Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hậu Bột Hải”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 75: Dòng 75:
Thời gian này vụ phun trào của [[núi Trường Bạch]] tiếp tục giáng những đòn mạnh vào lực lượng còn sống sót của người Bột Hải tại [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) dựa trên các ghi chép về sự di cư ồ ạt của người Bột Hải đến [[bán đảo Liêu Đông]] của [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và đến [[bán đảo Triều Tiên]] của [[Cao Ly]] (đời vua [[Cao Ly Thái Tổ]]).<ref>{{chú thích web |script-title=ko:발해멸망과 백두산 화산폭발 |trans-title=The Fall of Bohai and the Mt. |url=http://m.khan.co.kr/view.html?art_id=201205300951451 |website=Khan.co|date=30 May 2012 |language=ko}}</ref><ref>{{chú thích news |title=Eruption of Mt. Baekdu and collapse of Balhae |url=http://www.donga.com/en/article/all/20150403/410414/1/Eruption-of-Mt-Baekdu-and-collapse-of-Balhae |access-date=27 March 2020 |agency=[[Dong-a Ilbo]] |date=3 April 2015}}</ref>
Thời gian này vụ phun trào của [[núi Trường Bạch]] tiếp tục giáng những đòn mạnh vào lực lượng còn sống sót của người Bột Hải tại [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) dựa trên các ghi chép về sự di cư ồ ạt của người Bột Hải đến [[bán đảo Liêu Đông]] của [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và đến [[bán đảo Triều Tiên]] của [[Cao Ly]] (đời vua [[Cao Ly Thái Tổ]]).<ref>{{chú thích web |script-title=ko:발해멸망과 백두산 화산폭발 |trans-title=The Fall of Bohai and the Mt. |url=http://m.khan.co.kr/view.html?art_id=201205300951451 |website=Khan.co|date=30 May 2012 |language=ko}}</ref><ref>{{chú thích news |title=Eruption of Mt. Baekdu and collapse of Balhae |url=http://www.donga.com/en/article/all/20150403/410414/1/Eruption-of-Mt-Baekdu-and-collapse-of-Balhae |access-date=27 March 2020 |agency=[[Dong-a Ilbo]] |date=3 April 2015}}</ref>


Theo [[Nihon Kiryaku]] (Biên niên sử Nhật Bản), ngày [[19 tháng 2]] năm [[944]], vào khoảng nửa đêm, có tiếng rung chuyển mạnh ở phía đông của [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Suzaku]]), có lẽ chính là [[núi Trường Bạch]] đang phun trào dữ dội trong lãnh thổ của [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]).<ref name=":3">{{Cite journal |last=Hayakawa|first=Yukio|last2=Koyama|first2=Masato|volume=43|issue=5|pages=403-407|year=1998|title=日本海をはさんで10世紀に相次いで起こった二つの大噴火の年月日 --十和田湖と白頭山--|trans-title=Dates of Two Major Eruptions from Towada and Baitoushan in the 10th Century |url=http://www.hayakawayukio.jp/paper/946/|journal=火山|trans-journal=Bulletin of the Volcanological Society of Japan|doi=10.18940/kazan.43.5_403|issn= 2189-7182}}</ref>
Sang năm [[947]], [[núi Trường Bạch]] mới chính thức kết thúc việc phun trào núi lửa lớn nhất thế kỷ X (sau 22 năm phun trào liên tục từ năm [[925]]),<ref name=":12">{{chú thích tạp chí |last1=Horn |first1=Susanne |last2=Schmincke |first2=Hans-Ulrich |date=2000-02-01 |title=Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD |url=https://doi.org/10.1007/s004450050004 |journal=Bulletin of Volcanology |language=en |volume=61 |issue=8 |pages=537–555 |doi=10.1007/s004450050004 |s2cid=129624918 |issn=1432-0819}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last=Nakamura |first=Toshio |date=2007 |title=High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages |url=http://www.jstage.jst.go.jp/article/jaqua/46/3/46_3_195/_article |journal=The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu) |volume=46 |issue=3 |pages=195–204 |doi=10.4116/jaqua.46.195 |issn=1881-8129|doi-access=free }}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=Yatsuzuka |first1=Shinya |last2=Okuno |first2=Mitsuru |last3=Nakamura |first3=Toshio |last4=Kimura |first4=Katsuhiko |last5=Setoma |first5=Yohei |last6=Miyamoto |first6=Tsuyoshi |last7=Kim |first7=Kyu Han |last8=Moriwaki |first8=Hiroshi |last9=Nagase |first9=Toshiro |last10=Jin |first10=Xu |last11=Jin |first11=Bo Lu |last12=Takahashi |first12=Toshihiko |last13=Taniguchi |first13=Hiromitsu |date=2010 |title=14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea |url=https://www.cambridge.org/core/product/identifier/S0033822200046038/type/journal_article |journal=Radiocarbon |language=en |volume=52 |issue=3 |pages=933–940 |doi=10.1017/S0033822200046038 |s2cid=62840908 |issn=0033-8222}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=澤田恵美 |last2=木村勝彦 |last3=八塚槙也 |last4=中村俊夫 |last5=宮本毅 |last6=中川光弘 |last7=長瀬敏郎 |last8=菅野均志 |last9=Xu |first9=J. I. N. |last10=奥野充 |date=2018 |title=白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代 |trans-title=<sup>14</sup>C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea|url=https://jglobal.jst.go.jp/detail?JGLOBAL_ID=201802217843314458 |journal=福岡大学理学集報 |language=ja |volume=48 |issue=2 |pages=43–48 |issn=0386-118X}}</ref> vua [[Liệt Vạn Hoa]] của [[Định An Quốc]] bắt tay vào việc ổn định lại đời sống dân cư của [[Định An Quốc]] xung quanh [[núi Trường Bạch]] đó.

Vụ phun trào thiên niên kỷ của [[núi Trường Bạch]] trong lãnh thổ [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) được cho là đã thải ra một khối lượng lớn chất dễ bay hơi vào tầng bình lưu, có khả năng dẫn đến tác động lớn đến khí hậu trên toàn thế giới, mặc dù các nghiên cứu gần đây hơn chỉ ra rằng vụ phun trào thiên niên kỷ của núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi [[Trường Bạch]] có thể chỉ giới hạn ở các tác động khí hậu khu vực.<ref name=":1">{{Cite journal |last=Horn |first=S |date=2000 |title=Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD |journal=Bull Volcanol |volume=61 |issue=8 |pages=537–555 |doi=10.1007/s004450050004 |s2cid=129624918}}</ref><ref name=":8">{{Cite journal |last1=Sun |first1=Chunqing |last2=Plunkett |first2=Gill |last3=Liu |first3=Jiaqi |last4=Zhao |first4=Hongli |last5=Sigl |first5=Michael |last6=McConnell |first6=Joseph R. |last7=Pilcher |first7=Jonathan R. |last8=Vinther |first8=Bo |last9=Steffensen |first9=J. P. |last10=Hall |first10=Valerie |date=2014-01-28 |title=Ash from Changbaishan Millennium eruption recorded in Greenland ice: Implications for determining the eruption's timing and impact: SUN ET. AL. MILLENNIUM ERUPTION ASH IN GREENLAND |journal=Geophysical Research Letters |language=en |volume=41 |issue=2 |pages=694–701 |doi=10.1002/2013GL058642|s2cid=53985654 |doi-access=free }}</ref><ref name=":9">{{Cite journal |last1=Sigl |first1=M. |last2=Winstrup |first2=M. |last3=McConnell |first3=J. R. |last4=Welten |first4=K. C. |last5=Plunkett |first5=G. |last6=Ludlow |first6=F. |last7=Büntgen |first7=U. |last8=Caffee |first8=M. |last9=Chellman |first9=N. |last10=Dahl-Jensen |first10=D. |last11=Fischer |first11=H. |last12=Kipfstuhl |first12=S. |last13=Kostick |first13=C. |last14=Maselli |first14=O. J. |last15=Mekhaldi |first15=F. |date=2015-07-08 |title=Timing and climate forcing of volcanic eruptions for the past 2,500 years |url=https://www.nature.com/articles/nature14565 |journal=Nature |language=en |volume=523 |issue=7562 |pages=543–549 |doi=10.1038/nature14565 |pmid=26153860 |bibcode=2015Natur.523..543S |s2cid=4462058 |issn=1476-4687}}</ref> Tuy nhiên, có một số hiện tượng bất thường về khí tượng những năm [[945]] đến năm [[948]] có thể liên quan đến Vụ phun trào thiên niên kỷ này.<ref>{{Cite journal|title = The possible climatic impact in China of Iceland's Eldgja eruption inferred from historical sources|last = Fei|first = J|date = 2006|journal = Climatic Change|doi = 10.1007/s10584-005-9012-3|volume=76|issue = 3–4|pages=443–457|bibcode = 2006ClCh...76..443F|s2cid = 129296868}}</ref> Sự kiện được cho là đã gây ra [[mùa đông núi lửa]]. Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], ngày [[4 tháng 4]] năm [[945]] có tuyết rơi dày đặc ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và [[Hậu Tấn]] (đời vua [[Hậu Tấn Xuất Đế]]).

Theo [[Cao Ly sử]], vào năm đầu tiên trị vì của vua [[Cao Ly Định Tông]] của [[Cao Ly]] (năm [[946]]), trống trời vang lên ở phía bắc khiến hoàng cung [[Kaesong|Khai Thành]] của [[Cao Ly]] bị náo động lớn.<ref name=":3"/> Đó có lẽ là do vụ phun trào núi lửa thiên niên kỷ của [[núi Trường Bạch]] trong lãnh thổ [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]). Khai Thành cách núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy [[núi Trường Bạch]] khoảng 470 km, khoảng cách mà người ta có thể nghe thấy vụ phun trào thiên niên kỷ.<ref name=":10">{{Cite journal |last1=Oppenheimer |first1=Clive |last2=Wacker |first2=Lukas |last3=Xu |first3=Jiandong |last4=Galván |first4=Juan Diego |last5=Stoffel |first5=Markus |last6=Guillet |first6=Sébastien |last7=Corona |first7=Christophe |last8=Sigl |first8=Michael |last9=Di Cosmo |first9=Nicola |last10=Hajdas |first10=Irka |last11=Pan |first11=Bo |last12=Breuker |first12=Remco |last13=Schneider |first13=Lea |last14=Esper |first14=Jan |last15=Fei |first15=Jie |date=2017-02-15 |title=Multi-proxy dating the 'Millennium Eruption' of Changbaishan to late 946 CE |journal=Quaternary Science Reviews |language=en |volume=158 |pages=164–171 |doi=10.1016/j.quascirev.2016.12.024 |bibcode=2017QSRv..158..164O |s2cid=56233614 |issn=0277-3791|doi-access=free }}</ref><ref name=":3"/> Năm đó trời ầm ầm kêu gào, Định Tông hạ lệnh đại xá toàn quốc [[Cao Ly]].<ref name=":3"/>

Theo [[Lịch sử chùa Heungboksa]] (Biên niên sử Kōfukuji) đã ghi lại một quan sát đặc biệt thú vị ở Nara, [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]):<ref name=":3"/>

:''Vào ngày [[3 tháng 11]] năm [[946]], buổi tối, tro trắng từ bầu trời phía đông nhẹ nhàng rơi xuống [[Nhật Bản]] như tuyết.''

"''Tro trắng''" đó có thể là sự rơi tro trắng từ vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy [[núi Trường Bạch]] tại lãnh thổ [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]).<ref name=":10"/><ref name=":3"/>

Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), ngày [[28 tháng 11]] năm [[946]] có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và [[Hậu Tấn]] (đời vua [[Hậu Tấn Xuất Đế]]). Tiếp đó, vào ngày [[7 tháng 12]] năm [[946]] có hiện tượng sương mù quy mô lớn bao phủ tất cả các loài thực vật ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và [[Hậu Tấn]] (đời vua [[Hậu Tấn Xuất Đế]]). Vào ngày [[31 tháng 1]] năm [[947]] có hiện tượng tuyết rơi hơn mười ngày, gây ra tình trạng thiếu lương thực và nạn đói ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và vùng Trung Nguyên (khi đó đang bị vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]] chiếm đóng).

Sau đó [[Dai Nihon Kokiroku]] (Nhật ký cũ của Nhật Bản) và [[Nihon Kiryaku]] (Biên niên sử Nhật Bản) đều ghi lại một vụ náo động lớn trong cùng một ngày ở phía đông [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]):<ref name=":3"/>

:''Vào ngày [[7 tháng 2]] năm [[947]], có một âm thanh trên bầu trời phía đông giống như sấm sét.''

Điều đó chứng tỏ rằng vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy [[núi Trường Bạch]] tại lãnh thổ [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) là cực kỳ dữ dội.<ref name=":3"/> Theo [[Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), từ ngày [[24 tháng 2]] năm [[947]] đến ngày [[23 tháng 4]] năm [[947]] có hiện tượng mùa xuân ấm áp tại [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]), trong khi mùa xuân tại Nhật Bản bình thường là phải lạnh. Sau đó, ngày [[14 tháng 5]] năm [[947]] lại có hiện tượng sương giá và lạnh như mùa đông khắc nghiệt ở [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]])<ref>Theo [[Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản]].</ref>.

Sang tháng 12 năm [[947]], [[núi Trường Bạch]] mới chính thức kết thúc việc phun trào núi lửa lớn nhất thế kỷ X (sau 22 năm phun trào liên tục từ năm [[925]]),<ref name=":12">{{chú thích tạp chí |last1=Horn |first1=Susanne |last2=Schmincke |first2=Hans-Ulrich |date=2000-02-01 |title=Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD |url=https://doi.org/10.1007/s004450050004 |journal=Bulletin of Volcanology |language=en |volume=61 |issue=8 |pages=537–555 |doi=10.1007/s004450050004 |s2cid=129624918 |issn=1432-0819}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last=Nakamura |first=Toshio |date=2007 |title=High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages |url=http://www.jstage.jst.go.jp/article/jaqua/46/3/46_3_195/_article |journal=The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu) |volume=46 |issue=3 |pages=195–204 |doi=10.4116/jaqua.46.195 |issn=1881-8129|doi-access=free }}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=Yatsuzuka |first1=Shinya |last2=Okuno |first2=Mitsuru |last3=Nakamura |first3=Toshio |last4=Kimura |first4=Katsuhiko |last5=Setoma |first5=Yohei |last6=Miyamoto |first6=Tsuyoshi |last7=Kim |first7=Kyu Han |last8=Moriwaki |first8=Hiroshi |last9=Nagase |first9=Toshiro |last10=Jin |first10=Xu |last11=Jin |first11=Bo Lu |last12=Takahashi |first12=Toshihiko |last13=Taniguchi |first13=Hiromitsu |date=2010 |title=14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea |url=https://www.cambridge.org/core/product/identifier/S0033822200046038/type/journal_article |journal=Radiocarbon |language=en |volume=52 |issue=3 |pages=933–940 |doi=10.1017/S0033822200046038 |s2cid=62840908 |issn=0033-8222}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=澤田恵美 |last2=木村勝彦 |last3=八塚槙也 |last4=中村俊夫 |last5=宮本毅 |last6=中川光弘 |last7=長瀬敏郎 |last8=菅野均志 |last9=Xu |first9=J. I. N. |last10=奥野充 |date=2018 |title=白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代 |trans-title=<sup>14</sup>C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea|url=https://jglobal.jst.go.jp/detail?JGLOBAL_ID=201802217843314458 |journal=福岡大学理学集報 |language=ja |volume=48 |issue=2 |pages=43–48 |issn=0386-118X}}</ref> vua [[Liệt Vạn Hoa]] của [[Định An Quốc]] bắt tay vào việc ổn định lại đời sống dân cư của [[Định An Quốc]] xung quanh [[núi Trường Bạch]] đó.

Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), ngày [[16 tháng 12]] năm [[947]], ngày [[25 tháng 12]] năm [[947]] và ngày [[6 tháng 1]] năm [[948]] có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở [[nhà Liêu]] (đời vua [[Liêu Thế Tông]]) và [[Hậu Hán]] (đời vua [[Lưu Tri Viễn|Hậu Hán Cao Tổ]]).

Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc [[Định An Quốc]] (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), ngày [[24 tháng 10]] năm [[948]] có hiện tượng tuyết rơi dày đặc ở Khai Phong của [[Hậu Hán]] (đời vua [[Lưu Thừa Hựu|Hậu Hán Ẩn Đế]]), trong khi tuyết chỉ rơi nhẹ ở Khai Phong tầm tháng 11 hoặc tháng 12 trong nhiều năm trước đó.


[[Định An Quốc]] của vua [[Liệt Vạn Hoa]] được ghi chép là đã tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ lạc lân cận với hi vọng lật đổ [[nhà Liêu]] (đời vua [[Liêu Mục Tông]]), song đã thất bại.
[[Định An Quốc]] của vua [[Liệt Vạn Hoa]] được ghi chép là đã tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ lạc lân cận với hi vọng lật đổ [[nhà Liêu]] (đời vua [[Liêu Mục Tông]]), song đã thất bại.

Phiên bản lúc 13:41, ngày 31 tháng 12 năm 2023

Hậu Bột Hải
Hangul
후발해
Hanja
後渤海
Romaja quốc ngữHu Balhae
McCune–ReischauerHu Parhae
Hán-ViệtHậu Bột Hải

Hậu Bột Hải (927 - 994) được vương tộc họ Đại thành lập vào năm 927. Đây là quốc gia kế thừa trực tiếp đầu tiên của vương quốc Bột Hải sau khi nước này bị Khiết Đan chinh phục năm 926. Hậu Bột Hải do gia tộc họ Đại trị vì, song cuối cùng bị Liệt Mạnh Hoa đoạt lấy vương quyền. Nhưng bộ phận còn lại tiếp tục cai trị ở thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ cho đến năm 994 mới bị tướng dưới quyền gốc Yên PhaÔ Chiêu Đạc đoạt lấy vương quyền 1 lần nữa và đổi tên vương quốc thành vương quốc Ô Nha (994 - 1114).

Thành lập

Sau khi chinh phục Dan Gur (vương quốc Bột Hải trong tiếng Khiết Đan) vào đầu năm 926,[1] Gia Luật A Bảo Cơ đổi tên kinh đô Thượng Kinh (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thành pháo đài Hốt Hãn. Gia Luật A Bảo Cơ đã lập ra vương quốc Đông Đan trên lãnh thổ cũ của vương quốc Bột Hải, với kinh thành đặt ở Phù Dư, và lập Gia Luật Bội làm vương, tước hiệu Nhân Hoàng vương (人皇王),[2][3] ứng với tước hiệu của bản thân Hoàng đế Gia Luật A Bảo CơThiên Hoàng đế và tước hiệu của hoàng hậu của ông ta là Địa Hoàng hậu. Gia Luật A Bảo Cơ trao cho con thứ Gia Luật Đức Quang hiệu Nguyên soái thái tử và cho Gia Luật Đức Quang thay thế Gia Luật Bội trông nom Lâm Hoàng (臨潢, nay thuộc Xích Phong, Nội Mông, Trung Quốc), nơi mà trước đây Gia Luật Bội từng phụ trách.[4] Gia Luật A Bảo Cơ còn tiến hành thu biên người Nữ Chân của Bột Hải ở phương nam, gọi là Thục Nữ Chân, người Nữ Chân của Bột Hải ở phương bắc là Sinh Nữ Chân. Gia Luật A Bảo Cơ luôn có ý đồ nam hạ Trung Nguyên.[5]

Gia Luật Bội đã bước lên ngai vàng của vương quốc tại pháo đài Hốt Hãn, kinh đô Thượng Kinh của Bột Hải cũ, nay thuộc Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc. Vương quốc dùng tên Hán là Đông Đan, để tỏ lòng kính trọng với Đại Khiết Đan quốc ở phía tây.

Lãnh thổ của vương quốc Đông Đan bao gồm 19 phủ như vương quốc Bột Hải ngày trước, trong đó vua Gia Luật Bội đã đổi tên Phù Dư phủ thành Hoàng Long phủ:

Đội quân gồm hàng vạn người Bột Hải của Đại Quang Hiển (Dae Gwang-hyeon, con của cựu vua Đại Nhân Soạn) sau khi thoát khỏi Thượng Kinh thì ẩn nấu trong các làng mạc. Gia Luật A Bảo Cơ mất vào ngày 6 tháng 9 năm 926. Gia Luật Đức Quang lên ngôi vua của Đại Khiết Đan quốc vào ngày 11 tháng 12 năm 927 và mâu thuẫn với vua Gia Luật Bội của vương quốc Đông Đan. Để ngăn cản Gia Luật Bội tạo lập quyền lực riêng tại Đông Đan, Hoàng đế mới Gia Luật Đức Quang đã lệnh cho anh trai mình cùng toàn bộ dân trong thành phải dời đô từ Hốt Hãn thuộc Long Tuyền phủ ở Đông Mãn Châu đến Đông Bình (nay là Liêu Dương) thuộc Liêu Đông phủ ở Tây Mãn Châu trong tháng 12 năm 927.[6] Những người Bột Hải cũ cũng bị cưỡng bách đến Đông Bình. Bản thân Hoàng vương Gia Luật Bội bị đặt dưới sự giám sát của các cận binh hoàng cung do hoàng đế Gia Luật Đức Quang phái đến.[7]

Bột Hải hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của người Khiết Đan, những người đã lập nên vương quốc Đông Đan. Người dân Bột Hải cùng nhau nổi dậy để chống lại những thế lực cai trị mới, và nhiều phong trào phục quốc đã xuất hiện trong khoảng 200 năm. Phong trào phục quốc đầu tiên là Hậu Bột Hải, được hoàng tộc Bột Hải lập nên.

Bắt đầu từ năm 927, người Khiết Đan bắt đầu săn lùng và hành quyết tất cả các thành viên của vương tộc Bột Hải để ngăn chặn việc bất kỳ ai có thể được đưa lại lên ngai vàng Bột Hải, dù là vua hay nữ vương. Tuy nhiên, một vài thành viên của vương tộc vẫn sống sót. Trong số họ có Đại Quang Hiển (Dae Gwang-hyeon) đang ẩn nấu. Một số thành viên gia tộc họ Đại khác đã thống nhất các nhóm kháng cự ở phía tây sông Áp Lục, đánh chiếm thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ và lập nên vương quốc Hậu Bột Hải tại thành Hốt Hãn đó trong tháng 12 năm 927.

Giao tranh với vương quốc Đông Đan

Hậu Bột Hải ra đời với sự nỗ lực của các quý tộc Bột Hải cũ để lập nên một vị vua mới họ Đại lên ngai vàng và hồi sinh vương quốc. Những người dân Bột Hải ngay lập tức đã nổi dậy chống lại người Khiết Đan và điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Bội). Vua Gia Luật Bội liền bổ nhiệm cựu vua Bột Hải là Đại Nhân Soạn (khi đó đã hơn 50 tuổi) làm quan chức cấp cao của vương quốc Đông Đan nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng Bột Hải. Gia Luật Bội còn lập một thành viên vương tộc Bột Hải là Đại thị làm trắc thất (vương phi) của ông. Tuy nhiên dân chúng Bột Hải vẫn tiếp tục tham gia vào quân đội của vương quốc Hậu Bột Hải để chống lại vương quốc Đông Đan.

Năm 928, quân đội của vương quốc Hậu Bột Hải từ Long Tuyền phủ tiến hành nam hạ, lần lượt đánh chiếm Đồng Châu phủ, Hiển Đức phủ, Long Nguyên phủ, Trường Lĩnh phủ, Áp Lục phủ và Nam Hải phủ của vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Bội). Vương quốc Đông Đan chỉ còn lại 12 phủ.

Để tiếp tục quan hệ hữu nghị giữa Bột Hải và Nhật Bản, vương quốc Đông Đan của vua Gia Luật Bội đã cử một phái đoàn ngoại giao qua Biển Nhật Bản vào năm 929. Triều đình Nhật Bản ở Kyoto (đời Thiên hoàng Daigo) đã từ chối phái đoàn của Đông Đan. Nền độc lập của Đông Đan (đời vua Gia Luật Bội) bị yếu dần trong năm 929 khi một người cai trị mới của Đại Khiết Đan quốcGia Luật Đức Quang ra lệnh di dời dân cư của Đông Đan sang Đại Khiết Đan quốc.[3]

Khi vua Hậu Đường Minh Tông của nhà Hậu Đường biết được việc Gia Luật Bội đang bị đặt dưới sự giám sát của Gia Luật Đức Quang thì ông ta đã cử các mật sứ đến khuyên Gia Luật Bội hãy chạy trốn đến nhà Hậu Đường, nhằm tránh bị ám sát. Gia Luật Bội nói rằng: "Ta nhường đế quốc cho hoàng đế, song nay ta bị ngờ vực. Sẽ tốt hơn khi ta đi đến một nước khác mà ở đó ta có thể giống như Ngô Thái Bá". Gia Luật Bội đã mang theo sủng thiếp Cao thị cùng bộ sách to lớn của mình, lên một con thuyền và đi đến Hậu Đường vào năm 930.[8] Tháng 11 âm lịch năm 930, Gia Luật Bội đã đến Đăng Châu của nhà Hậu Đường.[9] Tại đây Gia Luật Bội đã trở thành một khách quý của vua Hậu Đường Minh Tông, thậm chí còn được vị Hoàng đế này ban cho họ Lý của hoàng tộc.[7]

Con trai trưởng của Gia Luật BộiGia Luật Nguyễn còn ở lại Đại Khiết Đan quốc, nhưng Gia Luật Nguyễn được hoàng đế Gia Luật Đức Quang coi như con[10] và được tôn lên làm vua của vương quốc Đông Đan, với Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị làm nhiếp chính của vương quốc Đông Đan. Cựu vua Bột Hải là Đại Nhân Soạn tiếp tục phò tá cho vua Gia Luật Nguyễn và nhiếp chính Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị.

Thời gian này, núi Trường Bạch (Baekdu, Bạch Đầu trong tiếng Triều Tiên) thuộc Áp Lục phủ của vương quốc Hậu Bột Hải tiếp tục phun trào núi lửa một cách khủng khiếp vào thế kỷ thứ X (có khả năng là trong thời gian từ đầu năm 925 đến năm 947).[11][12][13][14] Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống cư dân Hậu Bột Hải.

Cùng năm 930, các tướng lĩnh của vương quốc Hậu Bột Hải tại Áp Lục phủ và Nam Hải phủ đã tôn thái tử Đại Quang Hiển (con trai của Đại Nhân Soạn) lên làm thủ lĩnh cai trị 2 phủ này. Từ đó vương quốc Hậu Bột Hải chỉ còn cai trị 5 phủ là Long Tuyền phủ, Đồng Châu phủ, Long Nguyên phủ, Hiển Đức phủ và Trường Lĩnh phủ.

Năm 931, Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu Thị phái sứ giả từ vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) sang nhà Hậu Đường (đời vua Hậu Đường Minh Tông) để bang giao và triều cống.[15]

Từ năm 932 đến năm 935, Đại Quang Hiển cùng vua của vương quốc Hậu Bột Hải họ Đại (không rõ tên) liên tục phát binh tấn công Liêu Đông phủ, Hoàng Long phủ, Túc Châu phủ, Mạc Hiệt phủ, Thiết Lợi phủ, Doanh Châu phủ, Đông Bình phủ và Súy Tân phủ của vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn). Tuy nhiên phần thắng thường nghiêng về vương quốc Đông Đan.

Vương quốc bị đổi chủ và bị chia cắt

Sau khi chiến bại trước quân đội Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) vào năm 935, vua của vương quốc Hậu Bột Hải họ Đại (không rõ tên) đã bị cựu tri phủ của Nam Hải phủ là Liệt Vạn Hoa (열만화, 烈萬華, Yeol Manhwa) tiến hành đảo chính, bị lật đổ ngôi vua và bị giết chết ở Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc). Liệt Vạn Hoa đã tự lập làm vua, định đô tại Tây Kinh, đổi tên vương quốc sang Định An, lập ra Định An Quốc trong năm 935.

Một số quý tộc họ Đại người Bột Hải vẫn trấn giữ thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) và cai trị Long Tuyền phủ. Họ tuyên bố không phục tùng vua Liệt Vạn Hoa mà tuyên bố độc lập khỏi Định An Quốc, với quốc hiệu vẫn giữ nguyên là Hậu Bột Hải. Như vậy Định An Quốc chỉ cai trị 4 phủ là Long Nguyên phủ, Hiển Đức phủ, Trường Lĩnh phủ và Đồng Châu phủ.

Cảm thấy không cần thiết để vương quốc Đông Đan tồn tại bên cạnh mình, hoàng đế Gia Luật Đức Quang của Đại Khiết Đan quốc quyết định sáp nhập toàn bộ lãnh thổ vương quốc Đông Đan với 12 phủ (Hoàng Long phủ, Mạc Hiệt phủ, Định Lý phủ, An Biên phủ, Súy Tân phủ, Đông Bình phủ, Thiết Lợi phủ, Hoài Viễn phủ, An Viễn phủ, Liêu Đông phủ, Túc Châu phủ và Doanh Châu phủ) vào lãnh thổ Đại Khiết Đan quốc trong năm 936.[16] Vua Gia Luật Nguyễn và nhiếp chính Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị của vương quốc Đông Đan trở thành những tông thất của Đại Khiết Đan quốc. Vương quốc Đông Đan từ đây biến mất mãi mãi.

Sau khi chiến bại trước quân đội Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và phải chịu ảnh hưởng từ việc phun trào núi lửa của núi Trường Bạch vào cuối năm 936, thái tử Đại Quang Hiển cũng tập hợp những người tị nạn Bột Hải, gồm nhiều người dân và quý tộc, tổ chức đào thoát về phía nam đến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thái Tổ) ở phía nam vào tháng 1 năm 937,[17] một thực thể mới cũng tự xưng là kế tục của Cao Câu Ly. Nhiều hậu duệ của hoàng tộc Bột Hải tại Cao Ly đã đổi họ thành Thái (Tae, 태, 太) trong khi thái tử Đại Quang Hiển đổi sang họ Vương (Wang, 왕, 王), tên của hoàng tộc Cao Ly. Điều này đã dẫn đến việc Đại Khiết Đan quốc (sang năm 947 gọi là Đại Liêu quốc) cắt quan hệ ngoại giao với Cao Ly song không đe dọa xâm lược.[18] Bột Hải là quốc gia cuối cùng trong lịch sử Triều Tiên nắm giữ bất kể một lãnh thổ đáng kể nào tại Mãn Châu, mặc dù các triều đại Triều Tiên tiếp theo tiếp tục coi mình là người thừa kế của Cao Câu Ly và Bột Hải. Hơn nữa, đó là sự bắt đầu của việc mở rộng lên phía bắc của các triều đại Triều Tiên sau này.

Năm 938, hoàng đế Gia Luật Đức Quang thấy Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) ở Mãn Châu đang khá mạnh nên nhân lúc núi Trường Bạch vừa phun trào ở Định An Quốc thì phái quân Khiết Đan tấn công Định An Quốc theo nhiều hướng.[19] Quân Khiết Đan thế như chẻ tre, liên tục đánh chiếm Đồng Châu phủ, Long Nguyên phủ và Nam Hải phủ của Định An Quốc. Định An Quốc chỉ còn lại 3 phủ là Hiển Đức phủ, Trường Lĩnh phủ và Áp Lục phủ. Quân Khiết Đan tiếp tục đánh chiếm vài thành trì phía tây của Trường Lĩnh phủ và Áp Lục phủ, sau đó đánh chiếm tiếp vài thành trì phía đông của Hiển Đức phủ, khiến cho lãnh thổ của Định An Quốc bị thu hẹp đáng kể. Sau đó, do vua Liệt Vạn Hoa đã chỉ huy quân dân Định An Quốc chống trả quyết liệt nên quân Khiết Đan tạm dừng chiến dịch chinh phục Định An Quốc này lại.[19]

Sau cuộc chiến này, Liệt Vạn Hoa đã lập một căn cứ quân sự tại lưu vực sông Áp Lục, bắt đầu tuyển chọn và xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh cho Định An Quốc.

Thời gian này vụ phun trào của núi Trường Bạch tiếp tục giáng những đòn mạnh vào lực lượng còn sống sót của người Bột Hải tại Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) dựa trên các ghi chép về sự di cư ồ ạt của người Bột Hải đến bán đảo Liêu Đông của Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và đến bán đảo Triều Tiên của Cao Ly (đời vua Cao Ly Thái Tổ).[20][21]

Theo Nihon Kiryaku (Biên niên sử Nhật Bản), ngày 19 tháng 2 năm 944, vào khoảng nửa đêm, có tiếng rung chuyển mạnh ở phía đông của Nhật Bản (đời Thiên hoàng Suzaku), có lẽ chính là núi Trường Bạch đang phun trào dữ dội trong lãnh thổ của Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa).[22]

Vụ phun trào thiên niên kỷ của núi Trường Bạch trong lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) được cho là đã thải ra một khối lượng lớn chất dễ bay hơi vào tầng bình lưu, có khả năng dẫn đến tác động lớn đến khí hậu trên toàn thế giới, mặc dù các nghiên cứu gần đây hơn chỉ ra rằng vụ phun trào thiên niên kỷ của núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch có thể chỉ giới hạn ở các tác động khí hậu khu vực.[23][24][25] Tuy nhiên, có một số hiện tượng bất thường về khí tượng những năm 945 đến năm 948 có thể liên quan đến Vụ phun trào thiên niên kỷ này.[26] Sự kiện được cho là đã gây ra mùa đông núi lửa. Theo Cựu Ngũ Đại sử, ngày 4 tháng 4 năm 945 có tuyết rơi dày đặc ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế).

Theo Cao Ly sử, vào năm đầu tiên trị vì của vua Cao Ly Định Tông của Cao Ly (năm 946), trống trời vang lên ở phía bắc khiến hoàng cung Khai Thành của Cao Ly bị náo động lớn.[22] Đó có lẽ là do vụ phun trào núi lửa thiên niên kỷ của núi Trường Bạch trong lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa). Khai Thành cách núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch khoảng 470 km, khoảng cách mà người ta có thể nghe thấy vụ phun trào thiên niên kỷ.[27][22] Năm đó trời ầm ầm kêu gào, Định Tông hạ lệnh đại xá toàn quốc Cao Ly.[22]

Theo Lịch sử chùa Heungboksa (Biên niên sử Kōfukuji) đã ghi lại một quan sát đặc biệt thú vị ở Nara, Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami):[22]

Vào ngày 3 tháng 11 năm 946, buổi tối, tro trắng từ bầu trời phía đông nhẹ nhàng rơi xuống Nhật Bản như tuyết.

"Tro trắng" đó có thể là sự rơi tro trắng từ vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch tại lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa).[27][22]

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 28 tháng 11 năm 946 có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế). Tiếp đó, vào ngày 7 tháng 12 năm 946 có hiện tượng sương mù quy mô lớn bao phủ tất cả các loài thực vật ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế). Vào ngày 31 tháng 1 năm 947 có hiện tượng tuyết rơi hơn mười ngày, gây ra tình trạng thiếu lương thực và nạn đói ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và vùng Trung Nguyên (khi đó đang bị vua Gia Luật Đức Quang chiếm đóng).

Sau đó Dai Nihon Kokiroku (Nhật ký cũ của Nhật Bản) và Nihon Kiryaku (Biên niên sử Nhật Bản) đều ghi lại một vụ náo động lớn trong cùng một ngày ở phía đông Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami):[22]

Vào ngày 7 tháng 2 năm 947, có một âm thanh trên bầu trời phía đông giống như sấm sét.

Điều đó chứng tỏ rằng vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch tại lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) là cực kỳ dữ dội.[22] Theo Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), từ ngày 24 tháng 2 năm 947 đến ngày 23 tháng 4 năm 947 có hiện tượng mùa xuân ấm áp tại Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami), trong khi mùa xuân tại Nhật Bản bình thường là phải lạnh. Sau đó, ngày 14 tháng 5 năm 947 lại có hiện tượng sương giá và lạnh như mùa đông khắc nghiệt ở Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami)[28].

Sang tháng 12 năm 947, núi Trường Bạch mới chính thức kết thúc việc phun trào núi lửa lớn nhất thế kỷ X (sau 22 năm phun trào liên tục từ năm 925),[11][29][30][31] vua Liệt Vạn Hoa của Định An Quốc bắt tay vào việc ổn định lại đời sống dân cư của Định An Quốc xung quanh núi Trường Bạch đó.

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 16 tháng 12 năm 947, ngày 25 tháng 12 năm 947 và ngày 6 tháng 1 năm 948 có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở nhà Liêu (đời vua Liêu Thế Tông) và Hậu Hán (đời vua Hậu Hán Cao Tổ).

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 24 tháng 10 năm 948 có hiện tượng tuyết rơi dày đặc ở Khai Phong của Hậu Hán (đời vua Hậu Hán Ẩn Đế), trong khi tuyết chỉ rơi nhẹ ở Khai Phong tầm tháng 11 hoặc tháng 12 trong nhiều năm trước đó.

Định An Quốc của vua Liệt Vạn Hoa được ghi chép là đã tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ lạc lân cận với hi vọng lật đổ nhà Liêu (đời vua Liêu Mục Tông), song đã thất bại.

Vua Liêu Cảnh Tông của nhà Liêu đã có Tiêu Xước là hoàng hậu nhưng ông ta vẫn nạp một cô gái thuộc vương tộc Bột Hải làm phi (gọi là Bột Hải phi) và một cô gái họ Mỗ (gọi là Mỗ thị) làm phi.

Năm 975 vua Liêu Cảnh Tông phát động một cuộc xâm lược lớn vào hậu duệ của vương quốc Bột HảiĐịnh An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa). Tuy nhiên quân Khiết Đan của Liêu Cảnh Tông đã bị quân Định An Quốc của Liệt Vạn Hoa đánh bại. Quân Khiết Đan của Liêu Cảnh Tông phải lui quân.[32]

Sau cuộc chiến này, một số tướng lĩnh người Bột Hải của nhà Liêu đã nổi dậy đánh chiếm thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc) của nhà Liêu, lập ra vương quốc Yên Pha (頗頗 Yeonpa), tuyên bố chống lại nhà Liêu của vua Liêu Cảnh Tông. Kinh đô của vương quốc Yên Pha đặt tại Phù Châu.

Gia tộc họ Liệt cai trị Định An Quốc bị thay thế bởi gia tộc họ Ô vào năm 976 sau một cuộc binh biến lớn trên khắp vương quốc. Vua Liệt Vạn Hoa (cũng có thể là con trai của Liệt Vạn Hoa) bị giết chết. Nhiều vương tộc họ Liệt cũng bị giết. Vương quốc Định An nằm dưới quyền của Ô Huyền Minh (오현명, 烏玄明, Oh Hyeon-myeong). Ô Huyền Minh tự lập làm vua của Định An Quốc và bổ nhiệm dòng tộc họ Ô của mình vào các chức vụ quan trọng của Định An Quốc. Thành Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc) tiếp tục được vua Ô Huyền Minh chọn làm kinh đô của vương quốc.

Năm 981, vua Ô Huyền Minh phái quân Định An Quốc tấn công vương quốc Yên Pha. Quân Yên Pha liên tục bại trận. Quân Định An Quốc bao vây kinh thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc) của vương quốc Yên Pha. Vua của vương quốc Yên Pha tuyên bố đầu hàng quân Định An Quốc. Vua Ô Huyền Minh sáp nhập lãnh thổ của vương quốc Yên Pha vào lãnh thổ Định An Quốc của mình. Việc này đe dọa đến nhà Liêu của vua Liêu Cảnh Tông. Một số quý tộc và dân chúng Bột Hải của vương quốc Yên Pha đã di tản sang vương quốc Hậu Bột Hải ở kinh thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc).

Tháng 12 năm 985 Tiêu thái hậu của nhà Liêu lại phái quân Khiết Đan chinh phục Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh).[19][33][34] Thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc), thành Hà Châu (nay là Hoa Điện, Cát Lâm, Trung Quốc) và thành Nô Châu (nay là Thông Hóa, Cát Lâm, Trung Quốc) của Định An Quốc nhanh chóng bị quân Khiết Đan đánh hạ.[19]

Nhân dân Bột Hải trong lãnh thổ Định An Quốc đều không thần phục vua Ô Huyền Minh (do Ô Huyền Minh từng làm binh biến lớn cướp ngôi vua của vua Liệt Vạn Hoa vào 10 năm trước) nên họ đã quy hàng và dẫn dắt quân Khiết Đan công hạ kinh đô Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc) của Định An Quốc. Kinh đô Tây Kinh thất thủ vào tháng 1 năm 986. Nhân dân Bột Hải dẫn quân Khiết Đan đi bắt vua Ô Huyền Minh. Định An Quốc bị sụp đổ và bị sáp nhập vào lãnh thổ nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông).[19][33][34]

Năm 990, Liêu Thánh Tông đem một cô gái họ Tiêu (gọi là Tiêu thị) thuộc vương tộc Bột Hải (cháu gái của hoàng gia Bột Hải) gả cho em trai mình là Gia Luật Long Khánh (耶律隆庆). Sang năm 991, Tiêu thị đó đã hạ sinh Gia Luật Tông Giáo (991 - 1053). Gia Luật Tông Giáo trở thành một tướng Liêu mang hai dòng máu hoàng gia Bột Hải và hoàng gia Khiết Đan.[35]

Vương quốc bị đổi chủ một lần nữa và bị diệt vong

Vương quốc Hậu Bột Hải của vương tộc họ Đại tại thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ vẫn duy trì tồn tại cho đến tận năm 994 thì bị một thuộc tướng có nguồn gốc từ vương quốc Yên Pha tên là Ô Chiêu Đạc (烏昭度, Oh So-do) lật đổ, đổi quốc hiệu sang Ô Nha (올야, 兀惹, Olya). Kinh thành Hốt Hãn trở thành kinh thành Ô Xá của vương quốc Ô Nha. Tầng lớp thống trị quý tộc họ Ô này là một trong những tầng lớp quý tộc truyền thống của Bột Hải khi xưa. Tuy nhiên người dân của vương quốc Ô Nha đa phần là người Nữ Chân. Khu vực của vương quốc này nằm ở Khabarovsk, Primorsky Krai, Nga ngày nay. Vương quốc Ô Nha đã cố gắng thiết lập mối quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng.

Sang năm 996, vương quốc Ô Nha (đời vua Ô Chiêu Đạc) trở thành quốc gia chư hầu của nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Sau đó vua Ô Chiêu Đạc mất, con là Ô Chiêu Khánh (烏昭慶, Oh So-gyeong) lên kế vị ngôi vua. Từ năm 1004 đến năm 1022 người Nữ Chân và người Thiết Lợi Mạt Hạt đã bắt bớ những người dân Bột Hải của vương quốc Ô Nha và cống nạp hết mình cho nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông), khiến cho vương quốc Ô Nha bị suy yếu nhanh chóng do thiếu con người làm việc, thiếu nhân lực lao động. Cùng năm 1022 vua Ô Chiêu Khánh mất, dòng họ Ô tiếp tục cai trị vương quốc Ô Nha cho đến năm 1114 thì bị bộ tộc Nữ Chân (đời thủ lĩnh Hoàn Nhan A Cốt Đả) tiêu diệt và bị sáp nhập vào bộ tộc Nữ Chân.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Liêu sử quyển 2 Lưu trữ 2015-05-18 tại Wayback Machine:"辛未,諲譔素服,稿索牽羊,率僚屬三百餘人出降。"
  2. ^ Mote (1999), 49-51.
  3. ^ a b Twitchett 1994, tr. 69.
  4. ^ Tư trị thông giám, quyển 275.
  5. ^ 《資治通鑑‧卷第二百七十五‧后唐纪四》. (後唐明宗)帝遣供奉官姚坤告哀于契丹。......(遼太祖)又曰:"吾儿与我虽世旧,然屡与我战急,于今天子则无怨,足以修好。若与我大河之北,吾不复南侵矣。"坤曰:"此非使臣之所得专也。"契丹主怒,囚之,旬馀,复召之,曰:"河北恐难得,得镇、定、幽州亦可也。"给纸笔趣令为状,坤不可,欲杀之,韩延徽谏,乃复囚之。
  6. ^ Twitchett and Tietze (1994), 69.
  7. ^ a b Mote (1999), 51.
  8. ^ Liêu sử, quyển 72.
  9. ^ Tư trị thông giám, quyển 277.
  10. ^ Liêu sử: quyển 5 - Bản kỷ 5: Thế Tông
  11. ^ a b Horn, Susanne; Schmincke, Hans-Ulrich (1 tháng 2 năm 2000). “Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD”. Bulletin of Volcanology (bằng tiếng Anh). 61 (8): 537–555. doi:10.1007/s004450050004. ISSN 1432-0819. S2CID 129624918.
  12. ^ Nakamura, Toshio (2007). “High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages”. The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu). 46 (3): 195–204. doi:10.4116/jaqua.46.195. ISSN 1881-8129.
  13. ^ Yatsuzuka, Shinya; Okuno, Mitsuru; Nakamura, Toshio; Kimura, Katsuhiko; Setoma, Yohei; Miyamoto, Tsuyoshi; Kim, Kyu Han; Moriwaki, Hiroshi; Nagase, Toshiro; Jin, Xu; Jin, Bo Lu; Takahashi, Toshihiko; Taniguchi, Hiromitsu (2010). “14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea”. Radiocarbon (bằng tiếng Anh). 52 (3): 933–940. doi:10.1017/S0033822200046038. ISSN 0033-8222. S2CID 62840908.
  14. ^ 澤田恵美; 木村勝彦; 八塚槙也; 中村俊夫; 宮本毅; 中川光弘; 長瀬敏郎; 菅野均志; Xu, J. I. N.; 奥野充 (2018). “白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代” [14C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea]. 福岡大学理学集報 (bằng tiếng Nhật). 48 (2): 43–48. ISSN 0386-118X.
  15. ^ The Kitai Dynasty’s governance of Bohai and the structure of Dongdanguo as seen from Yelu-Yuzu’s Epitaph
  16. ^ Michael Dillon (1 tháng 12 năm 2016). Encyclopedia of Chinese History. Taylor & Francis. tr. 95. ISBN 978-1-317-81715-4.
  17. ^ “North and South States Period: Unified Silla and Balhae”. Korea.
  18. ^ [Mote p. 62]
  19. ^ a b c d e Twitchett 1994, tr. 102.
  20. ^ 발해멸망과 백두산 화산폭발 [The Fall of Bohai and the Mt.]. Khan.co (bằng tiếng Hàn). 30 tháng 5 năm 2012.
  21. ^ “Eruption of Mt. Baekdu and collapse of Balhae”. Dong-a Ilbo. 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  22. ^ a b c d e f g h Hayakawa, Yukio; Koyama, Masato (1998). “日本海をはさんで10世紀に相次いで起こった二つの大噴火の年月日 --十和田湖と白頭山--” [Dates of Two Major Eruptions from Towada and Baitoushan in the 10th Century]. 火山 [Bulletin of the Volcanological Society of Japan]. 43 (5): 403–407. doi:10.18940/kazan.43.5_403. ISSN 2189-7182.
  23. ^ Horn, S (2000). “Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD”. Bull Volcanol. 61 (8): 537–555. doi:10.1007/s004450050004. S2CID 129624918.
  24. ^ Sun, Chunqing; Plunkett, Gill; Liu, Jiaqi; Zhao, Hongli; Sigl, Michael; McConnell, Joseph R.; Pilcher, Jonathan R.; Vinther, Bo; Steffensen, J. P.; Hall, Valerie (28 tháng 1 năm 2014). “Ash from Changbaishan Millennium eruption recorded in Greenland ice: Implications for determining the eruption's timing and impact: SUN ET. AL. MILLENNIUM ERUPTION ASH IN GREENLAND”. Geophysical Research Letters (bằng tiếng Anh). 41 (2): 694–701. doi:10.1002/2013GL058642. S2CID 53985654.
  25. ^ Sigl, M.; Winstrup, M.; McConnell, J. R.; Welten, K. C.; Plunkett, G.; Ludlow, F.; Büntgen, U.; Caffee, M.; Chellman, N.; Dahl-Jensen, D.; Fischer, H.; Kipfstuhl, S.; Kostick, C.; Maselli, O. J.; Mekhaldi, F. (8 tháng 7 năm 2015). “Timing and climate forcing of volcanic eruptions for the past 2,500 years”. Nature (bằng tiếng Anh). 523 (7562): 543–549. Bibcode:2015Natur.523..543S. doi:10.1038/nature14565. ISSN 1476-4687. PMID 26153860. S2CID 4462058.
  26. ^ Fei, J (2006). “The possible climatic impact in China of Iceland's Eldgja eruption inferred from historical sources”. Climatic Change. 76 (3–4): 443–457. Bibcode:2006ClCh...76..443F. doi:10.1007/s10584-005-9012-3. S2CID 129296868.
  27. ^ a b Oppenheimer, Clive; Wacker, Lukas; Xu, Jiandong; Galván, Juan Diego; Stoffel, Markus; Guillet, Sébastien; Corona, Christophe; Sigl, Michael; Di Cosmo, Nicola; Hajdas, Irka; Pan, Bo; Breuker, Remco; Schneider, Lea; Esper, Jan; Fei, Jie (15 tháng 2 năm 2017). “Multi-proxy dating the 'Millennium Eruption' of Changbaishan to late 946 CE”. Quaternary Science Reviews (bằng tiếng Anh). 158: 164–171. Bibcode:2017QSRv..158..164O. doi:10.1016/j.quascirev.2016.12.024. ISSN 0277-3791. S2CID 56233614.
  28. ^ Theo Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản.
  29. ^ Nakamura, Toshio (2007). “High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages”. The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu). 46 (3): 195–204. doi:10.4116/jaqua.46.195. ISSN 1881-8129.
  30. ^ Yatsuzuka, Shinya; Okuno, Mitsuru; Nakamura, Toshio; Kimura, Katsuhiko; Setoma, Yohei; Miyamoto, Tsuyoshi; Kim, Kyu Han; Moriwaki, Hiroshi; Nagase, Toshiro; Jin, Xu; Jin, Bo Lu; Takahashi, Toshihiko; Taniguchi, Hiromitsu (2010). “14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea”. Radiocarbon (bằng tiếng Anh). 52 (3): 933–940. doi:10.1017/S0033822200046038. ISSN 0033-8222. S2CID 62840908.
  31. ^ 澤田恵美; 木村勝彦; 八塚槙也; 中村俊夫; 宮本毅; 中川光弘; 長瀬敏郎; 菅野均志; Xu, J. I. N.; 奥野充 (2018). “白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代” [14C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea]. 福岡大学理学集報 (bằng tiếng Nhật). 48 (2): 43–48. ISSN 0386-118X.
  32. ^ Twitchett and Tietze (1994), 102.
  33. ^ a b Kim, Jinwung (2012). A History of Korea: From "Land of the Morning Calm" to States in Conflict (bằng tiếng Anh). Indiana University Press. tr. 87–88. ISBN 978-0253000248. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2017.
  34. ^ a b 據《渤海国记》:“定安国王大氏、乌氏迭见其理不可晓。渤海亡,始建国,下讫淳化二年,凡六十四年。”
  35. ^ Theo văn bia trên mộ của Gia Luật Tông Giáo.