Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Trọng Hợp”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ASM~viwiki (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{cần biên tập}}
{{cần biên tập}}
'''Nguyễn Trọng Hợp''' ([[1834]] - [[1902]]), là quan nhà Nguyễn trải qua bảy triều vua từ Tự Đức đến Thành Thái, đại thần nhà Nguyễn chủ chốt trong việc nghị hòa với người Pháp.
'''Nguyễn Trọng Hợp''' ([[1834]] - [[1902]]), chữ Hán là 阮 仲 合, hiệu là Kim Giang, tên thật là '''Nguyễn Tuyên''', sau dùng tên tự là Trọng Hợp nên thường được gọi là Nguyễn Trọng Hợp <ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXXI, trang 915.</ref>, người xã [[Kim Lũ]], huyện [[Thanh Trì]], nay là phường Đại Kim quận [[Hoàng Mai, Hà Nội|Hoàng Mai]] [[Hà Nội]], thi đỗ [[Cử nhân]] tại trường Hà Nội, khoa [[Mậu Ngọ]] ([[1858]]) [[Tự Đức]] thứ 11. Sau đó ông đỗ [[Quốc triều khoa bảng lục|Tiến sĩ]] khóa [[Ất Sửu]] ([[1865]]), làm quan dưới bảy đời vua từ Tự Đức đến [[Thành Thái]], với chức từ [[tri phủ]] đến chức [[kinh lược]] [[Bắc Kỳ]] ([[1886]]), [[Thượng thư]] [[bộ Lại]] ([[1887]]), Tổng tài [[Quốc sử quán (triều Nguyễn)|Quốc sử quán]], Đại thần Cơ Mật viện, Văn Minh Đại học sĩ, Phụ chánh vua Thành Thái ([[1889]]-[[1897]]). Nguyễn Trọng Hợp là một trong những đại thần chủ chốt trong việc nghị hòa với người [[Pháp]], khi Pháp xâm lược [[Việt Nam]].


Ông có chữ Hán là 阮 仲 合, hiệu là Kim Giang, tên thật là '''Nguyễn Tuyên''', sau dùng tên tự là Trọng Hợp nên thường được gọi là Nguyễn Trọng Hợp <ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXXI, trang 915.</ref>,
== Tiểu sử ==

Nguyễn Trọng Hợp cũng như các đại thần khác dưới triều Nguyễn được ghi trong sách [[Đại Nam chính biên liệt truyện]] và [[Đại Nam thực lục]]. Năm 1996, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cùng Hội sử học Hà Nội xuất bản một cuốn sách ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp''. Thêm nữa báo ''Chim Viêt Cành Nam'', dưới ngòi bút của Nguyễn Đắc Xuân<ref name ="Nguyễn Đắc Xuân">[http://chimviet.free.fr/lichsu/chung/ndxs052.htm "Nguyễn Đắc Xuân": Đại thần Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) một nhân cách lớn thời Nguyễn suy tàn]</ref> cũng góp ý kiến về Nguyễn Trọng Hợp. Ngoài những tài liệu kề trên, có sách báo lịch sử xuất bản ở nước ngoài cũng là tài liệu nói đến Nguyễn Trọng Hợp{{fact}}.
==Quê quán==
Ông người xã [[Kim Lũ]], huyện [[Thanh Trì]], phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội, nay là phường Đại Kim quận [[Hoàng Mai, Hà Nội|Hoàng Mai]] [[Hà Nội]], thi đỗ [[Cử nhân]] tại trường Hà Nội, khoa [[Mậu Ngọ]] ([[1858]]) [[Tự Đức]] thứ 11.


=== Thân thế ===
Ông là con của Nguyễn Cư (1798-1852)<ref name ="Nhị tập">Xem "Đại Nam chính biên liệt truyện" - "Nhị tập", Quyển 30 Tập 20 tr. 119</ref>, đỗ [[Cử nhân]] năm [[Tân Mão]] (1831){{fact}}, làm quan đến chức Ngự sĩ. Nguyễn Trọng Hợp là cháu bốn đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa [[Ất Mùi|Ất Vị]] (1715), làm quan đến chức [[Tể tướng]] (năm lần)<ref>Tạp chí ''Xưa và Nay'', số 223 tháng 11-2004, tr. VI và VIII</ref>.
Ông là con của Nguyễn Cư (1798-1852)<ref name ="Nhị tập">Xem "Đại Nam chính biên liệt truyện" - "Nhị tập", Quyển 30 Tập 20 tr. 119</ref>, đỗ [[Cử nhân]] năm [[Tân Mão]] (1831){{fact}}, làm quan đến chức Ngự sĩ. Nguyễn Trọng Hợp là cháu bốn đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa [[Ất Mùi|Ất Vị]] (1715), làm quan đến chức [[Tể tướng]] (năm lần)<ref>Tạp chí ''Xưa và Nay'', số 223 tháng 11-2004, tr. VI và VIII</ref>.


Nguyễn Trọng Hợp là học trò của cụ Đông Tác Tiến sĩ [[Nguyễn Văn Lý (nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Lý]]. Sau khi đỗ cử nhân (1858) Nguyễn Trọng Hợp được [[Tùng Thiện Vương]], một ông hoàng con của vua [[Minh Mạng]], đem về nuôi dạy trong nhà<ref name ="Nhị tập"/><ref name ="Nguyễn Đắc Xuân"/> cho đến khi đi làm quan.
Nguyễn Trọng Hợp là học trò của cụ Đông Tác Tiến sĩ [[Nguyễn Văn Lý (nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Lý]]. Sau khi đỗ cử nhân (1858) Nguyễn Trọng Hợp được [[Tùng Thiện Vương]], một ông hoàng con của vua [[Minh Mạng]], đem về nuôi dạy trong nhà<ref name ="Nhị tập"/><ref name ="Nguyễn Đắc Xuân"/> cho đến khi đi làm quan.


Sau đó ông đỗ [[Quốc triều khoa bảng lục|Tiến sĩ]] khóa [[Ất Sửu]] ([[1865]]), làm quan dưới bảy đời vua từ Tự Đức đến [[Thành Thái]], với chức từ [[tri phủ]] đến chức [[kinh lược]] [[Bắc Kỳ]] ([[1886]]), [[Thượng thư]] [[bộ Lại]] ([[1887]]), Tổng tài [[Quốc sử quán (triều Nguyễn)|Quốc sử quán]], Đại thần Cơ Mật viện, Văn Minh Đại học sĩ, Phụ chánh vua Thành Thái ([[1889]]-[[1897]]).
=== Thương thuyết với Pháp năm 1873, Tổng đốc Định-Yên ===

Năm 1865, sau khi đỗ tiến sĩ, Nguyễn Trọng Hợp làm Tri phủ [[Xuân Trường]] rồi Phủ doãn [[Thừa Thiên-Huế|Thừa Thiên]]<ref name="Nguyễn Văn Huyến">Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr.34-41, tác giả Nguyễn Văn Huyến</ref><ref name ="Nhị tập"/>. Năm 1873 khi [[Francis Garnier]] vừa chiếm đóng thành Hà Nội, ông được vua Tự Đức phái ra Bắc để cùng Trần Đình Túc và [[Bùi Ân Niên]] lo việc chiêu tập quân dân để đối phó với quân đội chiếm đóng<ref name ="Nguyễn Văn Huyến"/><ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1415.</ref>. Lúc quân Pháp đánh chiếm [[Hưng Yên]], [[Nam Định]] và mấy tỉnh khác vua sai [[Trần Đình Túc]] và Nguyễn Trọng Hợp đi bàn hội với Pháp ở [[Hà Nội]]<ref name="Nguyễn Trọng Hợp">Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr. 42-53</ref><ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1421.</ref>. Trong khi đang thương thuyết thì [[Francis Garnier]] bỏ ra ngoài thành đi đánh nhau với quân cờ đen của [[Lưu Vĩnh Phúc]] rồi bị giết ở [[Cầu Giấy]]<ref>[http://www.quehuong.org.vn/vi/nr050307131435/nr050106094245/nr050113095211/ns061103110205 Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương IX. Quân nước Pháp lấy Bắc Kỳ]</ref>. Garnier chết, quân tướng Pháp mất hết nhuệ khí, nhưng bề ngoài vẫn muốn giữ thể diện, nên đã bầu ra một viên quan hai lo việc đàm phán. Trần Đình Túc cho là người Pháp thôi tranh chiếm, sợ mất hòa khí, liền sai Nguyễn Trọng Hợp và [[Trương Gia Hội]] đến nơi quân thứ yêu cầu [[Hoàng Tá Viêm]] và [[Tôn Thất Thuyết]] án binh bất động và rút cánh quân của Lưu Vĩnh Phúc về vùng biên giới<ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1423.</ref>.
Con đường quan lộ của ông khá suôn sẻ, Nguyễn Trọng Hợp làm Tri phủ [[Xuân Trường]] rồi Phủ doãn [[Thừa Thiên-Huế|Thừa Thiên]]<ref name="Nguyễn Văn Huyến">Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr.34-41, tác giả Nguyễn Văn Huyến</ref><ref name ="Nhị tập"/>.

Năm 1873 khi [[Francis Garnier]] vừa chiếm đóng thành Hà Nội, ông được vua Tự Đức phái ra Bắc để cùng Trần Đình Túc và [[Bùi Ân Niên]] lo việc chiêu tập quân dân để đối phó với quân đội chiếm đóng<ref name ="Nguyễn Văn Huyến"/><ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1415.</ref>. Lúc quân Pháp đánh chiếm [[Hưng Yên]], [[Nam Định]] và mấy tỉnh khác vua sai [[Trần Đình Túc]] và Nguyễn Trọng Hợp đi bàn hội với Pháp ở [[Hà Nội]]<ref name="Nguyễn Trọng Hợp">Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr. 42-53</ref><ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1421.</ref>. Trong khi đang thương thuyết thì [[Francis Garnier]] bỏ ra ngoài thành đi đánh nhau với quân cờ đen của [[Lưu Vĩnh Phúc]] rồi bị giết ở [[Cầu Giấy]]<ref>[http://www.quehuong.org.vn/vi/nr050307131435/nr050106094245/nr050113095211/ns061103110205 Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương IX. Quân nước Pháp lấy Bắc Kỳ]</ref>.

Garnier chết, quân tướng Pháp mất hết nhuệ khí, nhưng bề ngoài vẫn muốn giữ thể diện, nên đã bầu ra một viên quan hai lo việc đàm phán. Trần Đình Túc cho là người Pháp thôi tranh chiếm, sợ mất hòa khí, liền sai Nguyễn Trọng Hợp và [[Trương Gia Hội]] đến nơi quân thứ yêu cầu [[Hoàng Tá Viêm]] và [[Tôn Thất Thuyết]] án binh bất động và rút cánh quân của Lưu Vĩnh Phúc về vùng biên giới<ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1423.</ref>.


Sau [[Hòa ước Giáp Tuất]] (1874) Nguyễn Trọng Hợp được bổ ra làm [[Tổng đốc]] Định-Yên (tức [[Nam Định]], [[Thái Bình]], [[Hưng Yên]] ngày nay)<ref>Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr. 188</ref>. Theo ''Đại Nam thực lục'' thì ngay từ tháng chạp năm [[Quý Dậu]] (tức đầu năm 1874), Nguyễn Trọng Hợp đang giữ chức [[Tuần phủ]] Hà Nội, cùng Trần Đình Túc đang là Tổng đốc Định-Yên, đổi chức cho nhau để Trọng Hợp về Định-Yên, còn Đình Túc về Hà-Ninh<ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1428.</ref>. Trong bảy năm trời ông giữ chức vụ với một cách nghiêm nghị và công bằng đối với dân chẳng hạn như: giảm thuế, cho dân quê được giải ngũ để về làm ruộng<ref name ="Nguyễn Văn Huyến"/><ref name ="Nguyễn Vĩnh Phúc">Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr.137-146, tác giả Bùi Thành và Nguyễn Vĩnh Phúc</ref>. Ông phản đối chuyện giao cho các "công ty" độc quyền thu thuế v.v... Đánh giá về Nguyễn Trọng Hợp báo ''Hà Nội Mới'' điện tử có viết: "''...Nguyễn Trọng Hợp làm quan vào giai đoạn thực dân Pháp đã đánh chiếm xong miền Bắc và đặt ách thống trị lên toàn đất nước ta. Trong suốt cuộc đời làm quan, tuy không thuộc phe chủ chiến song theo nhìn nhận của các nhà sử học Nguyễn Trọng Hợp là ông quan yêu nước, thương dân, đồng thời là một nhà văn hóa có những cống hiến đáng kể về phương diện sử học, văn học...''"<ref>[http://www.hanoimoi.com.vn/vn/43/23658/ Bài báo "Di tích lịch sử cấp quốc gia lăng mộ và nhà thờ Nguyễn Trọng Hợp: Mười năm trời hoang phế" trên báo ''Hà Nội Mới'' điện tử]</ref>.
Sau [[Hòa ước Giáp Tuất]] (1874) Nguyễn Trọng Hợp được bổ ra làm [[Tổng đốc]] Định-Yên (tức [[Nam Định]], [[Thái Bình]], [[Hưng Yên]] ngày nay)<ref>Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr. 188</ref>. Theo ''Đại Nam thực lục'' thì ngay từ tháng chạp năm [[Quý Dậu]] (tức đầu năm 1874), Nguyễn Trọng Hợp đang giữ chức [[Tuần phủ]] Hà Nội, cùng Trần Đình Túc đang là Tổng đốc Định-Yên, đổi chức cho nhau để Trọng Hợp về Định-Yên, còn Đình Túc về Hà-Ninh<ref>Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1428.</ref>. Trong bảy năm trời ông giữ chức vụ với một cách nghiêm nghị và công bằng đối với dân chẳng hạn như: giảm thuế, cho dân quê được giải ngũ để về làm ruộng<ref name ="Nguyễn Văn Huyến"/><ref name ="Nguyễn Vĩnh Phúc">Xem ''Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp'', tr.137-146, tác giả Bùi Thành và Nguyễn Vĩnh Phúc</ref>. Ông phản đối chuyện giao cho các "công ty" độc quyền thu thuế v.v... Đánh giá về Nguyễn Trọng Hợp báo ''Hà Nội Mới'' điện tử có viết: "''...Nguyễn Trọng Hợp làm quan vào giai đoạn thực dân Pháp đã đánh chiếm xong miền Bắc và đặt ách thống trị lên toàn đất nước ta. Trong suốt cuộc đời làm quan, tuy không thuộc phe chủ chiến song theo nhìn nhận của các nhà sử học Nguyễn Trọng Hợp là ông quan yêu nước, thương dân, đồng thời là một nhà văn hóa có những cống hiến đáng kể về phương diện sử học, văn học...''"<ref>[http://www.hanoimoi.com.vn/vn/43/23658/ Bài báo "Di tích lịch sử cấp quốc gia lăng mộ và nhà thờ Nguyễn Trọng Hợp: Mười năm trời hoang phế" trên báo ''Hà Nội Mới'' điện tử]</ref>.


Trong mấy năm ấy Nguyễn Trọng Hơp lên rất nhiều sớ {{fact}} xin mở rộng thông thương buôn bán, học hỏi khoa học kỹ thuật của nước ngoài, gửi sứ bộ đến các nước ngoài và đặt lãnh sự trong Việt Nam<ref name ="Nguyễn Vĩnh Phúc"/>. " Ông có một thái độ cởi mở đối với một số nhà Nho đường thời ": đó là cái nhìn nhận của nghiên cứu viên Phạm Văn Thám {{fact}}.
Trong mấy năm ấy Nguyễn Trọng Hơp lên rất nhiều tấu sớ xin mở rộng thông thương buôn bán, học hỏi khoa học kỹ thuật của nước ngoài, gửi sứ bộ đến các nước ngoài và đặt lãnh sự trong Việt Nam<ref name ="Nguyễn Vĩnh Phúc"/>. " Ông có một thái độ cởi mở đối với một số nhà Nho đường thời ": đó là cái nhìn nhận của nghiên cứu viên Phạm Văn Thám {{fact}}.


=== Ký hòa ước Quý Mùi ===
=== Ký hòa ước Quý Mùi ===

Phiên bản lúc 13:10, ngày 13 tháng 10 năm 2012

Nguyễn Trọng Hợp (1834 - 1902), là quan nhà Nguyễn trải qua bảy triều vua từ Tự Đức đến Thành Thái, đại thần nhà Nguyễn chủ chốt trong việc nghị hòa với người Pháp.

Ông có chữ Hán là 阮 仲 合, hiệu là Kim Giang, tên thật là Nguyễn Tuyên, sau dùng tên tự là Trọng Hợp nên thường được gọi là Nguyễn Trọng Hợp [1],

Quê quán

Ông người xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội, nay là phường Đại Kim quận Hoàng Mai Hà Nội, thi đỗ Cử nhân tại trường Hà Nội, khoa Mậu Ngọ (1858) Tự Đức thứ 11.

Ông là con của Nguyễn Cư (1798-1852)[2], đỗ Cử nhân năm Tân Mão (1831)[cần dẫn nguồn], làm quan đến chức Ngự sĩ. Nguyễn Trọng Hợp là cháu bốn đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa Ất Vị (1715), làm quan đến chức Tể tướng (năm lần)[3].

Nguyễn Trọng Hợp là học trò của cụ Đông Tác Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý. Sau khi đỗ cử nhân (1858) Nguyễn Trọng Hợp được Tùng Thiện Vương, một ông hoàng con của vua Minh Mạng, đem về nuôi dạy trong nhà[2][4] cho đến khi đi làm quan.

Sau đó ông đỗ Tiến sĩ khóa Ất Sửu (1865), làm quan dưới bảy đời vua từ Tự Đức đến Thành Thái, với chức từ tri phủ đến chức kinh lược Bắc Kỳ (1886), Thượng thư bộ Lại (1887), Tổng tài Quốc sử quán, Đại thần Cơ Mật viện, Văn Minh Đại học sĩ, Phụ chánh vua Thành Thái (1889-1897).

Con đường quan lộ của ông khá suôn sẻ, Nguyễn Trọng Hợp làm Tri phủ Xuân Trường rồi Phủ doãn Thừa Thiên[5][2].

Năm 1873 khi Francis Garnier vừa chiếm đóng thành Hà Nội, ông được vua Tự Đức phái ra Bắc để cùng Trần Đình Túc và Bùi Ân Niên lo việc chiêu tập quân dân để đối phó với quân đội chiếm đóng[5][6]. Lúc quân Pháp đánh chiếm Hưng Yên, Nam Định và mấy tỉnh khác vua sai Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp đi bàn hội với Pháp ở Hà Nội[7][8]. Trong khi đang thương thuyết thì Francis Garnier bỏ ra ngoài thành đi đánh nhau với quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc rồi bị giết ở Cầu Giấy[9].

Garnier chết, quân tướng Pháp mất hết nhuệ khí, nhưng bề ngoài vẫn muốn giữ thể diện, nên đã bầu ra một viên quan hai lo việc đàm phán. Trần Đình Túc cho là người Pháp thôi tranh chiếm, sợ mất hòa khí, liền sai Nguyễn Trọng Hợp và Trương Gia Hội đến nơi quân thứ yêu cầu Hoàng Tá ViêmTôn Thất Thuyết án binh bất động và rút cánh quân của Lưu Vĩnh Phúc về vùng biên giới[10].

Sau Hòa ước Giáp Tuất (1874) Nguyễn Trọng Hợp được bổ ra làm Tổng đốc Định-Yên (tức Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên ngày nay)[11]. Theo Đại Nam thực lục thì ngay từ tháng chạp năm Quý Dậu (tức đầu năm 1874), Nguyễn Trọng Hợp đang giữ chức Tuần phủ Hà Nội, cùng Trần Đình Túc đang là Tổng đốc Định-Yên, đổi chức cho nhau để Trọng Hợp về Định-Yên, còn Đình Túc về Hà-Ninh[12]. Trong bảy năm trời ông giữ chức vụ với một cách nghiêm nghị và công bằng đối với dân chẳng hạn như: giảm thuế, cho dân quê được giải ngũ để về làm ruộng[5][13]. Ông phản đối chuyện giao cho các "công ty" độc quyền thu thuế v.v... Đánh giá về Nguyễn Trọng Hợp báo Hà Nội Mới điện tử có viết: "...Nguyễn Trọng Hợp làm quan vào giai đoạn thực dân Pháp đã đánh chiếm xong miền Bắc và đặt ách thống trị lên toàn đất nước ta. Trong suốt cuộc đời làm quan, tuy không thuộc phe chủ chiến song theo nhìn nhận của các nhà sử học Nguyễn Trọng Hợp là ông quan yêu nước, thương dân, đồng thời là một nhà văn hóa có những cống hiến đáng kể về phương diện sử học, văn học..."[14].

Trong mấy năm ấy Nguyễn Trọng Hơp lên rất nhiều tấu sớ xin mở rộng thông thương buôn bán, học hỏi khoa học kỹ thuật của nước ngoài, gửi sứ bộ đến các nước ngoài và đặt lãnh sự trong Việt Nam[13]. " Ông có một thái độ cởi mở đối với một số nhà Nho đường thời ": đó là cái nhìn nhận của nghiên cứu viên Phạm Văn Thám [cần dẫn nguồn].

Ký hòa ước Quý Mùi

Năm 1881, Nguyễn Trọng Hợp được vào kinh giữ chức Tham tri bộ Lại[15], rồi Thượng thư bộ Lại và Thương bạc đại thần[16]. Trong khi ấy chính quyền nước Pháp, dưới thời các thủ tướng Jules FerryLéon Gambetta, nhấn mạnh chính sách đô hộ, và trong đó đánh chiếm Việt Nam là một mục tiêu rõ rệt[17]. Cho nên Henri Rivière với 500 quân lính đánh chiếm thành Hà Nội ngày 25 tháng 4 năm 1882, rồi mỏ Hồng Gai tỉnh Quảng Yên, thành Nam Định[7][18] (27 tháng 3 năm 1883)[19]. Sau khi Henri Rivière bị giết, quân Pháp ùa sang Việt Nam với 4.000 lính và bắt đầu tấn công cửa biển Thuận An (18 tháng 8 năm 1883). Bên triều đình Huế lại lúng túng vì vua Tự Đức mới mất (19 tháng 7 năm 1883). Vua Hiệp Hòa vừa lên ngôi liền vội cử Nguyễn Trọng Hợp sang thương thuyết vào ngày 20 tháng 8 năm 1883 nhưng bấy giờ đã quá trễ vì quân Pháp đã đổ bộ lên bờ. Ngày 22 tháng 8, Harmand đưa ra bản hiệp ước và đe dọa tiếp tục gây hấn. Nguyễn Trọng Hợp cùng Chánh sứ Trần Đình Túc bất lực, không làm gì được hơn là thêm bốn chữ "kể cả Trung quốc"[4] nên đành phải ký hiệp ước Quý Mùi (25 tháng 8 năm 1883). Hiệp ước này thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, đồng thời chấp nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc KỳTrung Kỳ, chính thức chấm dứt nền độc lập của Việt Nam[20]. Ký xong, vua Hiệp Hoà lại cử Khâm sai Nguyễn Trọng Hợp ra Bắc vì ở vùng này quân Pháp và quân Thanh vẫn còn giao chiến. Nguyễn Trọng Hợp xin vua triệu Hoàng Tá Viêm, đang kháng cự quân Pháp ở vùng Sơn-Hưng-Tuyên, về kinh và khéo léo [cần dẫn nguồn] (nhận định chủ quan của người viết)

để Pháp tự lo liệu với quân nhà Thanh, theo như bốn chữ đã nói trên. Lịch sử Pháp cho ta biết rằng 16 tháng sau (tháng 3-1885) cuộc thất bại của quân đội Pháp ở Lạng Sơn (cũng vì bốn chữ ấy) lật đổ chính phủ Jules Ferry và làm xáo trộn đường lối chính trị nước Pháp đến mức mà nhà sử học Pháp Charles Fourniau viết[21] (tạm dịch): "Ta có thể nói rằng cái chính trị của Cộng hòa đệ Tam Pháp mất tiêu ở Lạng Sơn giống như cái chết của Cộng hòa đệ Tứ ở Điện Biên Phủ?" [cần dẫn nguồn].

Làm quan Kinh lược thời thuộc Pháp

Lúc vua Hiệp Hòa mất (23-11-1883) Nguyễn Trọng Hợp còn ở ngoài Bắc. Sau khi vua Kiến Phúc lên ngôi (2-12-1883), Nguyễn Trọng Hợp về kinh đem việc thương thuyết không kết quả xin giải chức đợi tội[22]. Tháng 2 năm 1884 ông về Thanh Hóa hạ chức xuống Sơn phòng phó sứ cho đến tháng 8 năm 1884. Sau đó ông làm Tổng đốc Sơn-Hưng cho đến tháng 4 năm 1886 [23]. Cùng lúc ấy Hiệp ước Patenôtre (6-6-1884) được ký, và một tháng sau vua Kiến Phúc mất (31-7-1884), vua Hàm Nghi lên ngôi (2-8-1884). Nguyễn Trọng Hợp không có mặt ở kinh thành lúc cuộc tấn công sứ quán Pháp thất bại (5-7-1885). Sau đó phong trào Cần Vương nổi lên. Khi Đồng Khánh lên ngôi (19-9-1885) vua gọi Nguyễn Hữu Độ về kinh và đưa Nguyễn Trọng Hợp lên thay Nguyễn Hữu Độ với chức Kinh lược Bắc Kỳ.

Thời gian này, phong trào Cần Vương kháng Pháp, vốn do vua Hàm NghiTôn Thất Thuyết khởi xướng, vẫn còn nổ ra ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tại vùng Bãi Sậy khi đó thuộc Hải Dương, quan Tán tương quân vụ là Nguyễn Thiện Thuật và Đề đốc Tạ Hiện còn kháng cự người Pháp quyết liệt. Nguyễn Trọng Hợp, lấy danh nghĩa là quyền kinh lược sứ Bắc Kỳ, đã sai quyền Tổng đốc Hải Dương là Hoàng Cao Khải làm chức Tiểu phủ sứ đi đánh dẹp Khởi nghĩa Bãi Sậy[24].

Nguyễn Trọng Hợp vẫn giữ chức kinh lược sứ Bắc Kỳ khi Paul Bert thay de Courcy làm Khâm sứ (8-4-1886). Paul Bert là một nhà động vật học, sinh lý học và chính khách có tiếng, một nhân vật trong phe Cộng hòa, với một tư tưởng là phải truyền bá "Ánh sáng Tiến bộ" để lấy lại thể cường quốc của nước Pháp. Ông trước kia giữ chức Bộ trưởng Giáo dục lại rất khâm phục hệ thống giáo dục Nho giáo[25]. Tuy nhiên, do hấp tấp, Paul Bert làm nhiều lầm lỗi, thái độ ông trong những việc xây dựng cảng Hải Phòng, dự án đường sắt Hà Nội-Lạng Sơn khác hẳn mấy người Khâm sứ trước[cần dẫn nguồn]. Nguyễn Trọng Hợp một nhà cải cách[cần dẫn nguồn] thấy đó là một con đưòng mở cửa phát triển kinh tế cho Việt Nam, trong khi ấy vẫn giữ giáo dục của nước mình. Thái độ của Nguyễn Trọng Hợp có thể so sánh với các nhà cải cách Nhật Bản[cần dẫn nguồn](nhận định chủ quan của người viết). Paul Bert chết sớm (11-11-1886).

Đồng thời qua năm sau (1887)[26] vua Đồng Khánh gọi Nguyễn Trọng Hợp về kinh với chức Thượng thư bộ Lại, Tổng tài Quốc sử quán, Đại thần Cơ Mật viện, Văn Minh Đại học sĩ. Nhưng vì chuyện bất đồng không rõ, Nguyễn Trọng Hợp đệ đơn xin về nghỉ. Vua không chấp nhận, Nguyễn Trọng Hợp bèn cáo ốm rồi về quê. Tuy thế ông vẫn tiếp tục làm việc dến lúc Đồng Khánh mất (28-1-1889).

Phụ chính đại thần cho vua Thành Thái

Vua Đồng Khánh mất, triều đình cử Nguyễn Trọng Hợp cùng Trương Quang Đán lên làm phụ chính đại thần cho vua Thành Thái[24].

Tác phẩm

Cuốn Kim Giang thi tập gồm lại 400 bài thơ nôm của Nguyễn Trọng Hợp. Trong có một bài mà Vũ Tuấn Sán ở Viện nghiên cứu Hán Nôm cho là "hiếm thấy nếu không phải là duy nhất" [27]:

Nay vâng mệnh triều đình đi sứ
Sắc cầm tay khó xử muôn phần
Không đi mang tội khi quân
Đi thì mang tiếng phản dân cầu hòa
Nếu biết trước ở nhà làm ruộng
Còn hơn làm ông thượng ông quan
Mấy lời nhắn nhủ thế gian
Học để mà biết làm quan đừng màng

Chú thích

  1. ^ Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXXI, trang 915.
  2. ^ a b c Xem "Đại Nam chính biên liệt truyện" - "Nhị tập", Quyển 30 Tập 20 tr. 119
  3. ^ Tạp chí Xưa và Nay, số 223 tháng 11-2004, tr. VI và VIII
  4. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Nguyễn Đắc Xuân
  5. ^ a b c Xem Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp, tr.34-41, tác giả Nguyễn Văn Huyến
  6. ^ Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1415.
  7. ^ a b Xem Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp, tr. 42-53
  8. ^ Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1421.
  9. ^ Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương IX. Quân nước Pháp lấy Bắc Kỳ
  10. ^ Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1423.
  11. ^ Xem Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp, tr. 188
  12. ^ Đại Nam thực lục-chính biên, tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIX, trang 1428.
  13. ^ a b Xem Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp, tr.137-146, tác giả Bùi Thành và Nguyễn Vĩnh Phúc
  14. ^ Bài báo "Di tích lịch sử cấp quốc gia lăng mộ và nhà thờ Nguyễn Trọng Hợp: Mười năm trời hoang phế" trên báo Hà Nội Mới điện tử
  15. ^ Xem Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp, tập tám tr. 465
  16. ^ Xem Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp, tập tám tr.556
  17. ^ Malet Isaac: La naissance du monde moderne 1848-1914 tr.245-254, Librairie Hachette (1961)
  18. ^ Philippe Devillers: Français et Annamites, Partenaires ou ennemis? (1856-1902), Denoël (1998) tr. 252
  19. ^ Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương XII. Cuộc bảo hộ của nước Pháp-Hòa ước năm Quí Mùi (1883).
  20. ^ Bài "Ngược dòng lịch sử ngày 25 tháng 8" trên BBC Việt ngữ điện tử
  21. ^ Charles Fourniau : "Vietnam: domination coloniale et résistance nationale 1858-1914" Ed. Les Indes savantes (2002), tr.347.
  22. ^ Xem Đại Nam thực lục, Tập chín tr.44
  23. ^ Xem Đại Nam thực lục, Tập chín tr. 54
  24. ^ a b Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương XV. "Việc đánh dẹp ở Trung kỳ và ở Bắc kỳ"
  25. ^ Một khoa thi được tổ chức ở Nam Định năm 1886 [cần dẫn nguồn]
  26. ^ Xem Đại Nam thực lục, Tập chín tr.364
  27. ^ [25]

Tham khảo