Bước tới nội dung

Vũ Văn Mẫu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giáo sư

Vũ Văn Mẫu
Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa
Nhiệm kỳ
28 tháng 4 năm 1975 – 30 tháng 4 năm 1975
(2 ngày)
Tiền nhiệmNguyễn Bá Cẩn
Kế nhiệmKhông có, Chế độ sụp đổ
Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa
Nhiệm kỳ
1972–1975
Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn
Nhiệm kỳ
1967 – Không rõ
Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
Nhiệm kỳ
1955 – 21 tháng 8 năm 1963
Tiền nhiệmChức vụ thành lập
Kế nhiệmPhạm Đăng Lâm
Tổng trưởng Ngoại giao Quốc gia Việt Nam
Nhiệm kỳ
10 tháng 5 năm 1955 – 23 tháng 10 năm 1955
166 ngày
Tiền nhiệmTrần Văn Đỗ
Trưởng khoa Luật, Viện Đại học Sài Gòn
Nhiệm kỳ
1955 – Không rõ
Giảng sư Luật Trường Đại học Luật Đông Dương
Nhiệm kỳ
1949 – Không rõ
Tri huyện Đông Anh, Phúc Yên
Tri huyện Gia Bình, Bắc Ninh
Tri huyện Gia Khánh, Ninh Bình
Thông tin cá nhân
Sinh25 tháng 7 năm 1914
Quất Động, Thường Tín, Hà Đông, Liên bang Đông Dương
Mất20 tháng 8 năm 1998(1998-08-20) (84 tuổi)
Paris, Pháp
Nguyên nhân mấtTuổi già
Đảng chính trịLiên danh Hoa Sen, Khối Dân tộc
Phối ngẫuHoàng Thị Nguyệt My
Con cái
Người thân
Giáo dụcTiến sĩ Luật, Luật gia
Alma mater
Nghề nghiệpLuật sư, chính trị gia, giáo sư

Vũ Văn Mẫu (19141998) là học giả lớn về Luật Việt Nam, chính trị gia nổi tiếng trước năm 1975Sài Gòn. Ông từng là Thượng Nghị sĩ trong Liên danh Hoa Sen, Khối Dân tộc, từng giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao rồi làm "Thủ tướng 1 ngày" của Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra ông còn là Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn, giáo sư thực thụ trường Đại học Luật khoa Sài Gòn.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thân thế

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1914 tại làng Quất Động, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quất Động, huyện Thường Tín thuộc về thành phố Hà Nội) trong một gia đình tư sản. Nhà ông vốn có nghề thêu, sớm rời quê hương ra định cư ở Hà Nội, mở cửa hàng thêu, hiệu Phúc Thái ở 24 phố Hàng Nón. Ông là con thứ hai trong nhà, trên ông là một bà chị, dưới ông còn 2 em trai và 2 em gái. Cụ thân sinh không may mất sớm, mẹ ông ở vậy, một mình tần tảo nuôi 6 con ăn học nên người. 3 anh em gồm Luật sư Vũ Văn Mẫu và Tiến sĩ Lý Hóa Vũ Như Canh, dược sĩ Vũ Thị Sửu mở hiệu thuốc tây ở phố Hàng Da.

Ông thông minh, học giỏi, thi đỗ vào trường Bưởi. Sau khi đỗ Tú tài I, ông nộp đơn thi vào trường Albert Sarraut theo học lớp Toán sơ cấp (Math. Elem), năm 1934 ở tuổi 20 đỗ Bac. Math. hạng Bình thứ (mention Assez Bien), không có ai đỗ hạng Bình (mention Bien). Như mọi thanh niên thuộc gia đình danh giá thời bấy giờ, ông được gia đình đưa sang học ở Pháp và tốt nghiệp Đại học Luật khoa Paris, Pháp. Ông tiếp tục theo học tại đây cho đến khi lấy được bằng Thạc sĩ và trở về hành nghề luật tại Hà Nội.

Từ năm 1934 đến năm 1937, ông theo học luật tại Trường Đại học Luật Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương. Đỗ Cử nhân Luật rồi ông thi tri huyện, được bổ làm tri huyện huyện Gia Khánh (Ninh Bình), sau chuyển đến Gia Bình (Bắc Ninh). Ông nuôi chí tiếp tục học, đăng ký học Cao học ở trường Đại học Luật, thường đạp xe về thư viện trường Luật mượn tài liệu tự học tập nghiên cứu, thi đỗ luôn 2 bằng Cao học, trong đó có bằng Cao học Kinh tế. Thống sứ Bắc Kỳ thông cảm với ông tri huyện trẻ ham học, chuyển ông về làm tri huyện Đông Anh, gần Hà Nội hơn.

Vợ ông thuộc gia đình gia giáo, danh giá, là bà Hoàng Thị Nguyệt My, con gái cụ Cử Sen Hồ Hoàng Gia Luận (em trai Tổng đốc Hà đông Hoàng Trọng Phu).

Sau Cách mạng Tháng Tám ông ở nhà, âm thầm chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của giáo sư Camerlynck, năm 1948 sang Paris bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Luật; trở về nước, ông được mời làm giảng sư Luật ở Trường Đại học Luật Đông Dương.

Sau đó ông về nước, tiếp tục giảng dạy ở Trường Đại học Luật Đông Dương; em ông, Tiến sĩ Lý Hóa Vũ Như Canh, cũng đã rời Đại học Paris về dạy ở trường Đại học Khoa học Hà Nội từ hai năm trước.

Trưởng khoa Luật đầu tiên Đại học Sài Gòn

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1954, theo hiệp định Genève (7-1954) Việt Nam bị chia cắt làm 2 miền, ông di tản vào Sài Gòn, trong khi em ông, Tiến sĩ Vũ Như Canh, quyết định ở lại Hà Nội. Vào Sài Gòn, ông được bổ làm Chánh Nhất Tòa Phá Án, đồng thời tham gia giảng dạy ở khoa Luật trường Đại học Sài Gòn, làm Trưởng khoa Luật, trưởng khoa đầu tiên người Việt Nam. Ông nổi tiếng là một học giả lớn về Luật, là chuyên gia về Dân Luật và Cổ Luật, thành thạo nhiều ngoại ngữ Pháp, Anh, La Tinh, Hán, uyên thâm cả về cựu học lẫn tân học, được đồng nghiệp kính trọng, sinh viên tín nhiệm, quý mến.

Trở thành Bộ trưởng Ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi thực hiện cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tân tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và mời ông giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ chức vụ này trong 8 năm, từ 1955 đến 1963. Trong cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, ông đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối.[1] Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.

Mâu thuẫn với chế độ Ngô Đình Diệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Vốn là một nhà nghiên cứu về luật học, ông không quan tâm nhiều đến những biến động của thời cuộc bấy giờ. Tuy nhiên, là một Phật tử với pháp danh Minh Không, ông ra sức phản đối những biện pháp đàn áp khốc liệt của chính phủ Ngô Đình Diệm với Phật giáo. Ông cạo trọc đầu và sau đó từ chức Bộ trưởng ngày 22 tháng 8 năm 1963 để phản đối hành động tấn công các chùa Phật giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm.

Trở về Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Suốt thời gian biến động miền Nam 1964-1967, ông hoàn toàn không tham gia vì công tác ở đại sứ tại nước ngoài. Mãi đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền tổng thống, ông mới được triệu hồi về nước. Ông trở thành Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1972, ông tranh cử Thượng nghị sĩ trong liên danh Hoa Sen và đắc cử.

Thủ tướng 1 ngày

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt nhiệm kỳ của mình, ông luôn hoạt động tích cực cho phong trào hòa bình và hòa giải cho dân tộc. Chính vì vậy, khi tướng Dương Văn Minh trở thành tổng thống, ông được đề cử cho chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa với mục đích tham gia thương lượng chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, ông chỉ ở trong chức vụ chỉ vỏn vẹn được một ngày thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trước sức tiến công của quân đội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông phải cùng tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu thêm nữa.

Cuối đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng như tướng Dương Văn Minh, ông là người ôn hòa, ủng hộ chủ trương bàn giao cho chính quyền quân Giải phóng. Do vậy, chính quyền Cách mạng chỉ thực hiện các biện pháp giám sát nhưng không khắt khe với ông. Sau khi tình hình ổn định, ông được cho phép xuất cảnh sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.

Ông là một học giả lớn về luật của Việt Nam, uyên thâm cựu và tân học, biết nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hán và là một giáo sư giảng giải luật rất hấp dẫn. Tác phẩm của ông còn được René David và John E.C Brierley trích dẫn trong cuốn sách nổi tiếng về luật so sánh Major Legal Systems in the World Today.

Gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông bà sinh hạ được 5 con, tất cả đều thành đạt, hầu hết định cư ở Pháp. Ái nữ là bà Vũ Thị Việt Hương theo nghề của cha, thi đỗ vào trường Đại học Luật Sài Gòn, rồi đỗ Tiến sĩ Luật, trở về trường cũ giảng dạy, chuyên về Luật Quốc tế và Luật Đối sánh.

Trước tác tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Dân luật khái luận, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
  • Dân luật lược giảng, 2 tập, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
  • Pháp luật diễn giảng, 2 tập, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
  • Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giảng, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, 1973
  • Cổ luật Việt Nam thông khảo, 2 tập, 1974
  • Tiểu từ điển luật và kinh tế 350 trang; đồng tác giả với Hồ Thới Sanh, Lê Đình Chân, Lưu Văn Bình, Nguyễn Cao Hách, 1973
  • Tự điển Hiến luật và Dân luật, đồng tác giả với Lê Đình Chân
  • Tự điển Pháp-Việt: pháp chính kinh tài xã hội 895 trang; Viện Đại học Vạn hạnh xuất bản, 1970
  • Tự điển Pháp-Việt: pháp luật, chính trị và kinh tế 125 trang, 1955.

Năm 1989 khi lấy hiệu là Minh Không, ông có viết bộ sách nói về "Hành trình mở cõi của dân tộc Việt" gồm 3 tập:

  • Tập 1: Việt - ChămPa
  • Tập 2: Việt - Phù Nam
  • Tập 3: Việt - Campuchia

Sách được đánh máy trên khổ giấy A4, không rõ ông đã hoàn thành chưa.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]