USS Bell (DD-95)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Bell (DD-95)
Tàu khu trục USS Bell (DD-95)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Bell
Đặt tên theo Henry H. Bell
Xưởng đóng tàu Xưởng tàu Fore River, Bethlehem Shipbuilding Corporation, Quincy, Massachusetts
Đặt lườn 16 tháng 11 năm 1917
Hạ thủy 20 tháng 4 năm 1918
Người đỡ đầu Bà Josephus Daniels
Nhập biên chế 31 tháng 7 năm 1918
Xuất biên chế 21 tháng 6 năm 1922
Xóa đăng bạ 25 tháng 1 năm 1937
Số phận Bán để tháo dỡ, 18 tháng 4 năm 1939
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Wickes
Trọng tải choán nước
  • 1.154 tấn Anh (1.173 t) (thông thường),
  • 1.247 tấn Anh (1.267 t) (đầy tải)
Chiều dài 314,4 ft (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft (9,45 m)
Mớn nước 9 ft (2,74 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 24.610 hp (18.350 kW)
Tốc độ 35,3 kn (65,4 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 122 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Bell (DD-95) là một tàu khu trục thuộc lớp Wickes của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Henry H. Bell.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Bell được đặt lườn vào ngày 16 tháng 11 năm 1917 tại xưởng tàu Fore River của hãng Bethlehem Shipbuilding CorporationQuincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 4 năm 1918, được đỡ đầu bởi Bà Josephus Daniels, phu nhân Bộ trưởng Hải quân Josephus Daniels, và được đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 7 năm 1918 tại Xưởng hải quân Mare Island dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân D. L. Howard.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1918, Bell hộ tống các đoàn tàu vận tải chuyển quân vượt Bắc Đại Tây Dương, và vào tháng 12 hình thành nên đội hình hộ tống cho chiếc SS George Washington đưa Tổng thống từ New York đến Brest, Pháp. Bell tiếp tục phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương cho đến khi được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 6 năm 1920, và được cho xuất biên chế tại Xưởng tàu Portsmouth vào ngày 21 tháng 6 năm 1922. Bell bị bỏ không cho đến tháng 8 năm 1936, khi nó được công bố bên ngoài hạn ngạch mà Hiệp ước Hải quân London quy định. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 18 tháng 4 năm 1939.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]