Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Huy Quát”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Rudotua (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 9: Dòng 9:
| nơi ở = [[Sài Gòn]], {{flag|Việt Nam Cộng hòa}}
| nơi ở = [[Sài Gòn]], {{flag|Việt Nam Cộng hòa}}
| ngày chết = [[27 tháng 4]], 1979
| ngày chết = [[27 tháng 4]], 1979
| nơi chết = [[Nhà lao Chí Hòa]], [[thành phố Hồ Chí Minh]], {{VIE}}
| nơi chết = [[Nhà lao Chí Hòa]], [[thành phố Hồ Chí Minh]], {{flag|Việt Nam}}
| chức vụ = Tổng trưởng Giáo dục [[Quốc gia Việt Nam]]
| chức vụ = Tổng trưởng Giáo dục [[Quốc gia Việt Nam]]
| bắt đầu = [[2 tháng 7]], 1949
| bắt đầu = [[2 tháng 7]], 1949

Phiên bản lúc 00:53, ngày 28 tháng 1 năm 2019

Phan Huy Quát
Phan Huy Quát tại Paris.
Chức vụ
Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam
Nhiệm kỳ2 tháng 7, 1949 – 22 tháng 1, 1950
Tiền nhiệm?
Kế nhiệm?
Phó Thủ tướngNguyễn Văn Thiệu
Tổng trưởng Quốc phòng Quốc gia Việt Nam
Nhiệm kỳ1950 – 1954
Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
Nhiệm kỳ8 tháng 2, 1964 – ?, 1964
Tiền nhiệmTrần Văn Đỗ
Kế nhiệmTrần Văn Lắm
Nhiệm kỳ16 tháng 2 năm 1965 – 5 tháng 6 năm 1965
Tiền nhiệmNguyễn Xuân Oánh
Kế nhiệmNguyễn Cao Kỳ
Thông tin chung
Sinh12 tháng 6, 1908
Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, xứ Trung Kỳ
Mất27 tháng 4, 1979
Nhà lao Chí Hòa, thành phố Hồ Chí Minh,  Việt Nam
Nơi ởSài Gòn,  Việt Nam Cộng hòa
Dân tộcKinh
Tôn giáoKhông
Đảng chính trị Đại Việt Quốc dân Đảng
VợĐặng Thị Lý
ChaPhan Huy Tùng
Mẹ?
Họ hàngDòng họ Phan Huy
Con cáiPhan Huy Kiểm (trưởng nam)
Phan Huy Bách (thứ nam)
Phan Huy Anh (tam nam)
Phan Mạnh Giao (trưởng nữ)
Phan Mỹ Chương (thứ nữ)
Phan Thị Lâm Hương (tam nữ)
Học vấnCao học
Chữ kýTập tin:?

Phan Huy Quát[1] (1908 - 1979) tự Châu Cử, nguyên quán Hà Tĩnh, là thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ ngày 16 tháng 2 năm 1965 đến ngày 5 tháng 6 năm 1965. Phan Huy Quát đồng thời là thành viên Đại Việt Quốc dân Đảng và Tổng trưởng Quốc phòng Quốc gia Việt Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông tổ chức vượt biên nhưng bị phát hiện, bị tuyên án tù và mất trong nhà lao Chí Hòa ngày 27 tháng 4 năm 1979 do bệnh viêm gan.

Ông có bằng tiến sĩ ngành y khoa.

Tham gia chính phủ Quốc gia Việt Nam

Khi Quốc gia Việt Nam được thành lập, ông làm Tổng trưởng các bộ Giáo dục (1949), Quốc phòng (1950 - 1954) trong các chính phủ Quốc gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại. Sau đó ông lui về hành nghề bác sĩ tại Sài Gòn.

Đảm nhiệm chức Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa

Sau cuộc Đảo chánh 1963, tướng Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên nắm quyền trong thời kỳ quân quản của Việt Nam Cộng hòa nhưng tình hình vẫn nhiều xáo trộn. Vì áp lực của Hội đồng Quân lực, tướng Nguyễn Khánh phải rút khỏi chính trường và chính phủ dân sự được thành lập do ông đứng đầu với cương vị Thủ tướng. Phó thủ tướng là Nguyễn Văn Thiệu. Nội các gồm có Bộ trưởng Thông tin Linh Quang Viên, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Tiến Hỷ, Bộ trưởng Phủ thủ tướng Bùi Diễm, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Đỗ.[2]

Ngày 8/3/1965, Mỹ cho đổ quân lên Đà Nẵng mà không cần lấy ý kiến Việt Nam Cộng hòa. Khi biết tin thì quân Mỹ đã đổ bộ rồi, Phan Huy Quát phải hợp thức hóa việc này bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ thủ tướng là Bùi Diễm làm thông cáo chào mừng quân Mỹ. Phan Huy Quát chỉ đạo "Viết càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi..."[3]

Ngày 25 tháng 5 năm 1965 ông quyết định cải tổ Nội các[4], thay thế một số Tổng trưởng nhưng phe giáo dân Thiên Chúa giáo phản đối. Quốc trưởng Phan Khắc Sửu cũng không đồng tình nên không phê chuẩn.[5] Tình hình bế tắc kéo dài sang tháng 6 vì bất đồng giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát không giải quyết được; chính phủ hoàn toàn bị tê liệt.

Ngày 11 tháng 6, ông triệu tập hội đồng chính phủ để giải quyết nhưng không đạt được thỏa hiệp nào nên ông ra lệnh giải tán chính phủ và từ chức Thủ tướng. Các tướng lãnh tiếp thu chính quyền và đặt hai cơ quan: Ủy ban Hành pháp Trung ươngỦy ban lãnh đạo Quốc gia. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Ủy ban lãnh đạo Quốc gia với cương vị quốc trưởng trong khi Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương với cương vị Thủ tướng cho tới khi thành lập nền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam vào năm 1967.

Bị bắt và qua đời

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình bị kẹt lại ở Việt Nam do không kịp lên máy bay Mỹ di tản. Ông không ra trình diện theo lệnh của chính quyền mới và sống trốn tránh trong một thời gian ngắn, sau đó tìm cách tổ chức vượt biên. Trên đường vượt biên, ông bị phát hiện, bắt giữ cùng con trai út là Phan Huy Anh, bị tuyên án tù rồi mất tại nhà lao Chí Hòa[6] vì bệnh viêm gan vào ngày 27 tháng 4 năm 1979.

Xem thêm

Tham khảo