Bước tới nội dung

U-33 (tàu ngầm Đức) (1936)

Tàu ngầm U-33 vào năm 1937. Số hiệu trên tháp chỉ huy sẽ bị xóa khi bước vào xung đột.
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-33
Đặt hàng 25 tháng 3, 1935 [1]
Xưởng đóng tàu Germaniawerft, Kiel
Kinh phí 4.189.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 556 [1]
Đặt lườn 1 tháng 9, 1935 [1]
Hạ thủy 11 tháng 6, 1936 [1]
Nhập biên chế 25 tháng 7, 1936 [1]
Số phận Bị tàu quét mìn HMS Gleaner đánh chìm, 12 tháng 2, 1940 [1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIA
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 64,51 m (211 ft 8 in) (chung) [2]
  • 45,50 m (149 ft 3 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 5,85 m (19 ft 2 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) [2]
Mớn nước 4,37 m (14 ft 4 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.100–2.310 PS (1.540–1.700 kW; 2.070–2.280 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 6.200 hải lý (11.500 km; 7.100 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 73–94 hải lý (135–174 km; 84–108 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 220 m (720 ft) [2]
  • 230–250 m (750–820 ft) (độ sâu ép vỡ)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 28 962
Chỉ huy:
  • Đại úy Ottoheinrich Junker
  • 25 tháng 7, 1936 – 28 tháng 10, 1938
  • Đại úy Kurt Freiwald
  • 22 tháng 11 – 20 tháng 12, 1936
  • 3 tháng 6 – 25 tháng 7, 1937
  • Đại úy Hans-Wilhelm von Dresky
  • 29 tháng 10, 1938 – 12 tháng 2, 1940
Chiến dịch:
  • 1 chiến dịch & 3 chuyến tuần tra:
  • Chiến dịch Ursula: 20 tháng 11 - 21 tháng 12, 1936
  • 1: 19 tháng 8 – 28 tháng 9, 1939
  • 2: 29 tháng 10 – 26 tháng 11, 1939
  • 3: 5 – 12 tháng 2, 1940
Chiến thắng:
  • 10 tàu buôn bị đánh chìm
    (19.261 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (3.670 GRT)

U-33 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã can thiệp vào cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, và thực hiện được ba chuyến tuần tra trong Thế Chiến II, đánh chìm được mười tàu buôn với tổng tải trọng 19.261 GRT, đồng thời gây hư hại cho một chiếc khác. I-33 bị tàu quét mìn HMS Gleaner đánh chìm tại cửa biển Firth of Clyde, Scotland vào ngày 12 tháng 2, 1940.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type VII được thiết kế căn bản dựa trên những kiểu tàu ngầm của Đế quốc Đức thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng có trọng lượng choán nước 626 t (616 tấn Anh) khi nổi và 745 t (733 tấn Anh) khi lặn), con tàu có chiều dài chung 64,51 m (211 ft 8 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 45,50 m (149 ft 3 in), mạn tàu rộng 5,58 m (18 ft 4 in), chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) và mớn nước 4,37 m (14 ft 4 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 6 V 40/46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.100–2.310 PS (1.540–1.700 kW; 2.070–2.280 bhp) ở tốc độ vòng quay 470-485 vòng mỗi phút, cho phép đạt tốc độ tối đa 17 kn (31 km/h), và tầm hoạt động tối đa 6.200 nmi (11.500 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 8 kn (15 km/h), và tầm hoạt động 95 nmi (176 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 11 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIA bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

U-33 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 3, 1935,[1] rõ ràng là một vi phạm Hiệp ước Versailles do điều khoản cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 1 tháng 9, 1935,[1] hạ thủy vào ngày 11 tháng 6, 1936.[1] Nó là tàu ngầm Type VIIA đầu tiên được hoàn tất, và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 25 tháng 7, 1936[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Ottoheinrich Junker.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Bị mất[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 2, 1940, U-33 được lệnh rải mìn tại cửa biển Firth of Clyde, Scotland. Tàu rải mìn Anh HMS Gleaner đã phát hiện U-33 vào ngày 12 tháng 2, và đã thả nhiều loạt mìn sâu tấn công trong nhiều giờ liền. Bị hư hại, chiếc tàu ngầm buộc phải trồi lên mặt nước và thủy thủ đoàn bỏ tàu; U-33 đắm không lâu sau đó, 25 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng, và 17 người sống sót bị bắt làm tù binh chiến tranh.[1] Trước khi bỏ tàu, các rotor của máy mật mã Enigma được trao cho vài thành viên để ném xuống biển hầu tránh bị chiếm giữ; nhưng họ đã không kịp làm việc này, nên Hải quân Anh thu giữ được ba rotor, bao gồm rotor VI và VII là những phiên bản chỉ Hải quân Đức sử dụng và chưa từng được biết đến.[6][7]

Tóm tắt chiến công[sửa | sửa mã nguồn]

U-33 đã đánh chìm mười tàu buôn đối phương có tổng tải trọng 19.261 GRT, cùng gây hư hại cho một tàu buôn khác:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[8]
7 tháng 9, 1939 Olivegrove  Anh Quốc 4.060 Bị đánh chìm
16 tháng 9, 1939 Arkelside  Anh Quốc 1.567 Bị đánh chìm
24 tháng 9, 1939 Caldew  Anh Quốc 287 Bị đánh chìm
20 tháng 11, 1939 Delphine  Anh Quốc 250 Bị đánh chìm
20 tháng 11, 1939 Sea Sweeper  Anh Quốc 329 Bị đánh chìm
20 tháng 11, 1939 Thomas Hankins  Anh Quốc 276 Bị đánh chìm
21 tháng 11, 1939 Sulby  Anh Quốc 287 Bị đánh chìm
21 tháng 11, 1939 William Humphries  Anh Quốc 276 Bị đánh chìm
23 tháng 11, 1939 Borkum  Anh Quốc 3.670 Tổn thất toàn bộ
25 tháng 12, 1939 Stanholme  Anh Quốc 2.473 Bị đánh chìm (mìn)
16 tháng 1, 1940 Inverdargle  Anh Quốc 9.456 Bị đánh chìm (mìn)

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m Helgason, Guðmundur. “U-33”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIA”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-33”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–44.
  5. ^ Jung, Maass & Gröner 1991, tr. 39–40.
  6. ^ “HMS Gleaner 1940 Halcyon Class Minesweeper”. www.halcyon-class.co.uk. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ Kemp 1999, tr. 63-4.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-33”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs - The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 19. ISBN 0-304-35203-9.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kahn, David (1991). Seizing the Enigma: The Race to Break the German U-Boats Codes, 1939-1943. Houghton Mifflin Harcourt. ISBN 978-0395427392.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sebag-Montefiore, Hugh (2000). Enigma: The Battle for the Code. Trade Paper Press. tr. 67–77. ISBN 978-0471490357.
  • Westwell, Ian (2004). Condor Legion: The Wehrmacht's Training Ground. Spearhead. 15. Hersham, United Kingdom: Ian Allan publishing. tr. 58. ISBN 978-0-7110-3043-5.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]