởng về vẻ đẹp của làn da trắng, mà người Á-Âu có xu hướng sở hữu từ tổ tiên hỗn chủng[19]. Bất chấp những tranh cãi xung quanh việc ưu tiên người Malaysia gốc Á (Malay, Trung Quốc hoặc Ấn Độ) và châu Âu có những đặc điểm như làn da trắng, một số chuyên gia khác trong ngành đã nói rằng việc sử dụng khuôn mặt rặc châu Á có thể được sử dụng. để thúc đẩy sự đa dạng chủng tộc của người Malaysia. Như Bộ trưởng Bộ Thông tin đã đề xuất vào năm 1993, những khuôn mặt như vậy cũng có thể được sử dụng để quảng cáo một sản phẩm hướng tới đối tượng nhân khẩu học chủng tộc đa dạng vì vẻ ngoài hỗn hợp của chúng[20].

Những tác động của chủ nghĩa phân biệt màu da ở Ấn Độ đã rõ ràng kể từ khi hình thành quốc gia này. Những di sản của Đế chế Mughal, sự thống trị của thực dân phương Bắc và châu Âu trên tiểu lục địa Ấn Độ đã ảnh hưởng đến mối quan hệ hiện đại giữa làn da sáng và động cơ quyền lực[15]. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng sở thích có làn da sáng hơn ở Ấn Độ có mối liên hệ lịch sử với cả Hệ thống đẳng cấp ở Ấn Độ và sự cai trị hàng thế kỷ của các dân tộc từ các khu vực khác như Ba Tư, lãnh thổ Mughal (Mông Cổ Hồi giáo) và Châu Âu[21][22]. Chính Ấn Độ giáo cũng có ảnh hưởng lên chuyện làn da trắng. Hệ thống phân cấp xã hội của người Hindu nhấn mạnh rằng những người ở đẳng cấp cao hơn thường có làn da sáng hơn những người ở đẳng cấp thấp hơn, vì vậy, họ đang có lợi thế. Chủ nghĩa phân biệt màu da ở Ấn Độ cũng được nuôi dưỡng chính bởi thái độ của người châu Âu, những người ưa chuộng những người da sáng hơn cho các vị trí viên chức hành chính và các vị trí xã hội nổi bật khác, vì vậy về mặt khái niệm, quyền lực xã hội gắn liền với làn da sáng[23].

Người Ấn Độ giàu có thường có làn da sáng do ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Ngoài ra, các cá nhân được đánh giá dựa vào nghề nghiệp của họ. Sinh ra trong một dòng dõi nông dân chẳng hạn, thường sẽ khiến một người không thể rời bỏ dòng dõi lam lũ này. Việc di cư giữa các ngành nghề rất hiếm và mặc dù tính hợp pháp của hệ thống đẳng cấp đã được thay đổi vào năm 1948, nó vẫn có ảnh hưởng và được áp dụng ở nhiều nơi trên đất nước Ấn Độ[24]. Khi những yếu tố này tạo ra hệ thống đẳng cấp, nó phát triển để bao gồm cả vị thế kinh tế và vị thế xã hội[25]. Chủ nghĩa màu da có những tác động xã hội, nhiều trong số đó gây tổn hại nghiêm trọng đến khả năng di chuyển kinh tế xã hội của những người da đỏ, da sẫm màu. Những điều này có thể diễn ra trong khuôn mẫu giới tính và sự phân biệt đối xử theo khu vực. Các nghiên cứu về chỉ số melanin (MI) ở các cá nhân giữa các vùng cho thấy có sự khác biệt về màu da, điều này góp phần tạo ra mức độ phân biệt đối xử mà những người có làn da sẫm màu phải đối mặt ở các vùng tương ứng này[26][27].

Ở một số vùng của Ấn Độ, người da sẫm màu thường bị coi là đen điu, "bẩn thỉu" và có địa vị thấp hơn những người có nước da sáng hơn. Nước da sáng được đánh đồng với vẻ đẹp thanh tú nam và nữ, ưu thế chủng tộc và quyền lực, đồng thời tiếp tục có ảnh hưởng mạnh mẽ đến triển vọng hôn nhân, việc làm, địa vị và thu nhập cá nhân[28]. Hầu hết các cô gái da ngăm khi đi xin việc đều bị từ chối nhận vào làm việc làm do họ có màu da sẫm màu hơn[29][30]. Theo Werdhani và những người khác thì chủ nghĩa da màu dai dẳng là di sản của thời kỳ thuộc địa của Anh ở Ấn Độ, trong đó phụ nữ Ấn Độ bị siêu nữ tính hóa và bị những người thực dân coi là quá đoan trang trong công việc, trong khi đàn ông Ấn Độ bị nữ hóa và bị coi là thấp kém hơn đàn ông da trắng[31]. Các hình thức phân biệt màu da khác ở Ấn Độ có thể được nhận thấy trong ngành công nghiệp mỹ phẩm, nơi các loại kem "làm trắng da" nhằm làm sáng da rất phổ biến ở Ấn Độ[32]. Trong ngành điện ảnh và truyền thông Ấn Độ, hầu hết người được tuyển dụng đều có làn da sáng và các diễn viên thường được xử lý photoshop để trông có làn da sáng hơn[33][34].

Làm sáng da được chứng minh là có tác động bất lợi đáng kể đến cả sức khỏe tinh thần và thể chất, đặc biệt đối với phụ nữ, những người phải chịu gánh nặng nặng nề hơn nam giới liên quan đến vấn đề này[35]. Đó là gánh nặng đối với sức khỏe tâm thần của một người trong môi trường xã hội. Nhìn chung, những người sử dụng kem dưỡng da vẫn không hài lòng với làn da của mình ngay cả sau khi sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm không được kiểm soát có thể chứa các hóa chất độc hại có thể gây viêm da, bỏng hóa chất và trong trường hợp nghiêm trọng, làm tăng khả năng mắc bệnh ung thư dakhối u ác tính. Khi các cơ chế này tương tác với sự hiện diện của các thể chế tư bản hiện đang kiểm soát phần lớn thế giới ngày nay, ngành công nghiệp làm sáng da mang lại lợi ích cho hệ thống này thông qua việc bóc lột những cá nhân dễ bị tổn thương[36][37]. Làn da trắng sáng là lý tưởng làm đẹp trong xã hội Sri Lanka đương đại nhưng lại có nguồn gốc từ những lý tưởng làm đẹp cổ xưa ở đất nước này. Các sản phẩm làm trắng da và các sản phẩm khác có chứa chất làm trắng thường được bày bán ở Sri Lanka và được phụ nữ ưa chuộng[38]. Các diễn viên da trắng nổi bật trong các bộ phim Bollywoodphim truyền hình Hàn Quốc, cả hai đều nổi tiếng và có ảnh hưởng sâu rộng ở Sri Lanka[39].

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Study Reveals Racial Inequality in Mexico, Disproving Its ‘race-Blind ..., www.vanderbilt.edu/lapop/news/121317.mexico-theconversation.pdf. Accessed 19 May 2023.
  2. ^ Sanz Espinar, Gemma (2022). “Hacia un nuevo MCER. Objetivo: mediación”. Çédille (22): 513–519. doi:10.25145/j.cedille.2022.22.29. ISSN 1699-4949. S2CID 254768115.
  3. ^ Jablonski, Nina G. (2021). “Skin color and race”. American Journal of Physical Anthropology. 175 (2): 437–447. doi:10.1002/ajpa.24200. ISSN 0002-9483. PMC 8247429. PMID 33372701.
  4. ^ Rich, Judith (tháng 11 năm 2014). “What Do Field Experiments of Discrimination in Markets Tell Us? A Meta Analysis of Studies Conducted Since 2000”. IZA Discussion Paper No. 8584. SSRN 2517887.
  5. ^ a b c Zschirnt, Eva; Ruedin, Didier (27 tháng 5 năm 2016). “Ethnic discrimination in hiring decisions: a meta-analysis of correspondence tests 1990–2015” (PDF). Journal of Ethnic and Migration Studies. 42 (7): 1115–1134. doi:10.1080/1369183X.2015.1133279. hdl:10419/142176. S2CID 10261744. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2018.
  6. ^ P. A. Riach; J. Rich (tháng 11 năm 2002). “Field Experiments of Discrimination in the Market Place” (PDF). The Economic Journal. 112 (483): F480–F518. doi:10.1111/1468-0297.00080. S2CID 19024888.
  7. ^ Monk, Ellis P. (1 tháng 9 năm 2015). “The Cost of Color: Skin Color, Discrimination, and Health among African-Americans”. American Journal of Sociology. 121 (2): 396–444. doi:10.1086/682162. PMID 26594713. S2CID 10357627.
  8. ^ Monk, Ellis P. (1 tháng 6 năm 2014). “Skin Tone Stratification among Black Americans, 2001–2003”. Social Forces. 92 (4): 1313–1337. doi:10.1093/sf/sou007. S2CID 145107271.
  9. ^ a b Fihlani, Pumza (tháng 1 năm 2013). “Africa: Where black is not really beautiful”. BBC News.
  10. ^ a b c Backhaus, Anne; Okunmwendia, Ella (16 tháng 6 năm 2020). “Skin Bleaching in Ghana: "When You Are Light-Skinned, You Earn More". Global Societies. Spiegel International. Der Spiegel. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2020.
  11. ^ a b c Jacobs, Meagan; Levine, Susan; Abney, Kate; Davids, Lester (2016). “Fifty shades of African lightness: A bio-psychosocial review of the global phenomenon of skin lightening practices”. Journal of Public Health in Africa. 7 (2): 552. doi:10.4081/jphia.2016.552. PMC 5345401. PMID 28299156.
  12. ^ Weisband, Edward; Thomas, Courtney I. P. (17 tháng 11 năm 2015). Political Culture and the Making of Modern Nation-States (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 243. ISBN 978-1-317-25409-6.
  13. ^ Rossatto, Cesar Augusto; Allen, Ricky Lee; Pruyn, Marc (24 tháng 10 năm 2006). Reinventing Critical Pedagogy: Widening the Circle of Anti-Oppression Education (bằng tiếng Anh). Rowman & Littlefield Publishers. tr. 15. ISBN 978-1-4616-4300-5.
  14. ^ a b “Skin Deep: Dying to be White”. CNN. 15 tháng 5 năm 2002. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2010.
  15. ^ a b P.H., Li, Eric; Jeong, Min, Hyun; W., Belk, Russell (1 tháng 1 năm 2008). “Skin Lightening and Beauty in Four Asian Cultures”. NA – Advances in Consumer Research. 35. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  16. ^ “In the dark: what is behind India's obsession with skin whitening?”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017.
  17. ^ Purnell, Newley (31 tháng 10 năm 2013). “Images Spark Racism Debate in Thailand”. The New Yorker. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2021.
  18. ^ “Skin whitening big business in Asia”. Public Radio International. 30 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2013.
  19. ^ “Miss Universe Malaysia pageant contestants 'look too western'. 4 tháng 10 năm 2012.
  20. ^ Kemper, Steven (1 tháng 5 năm 2001). Buying and Believing: Sri Lankan Advertising and Consumers in a Transnational World. University of Chicago Press. tr. 153. ISBN 9780226430409.
  21. ^ Shankar, Ravi (2007). “Fair Skin in South Asia: an obsession?”. Journal of Pakistan Association of Dermatologists. 17: 100–104.
  22. ^ Mishra, Neha. “India and Colorism: The Finer Nuances”. Washington University Global Studies Law Review. 14.
  23. ^ Thappa (2014). “Skin color matters in India”. Pigment International. 1: 2. doi:10.4103/2349-5847.135419. S2CID 178991050. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  24. ^ Singh, Indervir (2012). “Social Norms and Occupational Choice: The Case of Caste Systems in India”. Indian Journal of Economics and Business. 11 (2): 431–454.
  25. ^ Jayawardene, Sureshi (tháng 12 năm 2016). “Racialized Casteism: Exposing the Relationship Between Race, Caste, and Colorism Through the Experiences of Africana People in India and Sri Lanka”. Journal of African American Studies. 20 (3/4): 323–345. doi:10.1007/s12111-016-9333-5. JSTOR 44508183. S2CID 152002116.
  26. ^ Iliescu, Florin Mircea; Chaplin, George; Rai, Niraj; Jacobs, Guy S.; Mallick, Chandana Basu; Mishra, Anshuman; Thangaraj, Kumarasamy; Jablonski, Nina G. (2018). “The influences of genes, the environment, and social factors on the evolution of skin color diversity in India”. American Journal of Human Biology (bằng tiếng Anh). 30 (5): e23170. doi:10.1002/ajhb.23170. hdl:20.500.11820/435c03a5-a3ca-4046-aa50-c81c38d08645. ISSN 1520-6300. PMID 30099804. S2CID 51966049.
  27. ^ Jensen, Kari B. (2020). “Colorism in Bangladeshi Society”. Focus on Geography. 63. doi:10.21690/foge/2020.63.2f. S2CID 216266145.
  28. ^ Verma, Harsh (2011). “Skin 'fairness'-Culturally Embedded Meaning and Branding Implications”. Global Business Review. 12 (2): 207, 208. doi:10.1177/097215091101200202. S2CID 145725139.
  29. ^ Mukherjee, Sayantan (1 tháng 1 năm 2020). “Darker shades of "fairness" in India: Male attractiveness and colorism in commercials”. Open Linguistics (bằng tiếng Anh). 6 (1): 225–248. doi:10.1515/opli-2020-0007. ISSN 2300-9969. S2CID 219983420.
  30. ^ Sims, Cynthia; Hirudayaraj, Malar (2015). “The Impact of Colorism on the Career Aspirations and Career Opportunities of Women in India”. Advances in Developing Human Resources. 18 (I): 38–53. doi:10.1177/1523422315616339. S2CID 147087265.
  31. ^ Wardhani, Baiq; Largis, Era; Dugis, Vinsensio (1 tháng 3 năm 2018). “Colorism, Mimicry, and Beauty Construction in Modern India”. Jurnal Hubungan Internasional (bằng tiếng Anh). 6 (2): 242–244. doi:10.18196/hi.62118. ISSN 2503-3883. S2CID 194938008. It can be analyzed through Orientalist thesis where the world becomes Western and Orientals, where in the feminist perspective, Oriental women are passive, unable to express their voice (Hasan, 2009, p. 30). Western women are the opposite of non-western women or orientals women who are considered ignorant, submissive to patriarchal dominance, poor, uneducated, tradition-bound, domestic, family-oriented, and victimized"..."This is related to the existence of white supremacy, in which the white male colonial is the most masculine and superior compared with the men of the colonized country." Anne McClintock (1995, p. 120) adds that colonized and territorial communities are feminized through conquest by masculine colonial powers. "Territory is one of the symbols of property in colonial patriarchy that must be mastered and owned, so that the occupied men will lose the symbol of its masculinity.
  32. ^ “header test”. fairandlovely-in. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  33. ^ Rajesh, Monisha (14 tháng 8 năm 2013). “India's unfair obsession with lighter skin”. The Guardian.
  34. ^ Sheth, Sudev; Jones, Geoffrey; Spencer, Morgan (2021). “Emboldening and Contesting Gender and Skin Color Stereotypes in the Film Industry in India, 1947–1991”. Business History Review (bằng tiếng Anh). 95 (3): 483–515. doi:10.1017/S0007680521000118. ISSN 0007-6805. S2CID 236544369.
  35. ^ Shroff, Hemal; Diedrichs, Phillippa C.; Craddock, Nadia (2018). “Skin Color, Cultural Capital, and Beauty Products: An Investigation of the Use of Skin Fairness Products in Mumbai, India”. Frontiers in Public Health. 5: 365. doi:10.3389/fpubh.2017.00365. ISSN 2296-2565. PMC 5787082. PMID 29410952.
  36. ^ Kukreja, Reena (1 tháng 2 năm 2021). “Colorism as Marriage Capital: Cross-Region Marriage Migration in India and Dark-Skinned Migrant Brides”. Gender & Society (bằng tiếng Anh). 35 (1): 85–109. doi:10.1177/0891243220979633. ISSN 0891-2432. S2CID 231840988.
  37. ^ “Elsevier: Article Locator Error - Article Not Available”. linkinghub.elsevier.com. doi:10.1016/s0037-6337(10)70175-3. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.
  38. ^ “Fair skin obsession: An inferiority complex that needs treatment – News Features | Daily Mirror”. www.dailymirror.lk.
  39. ^ “When Fair isn't fair and Lovely isn't lovely in Sri Lanka – Djed”. 31 tháng 7 năm 2018.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]