USS John S. McCain (DL-3)
![]() Soái hạm khu trục USS John S. McCain (DL-3), vào đầu thập niên 1960.
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | USS John S. McCain |
Đặt tên theo | John S. McCain, Sr. |
Xưởng đóng tàu | Bath Iron Works, Bath, Maine |
Đặt lườn | 24 tháng 10, 1949 như là chiếc DD-928 |
Hạ thủy | 12 tháng 7, 1952 |
Nhà tài trợ | bà Roberta McCain |
Trưng dụng | 23 tháng 9, 1953 |
Nhập biên chế | 12 tháng 10, 1953 |
Tái biên chế | 6 tháng 9, 1969[1] |
Xuất biên chế | |
Xếp lớp lại | DDG-36, 6 tháng 9, 1969[1] |
Xóa đăng bạ | 29 tháng 4, 1978 |
Số phận | Bán để tháo dỡ, tháng 1, 1980 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | lớp Mitscher |
Kiểu tàu | soái hạm khu trục |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 47 ft 6 in (14,5 m) |
Mớn nước | 14 ft 7 in (4 m) (đầy tải) |
Công suất lắp đặt | 60.000 bhp (45.000 kW) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 34 hải lý trên giờ (63,0 km/h) |
Tầm xa | 4.000 nmi (7.400 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 28 sĩ quan, 345 thủy thủ |
Vũ khí |
|
USS John S. McCain (DL-3/DDG-36) là một tàu khu trục lớp Mitscher từng hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, được đặt theo tên Đô đốc John S. McCain, Sr. (1884–1945), chỉ huy lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, từng được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân cùng ba lần được tặng thưởng Huân chương Phục vụ Dũng cảm Hải quân.[2][1] Nó đã dành phần lớn quãng đời hoạt động để phục vụ tại khu vực Thái Bình Dương và Viễn Đông, từng tham gia cuộc Chiến tranh Việt Nam, được cải biến thành một tàu khu trục tên lửa điều khiển từ năm 1966 đến năm 1968, xếp lại lớp thành DDG-36 và tiếp tục phục vụ cho đến năm 1978. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1980
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Lớp Mitscher là lớp tàu khu trục đầu tiên được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Tuy nhiên sau khi việc chế tạo chiếc soái hạm khu trục Norfolk (DL-1) cho thấy có chi phí quá tốn kém (61,9 triệu Đô-la Mỹ), việc chế tạo chiếc tàu chị em CLK-2 của Norfolk bị hủy bỏ, và Hải quân Mỹ chuyển sang cải biến lớp tàu khu trục Mitscher đang đóng thành những soái hạm khu trục.[3]
Thoạt tiên mang ký hiệu lườn DD-928, John S. McCain được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works Corporation ở Bath, Maine vào ngày 24 tháng 10, 1949. Đang khi chế tạo, con tàu được xếp lại lớp như một soái hạm khu trục vào ngày 2 tháng 2, 1951, mang ký hiệu lườn mới DL-3, rồi được hạ thủy vào ngày 12 tháng 7, 1952, được đỡ đầu bởi bà Roberta McCain, con dâu của Đô đốc McCain Sr. và là phu nhân của Đô đốc John S. McCain, Jr.. Con tàu nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ tại Xưởng hải quân Boston vào ngày 12 tháng 10, 1953 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Edward Reuben King Jr.[2][1][4]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi tiến hành chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển Caribe và dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, John S. McCain đi đến Norfolk, Virginia vào ngày 19 tháng 5, 1955, nơi nó phục vụ cùng Lực lượng Phát triển Tác chiến nhằm thử nghiệm những thiết bị và chiến thuật mới. Nó hoạt động từ căn cứ Norfolk cho đến ngày 5 tháng 11, 1956, khi nó khởi hành từ Hampton Roads và băng qua kênh đào Panama để đi sang vùng bờ Tây, đi đến San Diego, California vào ngày 4 tháng 12. Trong năm tháng tiếp theo con tàu thực hành cơ động tại vùng biển Thái Bình Dương ngoài khơi California.[2]
Khởi hành vào ngày 11 tháng 4, 1957, John S. McCain thực hiện chuyến viếng thăm đầu tiên sang Viễn Đông, ghé đến Australia trước khi tham gia hoạt động tuần tra eo biển Đài Loan trong bối cảnh có nguy cơ xung đột giữa lực lượng Cộng sản với phía Quốc dân Đảng đã rút lui về Đài Loan. Nó quay trở về San Diego vào ngày 29 tháng 9. Con tàu chuyển đến cảng nhà mới tại Trân Châu Cảng, Hawaii vào đầu năm 1958, và tiếp tục tham gia các cuộc cơ động hạm đội và huấn luyện chống tàu ngầm. Đến đầu tháng 9, nó lại được phái đến khu vực Đông Á và Đông Nam Á hỗ trợ cho Đệ Thất hạm đội nhằm ngăn ngừa lực lượng Cộng sản đổ bộ lên các đảo Kim Môn và Mã Tổ tại eo biển Đài Loan. Con tàu ở lại khu vực cho đến khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 3, 1959.[2]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e Naval Historical Center. “John S. McCain I (DL-3)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2022.
- ^ Bocquelet, David. “USS Norfolk (DL-1)”. Naval Encyclopedia. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2021.
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Naval Historical Center. “John S. McCain I (DL-3)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2022.
- Fahey, James C. (1965). The Ships and Aircraft of the United States Fleet (ấn bản 8). Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 0-87021-637-6.
- Friedman, Norman (1982). U.S. Destroyers: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-733-X.
- Friedman, Norman (1984). U.S. Cruisers: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-718-6. OCLC 10949320.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Bộ sưu tập hình ảnh của USS John S. McCain (DD-928/DL-3/DDG-36) tại NavSource Naval History
- Destroyer Leader Association: USS John S. McCain, Retrieved 13 Jun 2015