Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam Cao”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Hồi sửa về phiên bản 69400638 của NguoiDungKhongDinhDanh (Restorer)
Thẻ: Lùi sửa Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 42: Dòng 42:
Ông xuất thân từ một gia đình [[Công giáo]] bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải.
Ông xuất thân từ một gia đình [[Công giáo]] bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải.


Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống [[Nam Định]] học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là [[trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định]]). Sau ông phải vào [[Sài Gòn]] kiếm sống để mưu sinh bằng nghề viết văn, làm báo. Ba năm sau, do điều kiện thời tiết [[Sài Gòn]] không phù hợp nên ông bị ốm phải trở về quê kiếm sống kết hôn ở tuổi 18
Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống [[Nam Định]] học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là [[trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định]]). Sau ông phải vào [[Sài Gòn]] kiếm sống để mưu sinh bằng nghề viết văn, làm báo. Ba năm sau, do sức khoẻ nên ông trở ra Bắc dạy học cho một trường thục [[Hà Nội]] rồi kết hôn ở tuổi 18.


=== Đến với văn nghiệp ===
=== Đến với văn nghiệp ===

Phiên bản lúc 01:59, ngày 11 tháng 12 năm 2022

Nam Cao
SinhTrần Hữu Tri
1915 hoặc 1917
Hà Nam, Liên bang Đông Dương
Mất28 tháng 11, 1951(1951-11-28) (36 tuổi)
Ninh Bình, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Bút danhNam Cao, Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt
Nghề nghiệpNhà văn, nhà báo, nhà thơ, phóng viên
Giai đoạn sáng tác1935-1951
Thể loạiTruyện ngắn, Tiểu thuyết, phóng sự
Trào lưuChủ nghĩa hiện thực
Tác phẩm nổi bậtKịch: Đóng góp
Tiểu thuyết: Truyện người hàng xóm, Sống mòn
Truyện ngắn: Chí Phèo, Lão Hạc, Đôi mắt
Giải thưởng nổi bậtGiải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật
Bạn đờiTrần Thị Sen
1935 (cưới 1951)
Con cáiTrần Thị Hồng
Thân nhânTrần Hữu Huệ (cha)
Trần Thị Minh (mẹ)

Nam Cao (1915 hoặc 1917 – 30 tháng 11 năm 1951[1]) là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo và cũng là một chiến sĩ, liệt sỹ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng Tháng Tám), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Thân thế và sự nghiệp

Tiểu sử

Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần Hữu Trí [2]), sinh ngày 29 tháng 10 năm 1915 nhưng giấy khai sinh ghi là 1917.[3] Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.[4]

Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải.

Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định). Sau ông phải vào Sài Gòn kiếm sống để mưu sinh bằng nghề viết văn, làm báo. Ba năm sau, vì lí do sức khoẻ nên ông trở ra Bắc dạy học cho một trường tư thục ở Hà Nội rồi kết hôn ở tuổi 18.

Đến với văn nghiệp

Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư.

Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.

Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.

Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên tờ Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn...

Tham gia hoạt động cách mạng

Tháng 4 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những thành viên đầu tiên của tổ chức này. Bị địch truy nã gắt gao, ông phải trốn về quê.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, ông cho in truyện ngắn Mò sâm banh trên tạp chí Tiên Phong.

Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông vào miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn Nỗi truân chuyên của khách má hồng trên tạp chí Tiên Phong, in tập truyện ngắn Cười ở Nhà xuất bản Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí Phèo. Ra Bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nướcCờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.

Năm 1950, Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sĩ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.

Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.[5]

Trên đường đi thi hành nhiệm vụ, ông bị địch Pháp phục kích vây bắt và hy sinh vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng 10 âm lịch), tại đồn Hoàng Đan thuộc làng Vũ Đại, xã Gia Xuân, Gia Viễn (Ninh Bình).[1]

Sau khi hy sinh, phần mộ ông bị thất lạc. Đầu năm 1996, một chương trình có tên "Tìm lại Nam Cao" nhằm tìm lại mộ phần của ông được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Nhân dân,... Với sự giúp đỡ của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) mời dự, một ngôi mộ được cho là của Nam Cao đã được tìm thấy ở nghĩa trang huyện Gia Viễn, (Ninh Bình) và quy tập về quê hương ông (xã Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam).

Tuy mất sớm, nhưng ảnh hưởng của ông đến văn học Việt Nam vẫn đáng kể. [2]

Cũng trong năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Nhà tưởng niệm Nam Cao được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà Nam để tưởng niệm nhà văn này.

Tác phẩm

Kịch

  • Không có

Tiểu thuyết

  • Truyện người hàng xóm (1944) - Báo Trung văn Chủ nhật.
  • Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956)[3], ban đầu có tên Chết mòn - Nhà xuất bản Văn Nghệ.
  • Và bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.

Truyện ngắn

Trước cách mạng

Sau cách mạng

  • Mò Sâm Banh (1945)
  • Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946)
  • Đôi mắt (1948)
  • Đợi chờ
  • Trần Cừ
  • Những bàn tay đẹp ấy
  • Hội nghị nói thẳng
  • Định mức
  • Năm anh hàng thịt
  • Một cuộc đốt làng
  • Áo vải

Truyện ký cách mạng

  • Đường vô Nam
  • Ở rừng (Nhật ký)
  • Từ ngược về xuôi
  • Trên những con đường Việt Bắc
  • Bốn cây số cách một căn cứ địch
  • Vui dân công
  • Vài nét ghi qua vùng giải phóng

Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách địa lý với Văn Tân Địa dư các nước châu Âu (1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi (1969), Địa dư Việt Nam (1951).

Danh hiệu tôn vinh

Gia đình

Ông có một vợ và năm người con, trong đó một người đã mất trong nạn đói năm Ất Dậu.

Tham khảo

  1. ^ “Ngày 30-11-1951: Ngày mất nhà văn Nam Cao”. Báo Quân đội nhân dân. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2022.
  2. ^ http://tuyengiao.vn/nhip-cau-tuyen-giao/tuyen-giao-cac-cap/le-tuong-niem-60-nam-ngay-mat-nha-van-liet-sy-nam-cao-36966
  3. ^ “Tiểu sử Nhà văn Nam Cao”. Truy cập 15 tháng 8 năm 2016.
  4. ^ “Nam Cao - Trang Website ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2010.
  5. ^ Nhà văn liệt sĩ Nam Cao và những đóng góp cho nền báo chí cách mạng - Trang Website ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam[liên kết hỏng]
  6. ^ Quy định về tốc độ tối đa trên các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố Đà Nẵng, Trang Website Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng

Chú thích

  1. ^ nhiều nguồn ghi Nam Cao tên thật Trần Hữu Trí
  2. ^ Theo Nguyễn Văn Hạnh.

Liên kết ngoài