Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Mùa Xuân 1975”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 29: Dòng 29:


'''''Quân chủ lực'''''
'''''Quân chủ lực'''''
*Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) gồm: các sư đoàn bộ binh 312, 320B, sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, trung đoàn pháp binh 45, Lữ đoàn công binh 299. <ref>Quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 39-40</ref>
*Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) tham gia giai đoạn cuối chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 312, 320B, sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, trung đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299. <ref>Quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 39-40</ref>
*Quân đoàn 2 (Binh doàn Hương Giang) gồm: các sư đoàn bộ binh 304, 325, 324, sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 164, trung đoàn đặc công 116.<ref>Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
*Quân đoàn 2 (Binh doàn Hương Giang) tham gia từ đầu chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 304, 325, 324, sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 164, trung đoàn đặc công 116.<ref>Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
*Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) gồm: các sư đoàn bộ binh 10, 316, 320A, trung đoàn xe tăng 273, các trung doàn pháo binh 40 và 575, trung đoàn đặc công 198, các trung đoàn phòng không 232, 234 và 593, các trung đoàn công binh 7 và 575.<ref>Bộ đội chủ lực Tây nguyên-Quân đoàn 3 (1965-2005). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
*Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) tham gia từ đầu chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 10, 316, 320A, trung đoàn xe tăng 273, các trung doàn pháo binh 40 và 575, trung đoàn đặc công 198, các trung đoàn phòng không 232, 234 và 593, các trung đoàn công binh 7 và 575.<ref>Bộ đội chủ lực Tây nguyên-Quân đoàn 3 (1965-2005). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
*Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) gồm: các sư đoàn bộ binh 7, 9, 302, các trung đoàn pháo binh 24, trung đoàn đặc công 429, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn công binh 25, các tiểu đoàn thiết giáp 20, 21 và 25. Quân doàn này có tổng quân số 35.112 người, trong đó, quân số trực tiếp chiến đấu 29.034 nguời <ref>Lịch sử Quân đoàn 4-Binh đoàn Cửu Long 1974-2004. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
*Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) tham gia từ đầu chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 7, 9, 302, các trung đoàn pháo binh 24, trung đoàn đặc công 429, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn công binh 25, các tiểu đoàn thiết giáp 20, 21 và 25. Quân doàn này có tổng quân số 35.112 người, trong đó, quân số trực tiếp chiến đấu 29.034 nguời <ref>Lịch sử Quân đoàn 4-Binh đoàn Cửu Long 1974-2004. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
*Đoàn 232 gồm: sư đoàn bộ binh 5, 3 trung đoàn chủ lực khu VIII, 2 trung đoàn chủ lực khu IX
*Đoàn 232 tham gia giai đoạn cuối chiến dịch gồm: sư đoàn bộ binh 5, 3 trung đoàn chủ lực khu VIII, 2 trung đoàn chủ lực khu IX.
*Các trung đoàn không quân vận tải 918 và 919.
*Các trung đoàn không quân vận tải 918 và 919.
*Các hải đoàn 124, 125, 126 Hải quân.
*Các hải đoàn 124, 125, 126 Hải quân.

Phiên bản lúc 11:56, ngày 15 tháng 7 năm 2009

Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975
Một phần của Chiến tranh Việt Nam

Xe tăng 390 của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sân dinh Độc Lập
Thời gian31 tháng 12 năm 1974 - 30 tháng 4 năm 1975
Địa điểm
Kết quả Quân đội Nhân dân Việt Nam chiến thắng
Tham chiến
Quân đội Nhân dân Việt Nam,
Quân giải phóng miền Nam
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Chỉ huy và lãnh đạo
Văn Tiến Dũng
Lê Trọng Tấn
Hoàng Minh Thảo
Trần Văn Trà
Hoàng Cầm
Nguyễn Hữu An
Đinh Đức Thiện
Lê Đức Anh
Nguyễn Văn Thiệu
Ngô Quang Trưởng
Phạm Văn Phú
Dư Quốc Đống
Lực lượng
Khoảng 1 triệu quân chủ lực và du kích, trong đó có 200.000-270.000 quân chính quy[1] 229.000 quân chính quy
Địa phương quân:gần 500.000[1].
Thương vong và tổn thất
Không rõ Không rõ

Chiến dịch mùa xuân năm 1975 là tên gọi của những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của các lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 4 tháng 3 và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc tấn công cuối cùng này chia thành ba chiến dịch liên tiếp nhau gọi là Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 24 tháng 3), Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng (từ 21 tháng 3 đến 29 tháng 3) và cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4). Những trận đánh này được thực hiện sau khi Hoa Kỳ rút hẳn khỏi cuộc chiến, cán cân lực lượng đã nghiêng hẳn sang phía lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kết quả thắng lợi quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch này đã dẫn đến sự kiện 30 tháng 4, 1975 kết thúc Chiến tranh Việt Nam.

Lực lượng các bên

Quân đội nhân dân Việt Nam

Lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu

Quân chủ lực

  • Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) tham gia giai đoạn cuối chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 312, 320B, sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, trung đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299. [2]
  • Quân đoàn 2 (Binh doàn Hương Giang) tham gia từ đầu chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 304, 325, 324, sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 164, trung đoàn đặc công 116.[3]
  • Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) tham gia từ đầu chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 10, 316, 320A, trung đoàn xe tăng 273, các trung doàn pháo binh 40 và 575, trung đoàn đặc công 198, các trung đoàn phòng không 232, 234 và 593, các trung đoàn công binh 7 và 575.[4]
  • Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) tham gia từ đầu chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 7, 9, 302, các trung đoàn pháo binh 24, trung đoàn đặc công 429, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn công binh 25, các tiểu đoàn thiết giáp 20, 21 và 25. Quân doàn này có tổng quân số 35.112 người, trong đó, quân số trực tiếp chiến đấu 29.034 nguời [5]
  • Đoàn 232 tham gia giai đoạn cuối chiến dịch gồm: sư đoàn bộ binh 5, 3 trung đoàn chủ lực khu VIII, 2 trung đoàn chủ lực khu IX.
  • Các trung đoàn không quân vận tải 918 và 919.
  • Các hải đoàn 124, 125, 126 Hải quân.

Các quân khu và Đoàn 559

Các đơn vị phía sau không trực tiếp chiến đấu trong chiến dịch

  • Sư đoàn bộ binh 2 (ở Bắc Tây nguyên)
  • Sư đoàn bộ binh cơ giới 308 (ở Ninh Bình, Thanh Hoá)
  • Sư đoàn phòng không 361 (ở Hà Nội)
  • Sư đoàn phòng không 363 (ở Hải Phòng)
  • Sư đoàn phòng không 365 (ở Nghệ An, Hà Tĩnh)
  • Sư đoàn phòng không 377 (ở Trị-Thiên)
  • 3 trung đoàn không quân tiên kích
  • Đoàn 559 (Binh đoàn Trường Sơn) gồm :
    • 2 sư đoàn ô tô vận tải 471, 571
    • 4 trung công binh 470, 472, 473, 565
    • 6 trung đoàn cao xạ
    • 1 trung đoàn vệ binh
    • 4 trung đoàn đường ống xăng dầu
    • 2 trung đoàn thông tin liên lạc
    • Các đơn vị kho, huấn luyện, an dưỡng và 4 đoàn thanh niên xung phong.

Theo một số hãng thông tấn phương Tây, Quân đội Nhân dân Việt Nam tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 (kể cả các sư đoàn phòng thủ miền Bắc, không tham gia chiến đấu trực tiếp) gồm 23 sư đoàn bộ binh và các lực lượng khác. Tổng quân số gần 1 triệu [6]

Vũ khí và trang thiết bị quân sự

  • Lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Nhan dân Việt Nam được trang bị các loại xe tăng T-34, T-54/55, pháo tự hành SU-76 của Liên Xô; xe tăng lội nước PT-76 của Ba Lan, các loại xe thiết giáp BTR-40/50/60/152 của Liên Xô, xe tăng T-59, xe thiết giáp K-63 của Trung Quốc.
  • Pháo binh yểm hộ mặt đất được trang bị các loại pháo nòng dài 130 mm, 122 mm và 85 mm; lựu pháo 155 mm, 105 mm; súng cối các cỡ nòng 120 mm, 81 mm.
  • Lực lượng phòng không được trang bị tên lửa SAM-2; súng cao xạ các cỡ 100 mm, 57 mm, và 37 mm; súng máy phòng không các cỡ 14,5 mm và 12,7 mm.
  • Không quân (tham gia giai đoạn cuối) được trang bị 6 máy bay A-37 chiếm được của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại các sân bay Đà Nẵng và Thành Sơn.

Quân lực Việt Nam Cộng Hòa

Binh lực

  • 13 sư đoàn bộ binh và binh chủng đặc biệt gồm:
  • Liên đoàn 81 biệt kích dù.
  • 18 liên đoàn biệt động quân.
  • 65 tiểu đoàn pháo binh..
  • 22 thiết đoàn và 57 chi đội xe tăng thiết giáp.
  • 6 sư đoàn không quân
  • 4 hải đoàn và giang đoàn Cửu Long.

Vũ khí và trang thiết bị quân sự

  • Lục quân Quân lực Việt Nam Cộng hoà có 2.074 xe tăng và xe thiết giáp các loại: M-48, M-41, M-113, M-155; 1.556 pháo các cỡ 175mm, 155 mm, 105 mm, 85 mm. Không quân có 840 chiếc trực thăng UH-1, CH-47) và 1.733 máy bay có cánh cố định, trong đó có 1.257 máy bay chiến đấu các loại A-1 (động cơ cánh quạt), A-37 (phản lực), F-5 (phản lực siêu âm). Hải quân có hơn 300 tàu chiến, tàu chở quân trên biển và gần 200 tàu xuồng chiến đấu trên sông.

Bố trí binh lực của Quân đội nhân dân Việt Nam

Miền Nam

Miền Bắc

Bố trí binh lực của Quân lực Việt Nam Cộng hoà

Vùng Chiến thuật I

Vùng Chiến thuật II

Vùng Chiến thuật III

Vùng chiến thuật IV

Diễn biến

Trận Phước Long

Chiến dịch Tây Nguyên

Chiến dịch Tây Nguyên đã được lãnh đạo quân sự của Bắc Việt Nam trù tính và chuẩn bị kỹ theo kế hoạch ban đầu là giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Kế hoạch 2 năm đó hoạch định trong năm 1975 chiếm hoàn toàn cao nguyên Trung phần và phát triển từ đó xuống dải đồng bằng ven biển miền Trung của Quân khu 2, tiêu diệt Quân khu 2 Nam Việt Nam, cắt Nam Việt nam thành hai phần: Quân khu 1 (với Quảng Trị, Thừa Thiên-HuếĐà Nẵng) bị cô lập ở phía bắc và Quân khu 3, 4 ở phía nam. Còn trong năm 1976 sẽ tổng tấn công kết thúc chiến tranh. Như vậy chiến dịch Tây Nguyên có vai trò trọng tâm trong kế hoạch tấn công của quân Cộng sản năm 1975.

So sánh lực lượng trên chiến trường Tây Nguyên

Phương án tiến công chiến dịch Tây Nguyên của Bộ tổng tư lệnh quân Bắc Việt Nam chỉ rõ lấy nam Tây Nguyên làm trận đột phá mà thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Để thực hiện chiến dịch phía Cộng sản đã đưa thêm 2 sư đoàn (316 và 968) lên Tây Nguyên nâng lực lượng của họ tại đây lên 4 sư đoàn (10, 320, 316 và 968) và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập của bộ binh, pháo binh, thiết giáp, đặc công, phòng không, công binh... Và chưa kể Sư đoàn 3 của Quân khu 5 tại Bình Định đánh chia cắt đường 19 và tấn công Sư đoàn 22 Nam Việt Nam không cho ứng cứu để phục vụ trực tiếp chiến dịch này.

Tại Tây Nguyên, lực lượng phòng thủ của Nam Việt Nam chỉ có Sư đoàn 23 bộ binh (gồm 3 trung đoàn số 44, 45 và 53), Sư đoàn 6 không quân và 7 liên đoàn biệt động quân. Ngoài ra còn các tiểu đoàn bảo an đồn trú. Ưu thế lực lượng của quân Cộng sản tại Tây Nguyên đã là 6:1. Sự bố trí quân lực của quân đội Nam Việt Nam tại Tây Nguyên cũng rất sơ hở: Hầu hết lực lượng của họ bố trí tại phía bắc Tây Nguyên để bảo vệ các thị xã PleikuKon Tum trong khi phía nam Tây Nguyên có thị xã Buôn Ma Thuột đóng vai trò trụ cột phòng thủ lại chỉ có Trung đoàn 53 và Liên đoàn 21 biệt động quân. Các hành động nghi binh của Cộng sản đã củng cố thế nguy hiểm của Buôn Mê Thuột khi họ pháo kích và hư trương thanh thế tại phía bắc cao nguyên và bí mật điều 2 sư đoàn (320 và 10) xuống khu vực Buôn Ma Thuột. Lúc khởi đầu chiến dịch, tại điểm quyết chiến Ban Ma Thuột, tỷ lệ áp đảo của phía Cộng sản đã là 3 sư đoàn (320, 10 và 316) chống lại 1 trung đoàn bộ binh và 1 liên đoàn biệt động đồn trú. Tỷ lệ áp đảo 25.000 có xe tăng và pháo lớn yểm trợ đánh 4.000 quân trang bị nhẹ cho họ khả năng thắng lợi chớp nhoáng và không cho phép Nam Việt Nam cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu. Và thực tế đã diễn ra như vậy.

Tiến công Buôn Mê Thuột

Trước khi tiến công Buôn Ma Thuột, các động tác chia cắt chiến trường của quân Cộng sản đồng thời có hai tác dụng: Thứ nhất, việc cắt các đường 19, 21, 14 trong thời gian từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 3 là hành động nghi binh tạo cảm giác là họ chuẩn bị đánh Pleiku hoặc Kon Tum; thứ hai, hành động này đã cách ly Ban Ma Thuột với phần còn lại của các lực lượng Nam Việt Nam, không cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ứng cứu nhanh chóng và ồ ạt trong trường hợp Buôn Mê Thuột bị thất thủ.

Buôn Ma Thuột ngày 11.3.1975 (Nguồn: Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng- NXB Thông tin 2004)

2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân đội Bắc Việt Nam tiến công Buôn Ma Thuột với lực lượng chủ công là Sư đoàn 316, một đơn vị có truyền thống tác chiến rừng núi của phía Cộng sản. Cuộc tiến công có pháo binh yểm hộ mãnh liệt và xe tăng xung phong. Quân phòng ngự Buôn Ma Thuột đã kháng cự quyết liệt và co cụm phòng thủ nhưng dưới áp lực quá mạnh của đối phương họ chỉ cầm cự được trong hơn một ngày. Quân Cộng sản đã hoàn thành nhanh gọn bước 1 của chiến dịch.

Sư đoàn 10 của phía quân Bắc Việt, sau khi tiến công chật vật quận lỵ Đức Lập phía nam Buôn Ma Thuột trong 2 ngày, đến ngày 10 tháng 3 đã đánh chiếm xong mục tiêu liền nhanh chóng cơ động đến phía Đông Bắc thị xã Buôn Ma Thuột đứng chân chờ đánh quân phản kích.

Sau khi mất Buôn Ma Thuột, Tư lệnh Quân đoàn 2 và Quân khu 2 Việt Nam Cộng hòa liền đưa 2 trung đoàn (44 và 45) còn lại của Sư đoàn 23 về tái chiếm lại hậu cứ của mình. Do Sư đoàn 320 quân Bắc Việt đã cắt đường 14 không cho phép quân phản kích đi đường bộ với số lượng lớn và vũ khí nặng nên quân đội Việt Nam Cộng hòa phải trực thăng vận trong 2 ngày (12 và 13 tháng 3) xuống khu vực Phước An. Sư đoàn 10 của Bắc Việt Nam đã chờ sẵn và tiến công các lực lượng ứng cứu chưa kịp đứng chân. Các lực lượng này chưa hề có hành động phản kích nào mà phải lo bảo vệ mình, bị đẩy lùi xa dần khỏi Buôn Ma Thuột và cuối cùng bị đánh tan tại Chư Cúc ngày 18 tháng 3. Buôn Mê Thuột đã mất hẳn vào tay quân Bắc Việt.

Bước ngoặt của chiến cuộc 1975

Mất căn cứ phòng thủ cao nguyên và trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động khả dĩ nào để có thể xoay chuyển tình thế (2 sư đoàn dự bị chiến lược là Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến là quá ít và chính họ cũng đang bị uy hiếp, dính chặt ở Quân khu 1 như các đơn vị đồn trú). Đến ngay như việc mất tỉnh Phước Long cách Sài Gòn chỉ khoảng 100 km trước đó khoảng hai tháng mà quân Nam Việt Nam cũng không còn lực lượng để tái chiếm). Điều đó cho thấy tình thế rất bị bó buộc của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Thêm nữa các lực lượng tại bắc Tây Nguyên đang chịu nguy cơ bị tấn công tiêu diệt, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu quyết định bỏ Tây Nguyên, rút các lực lượng còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển miền Trung. Tuyến hành quân sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó rẽ vào đường 7 (đã bỏ từ lâu) và xuôi về thị xã Tuy Hoà thuộc tỉnh Phú Yên. Mệnh lệnh này được ban ra bằng lời sau cuộc họp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Nha Trang với Tổng Tham mưu trưởng và Tư lệnh Quân khu 2. Đây là quyết định chết người dành cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quyết định này có lẽ là hệ quả tất nhiên của tình trạng suy kiệt lực lượng của Nam Việt Nam lúc đó.

Quân phòng thủ Bắc Tây Nguyên chỉ có 2-3 ngày để chuẩn bị cuộc hành quân. Thực tế cuộc hành quân này không có kế hoạch, không có yểm trợ và phó mặc tất cả vào sự may rủi của số phận. Một lực lượng quân hàng vạn người chuẩn bị trong 2-3 ngày, đi hàng trăm kilômét không có yểm trợ với tinh thần chiến đấu xuống rất thấp sau khi Ban Ma Thuột thất thủ, và đặc biệt họ đi cùng gia đình và dân chạy nạn. Tất cả đã làm cho cuộc hành quân thành đoàn xe cộ khổng lồ ùn tắc không đội hình, không tổ chức, không thể chỉ huy và chiến đấu được.

Khi được tin quân Nam Việt Nam bỏ Tây Nguyên, Bộ chỉ huy Quân Giải phóng Miền Nam tại Tây Nguyên ra lệnh cho Sư đoàn 320 đang phong tỏa đường 14 đuổi theo. Bộ phận đi đầu của đơn vị này chạy đua, tắt núi đón đầu và kịp chặn đường tại bên ngoài thị xã Cheo Reo tỉnh Phú Bổn. Chỉ một lực lượng rất nhỏ quân Nam Việt Nam đi thoát còn toàn bộ đoàn quân và dân chạy nạn đã bị tan rã không tổ chức lại được nữa.

Kế hoạch di tản của Nam Việt Nam đã không cứu được lực lượng quân bố phòng Tây Nguyên. Tây Nguyên mất vào tay phía quân Bắc Việt gây ra làn sóng hoảng loạn lan khắp mọi nơi và làm tan rã tinh thần toàn bộ binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân đội Nam Việt Nam bắt đầu tan rã nhanh chóng và sụp đổ.

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng

Chiến dịch này bắt đầu từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 3 năm 1975 trong khi chiến dịch Tây Nguyên còn chưa kết thúc. Chiến dịch này đã xóa bỏ Quân khu 1 Quân đoàn 1 của Việt Nam Cộng hòa.


Khi nhận được tin quân Nam Việt Nam ở Tây Nguyên di tản tan vỡ, lãnh đạo phía Cộng sản tại Hà Nội đã nhận định rằng đối phương đang tan vỡ, không còn chiến đấu có tổ chức chặt chẽ nữa. Họ liền chuyển ngay sang phương án thời cơ cho Quân đoàn 2 (hay còn gọi là Binh đoàn Hương Giang, được thành lập từ các đơn vị chiến đấu trên mặt trận Trị - Thiên và Khu 5, gồm 3 sư đoàn 304, 324, 325 và các trung đoàn, lữ đoàn độc lập các binh chủng phối thuộc) tiến công chiếm cố đô HuếĐà Nẵng - thành phố lớn thứ hai của miền Nam và là trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế lớn nhất của Quân khu 1. Chiến dịch này mang tính ứng tác, ngẫu hứng của quân Bắc Việt: Gần như tiến hành theo chỉ thị từ xa trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh tại Hà Nội. Tư lệnh và Chính uỷ của chiến dịch thậm chí chưa gặp mặt nhau, không có Bộ Tư lệnh chiến dịch, mọi thông tin mệnh lệnh truyền đạt đều trên vô tuyến. Quân Bắc Việt Nam tiến đánh không cần chuẩn bị chiến trường, không trinh sát, thậm chí đánh tràn lan không cần pháo binh yểm hộ.

Tinh thần quân đội Nam Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ sau cuộc di tản ở cao nguyên Trung phần và họ không còn kháng cự có tổ chức nữa. Trước tình hình nguy ngập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút các sư đoàn dù và thủy quân lục chiến ra khỏi Quân khu 1 về bảo vệ các mục tiêu quan trọng hơn. Việc này lại càng làm Quân khu 1 thêm hoang mang hoảng loạn. Quân khu 1 ra lệnh cho rút bỏ Quảng Trị để kéo hết binh lực ở đó về phòng thủ Huế. Nhưng khi quân Cộng sản đến gần Huế, quân Nam Việt Nam lại quyết định bỏ Huế kéo về Đà Nẵng tử thủ. Nhưng quân Bắc Việt Nam đã cắt đường trên đèo Hải Vân do đó quân Nam Việt Nam tại Huế chỉ còn cách chạy ra cửa biển Thuận AnTư Hiền để chờ tàu hải quân đến cứu. Cuộc tháo chạy đã diễn ra hoảng loạn vô tổ chức. Quân Bắc Việt Nam đã pháo kích cửa biển. Những lực lượng Nam Việt Nam đã được lên tàu chạy vào đến Đà Nẵng lên bờ cũng không còn là đơn vị chiến đấu nữa mà còn làm cho rối loạn thêm tình hình tại Đà Nẵng. Các lực lượng còn lại bỏ vũ khí hoặc đầu hàng hoặc tan rã. Ngày 26 tháng 3, Huế thất thủ.

Ngay sau Huế, Quân Giải phóng Miền Nam liền kéo đến Đà Nẵng từ phía Nam và phía Bắc. Với mức độ rối loạn như thế thì quân Nam Việt Nam có quyết tâm tử thủ cũng chẳng được. Thành phố hỗn loạn, quân lính đang cướp bóc, quân lính và dân đang cố gắng thoát khỏi thành phố bằng tàu hải quân. Các đơn vị phòng thủ phía ngoài cũng đang tan rã. Quân Cộng sản bỏ qua vòng ngoài nhanh chóng thọc sâu vào thành phố mà không gặp kháng cự nào đáng kể. Ngày 29 tháng 3, Đà Nẵng thất thủ. Tại đây khoảng 10 vạn sĩ quan, binh lính Nam Việt Nam đã ra hàng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng kết thúc.

Trong nửa đầu tháng 4, lần lượt các tỉnh thành phố ven biển miền trung gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú YênKhánh Hoà rơi vào tay quân Bắc Việt. Quân Bắc Việt từ phía Bắc tràn vào (Quân đoàn 2) và từ trên cao nguyên đổ xuống (Quân đoàn 3: ngày 26 tháng 3 năm 1975, phía Cộng sản thành lập quân đoàn này từ các đơn vị mặt trận Tây Nguyên nên đặt tên là binh đoàn Tây Nguyên gồm 3 sư đoàn 10, 316, 320 và các trung đoàn, lữ đoàn độc lập).

Quân đội Nam Việt Nam gom tất cả các đơn vị còn lại của các quân đoàn, quân khu 1 và 2, lập phòng tuyến ngăn chặn tại Phan Rang và giao cho Quân đoàn 3 Nam Việt Nam chỉ huy. Nhưng phòng tuyến này cũng nhanh chóng bị đập tan, Tư lệnh chiến trường bị bắt sống. Quân Bắc Việt tràn xuống đồng bằng Nam Bộ và chỉ còn cách Sài Gòn khoảng 100 km, các cánh quân của họ đang rầm rập hướng vào phía Sài Gòn.

Trận Xuân Lộc

Mọi cố gắng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trông vào tuyến phòng thủ Xuân Lộc của Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa đang chống lại đối phương là Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long - bao gồm các đơn vị từ mặt trận Đông Nam Bộ của quân Cộng sản gồm 3 sư đoàn 6, 7, 341 và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập). Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Cộng sản định đánh chiếm thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh trên đường tiến, nhưng Sư đoàn 18 đã kháng cự dũng cảm, ác liệt, có tổ chức và đã giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân Việt Nam Cộng hòa tiếp viện cho Xuân Lộc bằng Lữ đoàn 1 Dù và Lữ đoàn 3 Thiết giáp - những lực lượng dự bị cuối cùng - với hy vọng bằng tấm gương Xuân Lộc sẽ cổ vũ toàn thể lực lượng còn lại vững tin chống lại quân địch đang xốc tới và gây tiếng vang để Hoa Kỳ tin tưởng tiếp tục viện trợ. Quân đoàn 4 Quân giải phóng không lấy được thị xã trong đường tiến buộc phải dừng lại xây dựng trận địa tiến công, họ không đánh trực diện vào quân phòng thủ mà triệt ứng cứu từ phía Biên Hòa. Đồng thời họ không mất thì giờ với Xuân Lộc mà đi vòng để tiến đến Biên Hòa. Biên Hòa bị uy hiếp, phòng tuyến Xuân Lộc không còn ý nghĩa phòng thủ nữa. Ngày 21 tháng 4, quân phòng thủ Việt Nam Cộng hòa bỏ Xuân Lộc rút lui có trật tự sang bên kia sông Đồng Nai cố thủ. Tại mặt trận Xuân Lộc, Không lực Việt Nam Cộng hòa đã ném bom cháy CBU-55 xuống ngã ba Dầu Giây gây thương vong lớn cho phía Cộng sản (mỗi quả có bán kính sát thương 50 m và được cho là đã giết khoảng 250 người. Liên XôTrung Quốc đã phản đối mạnh mẽ với việc sử dụng loại bom sát thương cao này[7]). Với việc bỏ Xuân Lộc, Sài Gòn không còn được phòng thủ từ xa nữa, Quân Giải phóng Miền Nam đang áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi.

Ngày Xuân Lộc thất thủ, không còn gì để cứu vãn nữa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức để người khác đàm phán với phía Cộng sản. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Cộng sản không chấp nhận nói chuyện với ông. Các lực lượng chính trị thứ ba đã dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống ngày 28 tháng 4 năm 1975.

Chiến dịch Hồ Chí Minh

Để đảm bảo chắc thắng trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, Quân đội nhân dân Việt Nam đưa thêm Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết thắng), gồm các sư đoàn 312 và 320B cơ động bằng đường biển và đuờng không vào chiến trường. Sư đoàn 308 (còn gọi là Sư đoàn Quân Tiên phong) được để lại miền Bắc làm lực lượng dự bị.

Lúc đó tại khu vực xung quanh Sài Gòn, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có 13 đơn vị cấp sư đoàn và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập của các binh chủng bộ binh, pháo binh, thiết giáp, phòng không, đặc công, công binh... Tất cả lực lượng này có quy mô tương đương một tập đoàn quân với bốn quân đoàn và một đơn vị tương đương quân đoàn (Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232). Các đơn vị nói trên được bố trí thành 5 hướng tấn công chính vào Sài Gòn. Ngày 24 tháng 4 năm 1972, Bộ Chính trị Đảng Lao Động Việt Nam đã chímnh thức đặt tên cho chiến dịch này là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch này kéo dài 4 ngày từ ngày 26 tháng 4 đến khi các đơn vị của Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) và lữ đoàn xe tăng 203 Quân đội nhân dân Việt Namchiếm được Dinh Độc Lập và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Người tỵ nạn lên máy bay trực thăng để rời khỏi Việt Nam

Ngày 26 tháng 4, pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam bố trí tại Nhơn Trạch đã bắn vào các mục tiêu: Căn cứ quân sự Đồng Dù, Căn cứ quân sự Bến Lức, Căn cứ quân sự Long Thành, trận địa pháo bi8nh QLVNCH ở Thành Tuy Hạ, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH... trong hơn một giờ. Bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam có xe tăng-thiết giáp yểm hộ đồng loạt tiến quân trên hướng Đông và Đông Bắc Sài Gòn. Đến ngày 27 tháng 4 tất cả các lực lượng còn lại cũng phát động tiến công. Tuy ở một số hướng, quân phòng thủ đã kháng cự ác liệt đặc biệt các trận đánh rất ác liệt của quân phòng thủ đánh nhau với đặc công Cộng sản tìm nhập chiếm các cầu dẫn vào thành phố. Nhưng sức áp đảo của quân Cộng sản quá lớn và quân Nam Việt Nam đã thế cùng lực kiệt không thể chống cự lâu dài được nữa. Đến cuối ngày 28 tháng 4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng tại tất cả các hướng, quân Cộng sản có thể đi ngay vào thành phố. Trong ngày 28 tháng 4 ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.

Trong các ngày 28, 29 tháng 4, từ các tàu sân bay ngoài biển, lính thủy đánh bộ Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác sâu sắc với họ. Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn, có rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng trở nên hỗn loạn. Lính thủy đánh bộ Mỹ đã rất vất vả mới duy trì được trật tự, họ dùng sức mạnh thô bạo gạt phăng các bạn đồng minh cũ đang trong cơn hoạn nạn. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người bạn lâu năm của mình. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹngười Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi.

Để không gây các rắc rối với Hoa Kỳ, tránh động chạm đến tự ái dân tộc của họ, quân Bắc Việt Nam dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết thì mới vào. 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống Dương Văn Minh hạ lệnh đơn phương ngừng chiến, sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền. Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ra lệnh ngừng kháng cự để đàm phán bàn giao chính quyền. Quân Cộng sản tiến nhanh vào Sài Gòn không gặp kháng cự có tổ chức. 11 giờ 30 phút 30 tháng 4 1975 các sĩ quan Quân đội giải phóng đưa Tổng thống Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh Việt Nam kéo dài 21 năm đã chấm dứt. Chiến dịch mùa xuân của phía Cộng sản hoàn toàn thắng lợi.

Dù không có tắm máu trong ngày phe Cộng sản đánh chiếm Sài Gòn nhưng sau đó tác giả Jean Louis Margolin xác nhận là 200 ngàn người bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên "Những ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong tổng số dân là 20 triệu"[8].

Nhận định

  • "Toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín của quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á." (Trần Quang Cơ)[9]
  • "Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là một thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta." (Văn Tiến Dũng)[10]
  • "Mùa Xuân năm 1975, quân và dân cả nước ta đã hái bó hoa Toàn Thắng tươi ngát sắc hương nở trong ánh hào quang chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"...Từ chân trời, đã ánh lên vừng dương sáng hồng như chân lý cách mạng và Mùa Xuân Đại thắng mà dân tộc ta đã sống." (Văn Tiến Dũng)[11]
  • "Không còn nghi ngờ gì nữa đối với các ý đồ của Bắc Việt. Họ sẽ tấn công Nam Việt Nam khi nào có thời cơ thuận lợi; nhưng lần này sẽ là 1 cuộc tấn công quân sự với khí thế áp đảo!" (William Colby)[12]

Chú thích

  1. ^ a b William E. Le Gro, From Cease Fire to Capitulation. Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1981, p. 28.
  2. ^ Quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 39-40
  3. ^ Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005
  4. ^ Bộ đội chủ lực Tây nguyên-Quân đoàn 3 (1965-2005). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005
  5. ^ Lịch sử Quân đoàn 4-Binh đoàn Cửu Long 1974-2004. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005
  6. ^ Spencer Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History, ABC-CLIO, 1998, tr. 770. Trích: "At war's end in 1975, the PAVN numbered nearly 1 million troops, despite the loss..."
  7. ^ Frank Snepp, Decent Interval, Random House; 1st edition (November 12, 1977)
  8. ^ Le Livre Noir du Communisme: Crimes, Terreur, Répression do Robert Laffont, S.A, Paris xuất bản lần đầu năm 1997-Phần IV về Á Châu
  9. ^ Hồi ức và Suy nghĩ - Trần Quang Cơ-Việt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20
  10. ^ Mùa Xuân Đại Thắng chương 17-Văn Tiến Dũng
  11. ^ Mùa Xuân Đại Thắng chương 17-Văn Tiến Dũng
  12. ^ Một chiến thắng bị bỏ lỡ-William Colby NXB CAND p 400

Xem thêm

Liên kết ngoài