Gearing (lớp tàu khu trục)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lớp tàu khu trục Gearing
USS Gearing tại Địa Trung Hải, năm 1960
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Lớp Gearing class
Xưởng đóng tàu
Bên khai thác
Lớp trước Lớp Allen M. Sumner
Lớp sau Lớp Mitscher
Dự tính 152
Hoàn thành 98
Hủy bỏ 54
Đang hoạt động 0
Bỏ không 2
Nghỉ hưu 98
Giữ lại 5
Đặc điểm khái quátnhư chế tạo ban đầu
Kiểu tàu Tàu khu trục
Trọng tải choán nước
  • 2.616 tấn Anh (2.658 t) (tiêu chuẩn);
  • 3.460 tấn Anh (3.520 t) (đầy tải)
Chiều dài 390,5 ft (119,0 m)
Sườn ngang 40,9 ft (12,5 m)
Mớn nước 14,3 ft (4,4 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số General Electric;
  • 4 × nồi hơi;
  • 2 × trục;
  • công suất 60.000 shp (45.000 kW)
Tốc độ 36,8 hải lý trên giờ (68,2 km/h; 42,3 mph)
Tầm xa 4.500 nmi (8.300 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 350
Vũ khí

Lớp tàu khu trục Gearing bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp Gearing có những cải tiến nhỏ so với lớp Allen M. Sumner dẫn trước, khi lườn tàu được kéo dài thêm 14 ft (4,3 m) phía giữa tàu, giúp chúng có thêm khoảng trống chứa nhiên liệu, và do đó tăng thêm tầm xa hoạt động. Những chiếc Gearing đầu tiên chỉ sẵn sàng hoạt động vào giữa năm 1945, nên chúng chỉ có một ít phục vụ trong Thế Chiến II, nhưng đã tiếp tục phục vụ qua một loạt các nâng cấp cho đến thập niên 1970. Đến lúc đó, nhiều chiếc đã được bán cho các nước khác, nơi chúng tiếp tục hoạt động thêm nhiều năm nữa.

Chín chiếc lớp Gearing hiện vẫn còn tồn tại. ARM Netzahualcóyotl (nguyên là Steinaker) phục vụ cùng Hải quân Mexico cho đến năm 2014, và sẽ bị đánh chìm như một bãi san hô nhân tạo; ROCS Chien Yang (nguyên là James E. Kyes) và ROCS Sheng Yang (nguyên là Power) đang bị bỏ không tại Cao Hùng, Đài Loan cho đến tháng 4 năm 2012. Sáu chiếc khác hiện đang là những tàu bảo tàng: TCG Gayret (nguyên là Eversole) tại Izmit, Thổ Nhĩ Kỳ; ROKS Jeong Buk (nguyên là Everett F. Larson) gần Gangneung, Nam Triều Tiên; ROCS Te Yang (nguyên là Sarsfield) tại Đài Nam, Đài Loan; USS Joseph P. Kennedy Jr. tại Fall River, Massachusetts; ROKS Jeong Ju (nguyên là Rogers) gần Cheonan, Nam Triều Tiên; và USS Orleck tại Lake Charles, Louisiana. ROKS Kang Won (nguyên là William R. Rush), từng là một tàu bảo tàng gần Busan, Nam Triều Tiên, đã bị tháo dỡ vào tháng 12 năm 2016.

Mua sắm và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

31 chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 9 tháng 7 năm 1942:

  • DD-710 đến DD-721 được giao cho Federal Shipbuilding, Kearny.
  • DD-742 đến DD-743 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine.
  • DD-763 đến DD-769 được giao cho Bethlehem Steel, San Francisco.
  • DD-782 đến DD-791 được giao cho Todd Pacific Shipyards, Seattle.

4 chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 13 tháng 5 năm 1942:

  • DD-805 đến DD-808 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine.

3 chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 27 tháng 3 năm 1943 theo Đạo luật Vinson–Trammell:

  • DD-809 đến DD-811 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. (bị hủy bỏ sau đó)

114 chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 19 tháng 7 năm 1943 theo Đạo luật Mở rộng 70%:

  • DD-812 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-813 đến DD-814 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-815 đến DD-825 được giao cho Consolidated Steel, Orange. (815 and 816 bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-826 đến DD-849 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine.
  • DD-850 đến DD-853 được giao cho Bethlehem Steel, Fore River Shipyard, Quincy.
  • DD-854 đến DD-856 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-858 đến DD-861 được giao cho Bethlehem Steel, San Pedro.
  • DD-862 đến DD-872 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island.
  • DD-873 đến DD-890 được giao cho Consolidated Steel, Orange.
  • DD-891 đến DD-893 được giao cho Federal Shipbuilding, Kearny. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-894 đến DD-895 được giao cho Consolidated Steel, Orange. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-896 đến DD-904 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-905 đến DD-908 được giao cho Xưởng hải quân Boston. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-909 đến DD-916 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-917 đến DD-924 được giao cho Consolidated Steel, Orange. (bị hủy bỏ sau đó)
  • DD-925 đến DD-926 được giao cho Xưởng hải quân Charleston. (bị hủy bỏ sau đó)

(Trong số những số hiệu lườn bị thiếu trong loạt này, 722 đến 741, 744 đến 762, 770 đến 781 và 857 được dành để đặt hàng lớp Allen M. Sumner; còn 792 đến 804 được dành để đặt hàng lớp Fletcher)

Những chiếc bị hủy bỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 5 năm 1945, đơn đặt hàng của 36 chiếc nêu trên bị hủy bỏ, và thêm 11 đơn đặt hàng khác bị hủy bỏ vào tháng 8 năm 1945. Sau khi Thế Chiến II kết thúc, thêm 7 chiếc khác bị hủy bỏ trong năm 1946:

  • Castle (DD-720) và Woodrow R. Thomson (DD-721), cặp cuối cùng trong số 12 chiếc do Federal Shipbuilding hạ thủy tại Kearny, bị hủy bỏ vào ngày 11 tháng 2 năm 1946. Chúng bị bán vào ngày 29 tháng 8 năm 1955 và bị tháo dỡ.
  • Lansdale (DD-766) và Seymour D. Owens (DD-767), được Bethlehem hạ thủy tại San Francisco, bị hủy bỏ vào ngày 7 tháng 1 năm 1946. Mũi tàu của chúng được sử dụng để sửa chữa các tàu khu trục khác, phần còn lại bị tháo dỡ vào năm 1958-1959.
  • Hoel (DD-768) và Abner Read (ii) (DD-769), được Bethlehem đóng tại San Francisco, bị hủy bỏ vào ngày 12 tháng 9 năm 1946 trước khi hạ thủy và được tháo dỡ trên ụ.
  • Seaman (DD-791) do Todd Pacific Shipyards đóng tại Seattle; đã hoàn tất một phần. Được đưa về dự bị ngày 25 tháng 6 năm 1946, bị bán ngày 12 tháng 9 năm 1961 và bị tháo dỡ ngày 22 tháng 9 năm 1961.
  • Bốn chiếc chưa đặt tên (DD-809 đến DD-812) được giao cho Bath Iron Works, năm chiếc khác (DD-813, DD-814, và DD-854 đến DD-856) được giao cho Bethlehem tại Staten Island, và thêm hai chiếc (DD-815 và DD-816) được giao cho Consolidated Steel Corporation tại Orange, tất cả bị hủy bỏ vào ngày 12 tháng 8 năm 1945. DD-815 dự định đặt tên Charles H. Roan (tên này được chuyển cho DD-853) và DD-816 dự định đặt tên Timmerman (tên này được chuyển cho DD-828).
  • Thêm ba chiếc chưa đặt tên (DD-891 đến DD-893) được giao cho Federal Shipbuilding tại Kearney, bị hủy bỏ vào ngày 8 tháng 3 năm 1945.
  • Thêm mười chiếc chưa đặt tên (DD-894, DD-895, và DD-917 đến DD-924) được giao cho Consolidated Steel Corporation tại Orange, và thêm bốn chiếc (DD-905 đến DD-908) được giao cho Xưởng hải quân Boston, cùng thêm hai chiếc (DD-925 và DD-926) được giao cho Xưởng hải quân Charleston, tất cả bị hủy bỏ vào ngày 27 tháng 3 năm 1945.
  • Thêm chín chiếc chưa đặt tên (DD-896 đến DD-904) được giao cho Bath Iron Works, và tám chiếc khác (DD-909 đến DD-916) được giao cho Bethlehem tại Staten Island, tất cả bị hủy bỏ vào ngày 28 tháng 3 năm 1945.

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Chiếc đầu tiên trong lớp được đặt lườn vào tháng 8 năm 1944, trong khi chiếc cuối cùng được hạ thủy vào tháng 4 năm 1946; trong giai đoạn này Hoa Kỳ đã đóng 98 chiếc tàu khu trục lớp Gearing. Chúng có những cải tiến nhỏ so với lớp Allen M. Sumner dẫn trước, vốn được đóng từ năm 1943 đến năm 1945. Khác biệt chính là lườn tàu lớp Gearing được kéo dài thêm 14 ft (4,3 m) phía giữa tàu, giúp chúng có thêm khoảng trống chứa nhiên liệu, và do đó tăng thêm tầm xa hoạt động, một đặc tính quan trọng trong các chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương. Quan trọng hơn về dài hạn, kích thước lớn hơn của Gearing giúp chúng dễ nâng cấp hơn những chiếc Allen M. Sumner, ví dụ như những cải biến thành kiểu tàu khu trục cột mốc radar (DDR) và tàu khu trục hộ tống (DDE) vào những năm 1950, và Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM) đầu những năm 1960.

Vào lúc thiết kế, lớp Gearing được trang bị vũ khí tương tự như của lớp Allen M. Sumner. Dàn hỏa lực chính bao gồm ba tháp pháo 5 inch (127 mm)/38 caliber Mark 38 nòng đôi đa dụng, được dẫn đường bởi hệ thống kiểm soát hỏa lực pháo Mark 37 cùng với radar điều khiển hỏa lực Mark 25, kết nối bởi máy tính kiểm soát hỏa lực Mark 1 và được ổn định bởi con quay hồi chuyển Mark 6 tốc độ 8.500 rpm. Hệ thống kiểm soát hỏa lực này cho phép có được hỏa lực chống hạm hay phòng không tầm xa hiệu quả. Nó cũng được trang bị hỏa lực phòng không gồm 12 khẩu pháo Bofors 40 mm trên hai bệ bốn nòng và hai bệ nòng đôi, cùng 11 khẩu pháo Oerlikon 20 mm trên các bệ nòng đơn. Thiết kế ban đầu giữ lại dàn vũ khi ngư lôi mạnh của lớp Allen M. Sumner, bao gồm 10 ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm) bên hai bệ năm nòng, bắn ra kiểu ngư lôi Mark 15. Tuy nhiên, do mối đe dọa của không kích kiểu Kamikaze vào cuối Thế Chiến II, cũng như số lượng hạm tàu nổi ít ỏi còn lại của Hải quân Nhật, đa số những chiếc trong lớp tháo bỏ bệ ngư lôi năm nòng phía sau để tăng cường thêm một khẩu đội 40 mm bốn nòng, nâng tổng số nòng pháo 40 mm phòng không lên 16. Sau này, 26 chiếc (DD-742-745, 805-808, 829-835, và 873-883) được đặt hàng mà không có ống phóng ngư lôi để lấy chỗ cho thiết bị điện tử radar; chúng được xếp lại lớp như những tàu khu trục cột mốc radar (DDR) vào năm 1948.[1][2][3][4]

Nâng cấp 1946-1959[sửa | sửa mã nguồn]

Sơ đồ trình bày sự phát triển của lớp Gearing.
George K. MacKenzie, Leonard F. Mason, Henry W. TuckerRupertus bên dưới cầu Story, Brisbane, Australia vào tháng 1, 1958.

Sau Thế Chiến II, đa số những chiếc trong lớp được nâng cấp vũ khí phòng không và chống ngầm. Pháo phòng không 40 mm và 20 mm được thay bằng hai đến sáu khẩu pháo 3 inch (76 mm)/50 caliber bố trí tối đa trên hai bệ nòng độ và hai bệ nòng đơn. Một đường ray thả mìn sâu được tháo dỡ và hai súng cối chống tàu ngầm Hedgehog được trang bị; máy phóng mìn sâu K-gun được giữ lại. Vào đầu những năm 1950 có thêm chín chiếc được cải biến thành tàu khu trục cột mốc radar (DDR), nâng tổng số lên 35 chiếc; chúng thường chỉ có một tháp pháo 3-inch/50 caliber nòng đôi để tiết kiệm trọng lượng cho thiết bị radar, tương tự như những tàu cột mốc radar thời chiến. Chín chiếc được cải biến thành tàu khu trục hộ tống (DDE), nhấn mạnh đến khả năng chống ngầm. Carpenter là chiếc được cải biến thành tàu khu trục hộ tống triệt để nhất, có bốn khẩu pháo 3 inch/70 Mark 26 trên hai tháp pháo nòng đôi bọc kín, hai máy phóng vũ khí Alpha chống ngầm, bốn ống phóng ngư lôi 21-inch kiểu mới để phóng ngư lôi Mark 37 chống ngầm, và một đường ray thả mìn sâu.[5]

Nâng cấp FRAM I[sửa | sửa mã nguồn]

Sarsfield (trên) khi đưa vào hoạt động, và Rowan (dưới) sau nâng cấp FRAM I.

Vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, 78 chiếc lớp Gearing được nâng cấp rộng rãi trong Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (Fleet Rehabilitation and Modernization), hay còn gọi là FRAM I, nhằm cải biến chúng từ những tàu khu trục phòng không thành những tàu khu trục chống ngầm. FRAM I tháo dỡ mọi thiết bị DDR và DDE, và xếp lại lớp thành những tàu khu trục thông thường (DD). Việc nâng cấp FRAM I và FRAM II hoàn tất từ năm 1960 đến năm 1965, và cuối cùng mọi chiếc lớp Gearing, ngoại trừ ba chiếc, đều được cải biến FRAM I hoặc FRAM II.[6]

Những nâng cấp của FRAM I bao gồm cải tạo cấu trúc thượng tầng và nâng cấp các thiết bị điện tử, radar, sonar và vũ khí. Tháp pháo 5-inch nòng đôi thứ hai cùng mọi pháo phòng không và thiết bị chống ngầm bị tháo dỡ.[Note 1] Chúng được nâng cấp các hệ thống sonar SQS-23, radar dò tìm mặt biển SPS-10, hai dàn phóng ống phóng ngư lôi Mark 32 chống ngầm ba nòng, một dàn phóng tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC (Anti-Submarine ROCket) tám nòng, và một máy bay trực thăng không người lái chống ngầm Gyrodyne QH-50 DASH với sàn đáp và hầm chứa dành riêng. Cả ống phóng Mark 32 lẫn ống phóng tên lửa ASROC đều có thể phóng kiểu ngư lôi Mark 44 chống ngầm; ngoài ra tên lửa ASROC còn có thể mang một mìn sâu mang đầu đạn hạt nhân. Vào ngày 11 tháng 5, 1962, tàu khu trục Agerholm đã phóng thử nghiệm thành công một tên lửa ASROC mang đầu đạn hạt nhân trong khuôn khổ cuộc thử nghiệm Swordfish.[7][8][9]

Gyrodyne QH-50C DASH (Drone Anti-Submarine Helicopter) là một kiểu máy bay trực thăng]] không người lái chống ngầm được điều khiển từ tàu mẹ. Nó cũng có thể mang hai ngư lôi Mark 44 chống ngầm dẫn đường bằng sonar chủ động hay thụ động. Vào thời kỳ này tầm xa tối đa của tên lửa ASROC chỉ đạt được 5 hải lý (9,3 km), trong khi DASH cho phép triển khai tấn công chống tàu ngầm vào mục tiêu do sonar phát hiện ở tầm xa đến 22 hải lý (41 km).[10] Tuy nhiên, DASH tỏ ra kém tin cậy khi hoạt động trên tàu, với trên một nữa trong tổng số 746 chiếc bị rơi xuống biển, có thể là do việc hỗ trợ bảo trì không thỏa đáng, vì DASH hoạt động trong những lĩnh vực khác ít gặp trục trặc. Cho đến năm 1970 DASH được rút khỏi phục vụ trên các tàu FRAM I, nhưng vào nữa đầu thập niên 1970 vẫn được giữ lại trên các tàu FRAM II do không có tên lửa ASROC. Một giới hạn của máy bay không người lái trong chống ngầm là đòi hỏi phải bắt lại mục tiêu khi nó ở bên ngoài tầm sonar hiệu quả của tàu mẹ. Điều này đã đưa đến việc chuyển sang chương trình LAMPS (Light Airborne Muliti-Purpose System) sử dụng máy bay trực thăng có người lái, mà lớp quá nhỏ để có thể chở theo.[11]

QH-50D, một phiên bản nâng cấp của DASH, tiếp tục được Lục quân Hoa Kỳ sử dụng cho đến tháng 5, 2006.[12]

Nâng cấp FRAM I được chia thành hai nhóm như sau:

  • FRAM I "A" (tám chiếc được cải biến đầu tiên): Tháo dỡ tháp pháo 5 inch/38 caliber phía đuôi (bệ 53). Trang bị hai dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog MK10/11 ở hai bên cầu tàu ở mức sàn trên, các ống phóng ngư lôi MK-32 ba nòng được bố trí phía sau ống khói số 2.
  • FRAM I "B" (những chiếc còn lại): Giữ lại tháp pháo 5 inch trước mũi (bệ 51) và tháp pháo 5 inch phía đuôi (bệ 53); tháp pháo 5 inch thứ hai (bệ 52) được tháo dỡ thay bằng thiết bị nạp đạn tự động cho pháo 5-inch, và hai dàn ống phóng ngư lôi Mark 32 được bố trí tiếp theo sau. Nhóm này cũng có chỗ chứa tên lửa ASROC và ngư lôi rộng rãi hơn cạnh mạn trái của hầm chứa trực thăng DASH.[13][14]

Nâng cấp FRAM II[sửa | sửa mã nguồn]

Norris sau khi được nâng cấp FRAM II.

Chương trình FRAM II được thiết kế chủ yếu dành cho tàu khu trục lớp Allen M. Sumner, nhưng mười sáu chiếc lớp Gearing cũng đã được nâng cấp tương tự. Chương trình nâng cấp này bao gồm việc tân trang để kéo dài tuổi thọ phục vụ, và trang bị mới hệ thống radar, ống phóng ngư lôi Mark 32, máy bay trực thăng DASH không người lái, và sonar độ sâu thay đổi (VDS variable depth sonar). Điểm khác biệt quan trọng là chúng không có tên lửa ASROC. Những chiếc FRAM II bao gồm sáu chiếc DDR và sáu chiếc DDE vốn được giữ lại những thiết bị chuyên dụng trong giai đoạn 1960-1961, cùng bốn chiếc DDR được cải biến thành DD và gần tương tự như FRAM II của lớp Allen M. Sumner trong giai đoạn 1962-1963. Những chiếc FRAM II giữ lại toàn bộ sáu khẩu pháo 5-inch, ngoại trừ những chiếc DDE giữ lại bốn khẩu pháo 5-inch cùng một bệ Hedgehog xoay được tại vị trí tháp pháo số 2. Mọi chiếc FRAM II giữ lại hai dàn Hedgehog cùng với tháp pháo 5-inch số 2 hay bệ Hedgehog xoay được. Bốn chiếc DDR cải biến thành DD trang bị hai dàn ống phóng ngư lôi 21-inch cho kiểu ngư lôi Mark 37. Hình ảnh của sáu chiếc DDR được giữ lại cho thấy không có sàn đáp cho DASH cũng như một sàn sau nhỏ hơn nhiều, gợi ý rằng chúng không mang theo máy bay trực thăng DASH.

Phục vụ và loại bỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Những chiếc trong lớp[sửa | sửa mã nguồn]

Tên (số hiệu lườn) Xưởng đóng tàu Đặt lườn Hạ thủy Nhập biên chế FRAM I FRAM II Xuất biên chế Số phận
Gearing (DD-710) Federal Shipbuilding and Drydock Company, Newark, New Jersey 10 tháng 8, 1944 18 tháng 2, 1945 3 tháng 5, 1945 B 2 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, 6 tháng 11, 1974
Eugene A. Greene (DD-711) 17 tháng 8, 1944 18 tháng 3, 1945 8 tháng 6, 1945 B 31 tháng 8, 1972 Chuyển cho Tây Ban Nha, 31 tháng 8, 1972
Gyatt (DD-712) 7 tháng 9, 1944 15 tháng 4, 1945 2 tháng 7, 1945 22 tháng 10, 1969 Đánh chìm như mục tiêu, 11 tháng 6, 1970
Kenneth D. Bailey (DD-713) 21 tháng 9, 1944 17 tháng 6, 1945 31 tháng 7, 1945 * 20 tháng 1, 1970 Bán cho Iran, 13 tháng 1, 1975, tháo dỡ làm nguồn phụ tùng
William R. Rush (DD-714) 19 tháng 10, 1944 8 tháng 7, 1945 21 tháng 9, 1945 B 1 tháng 7, 1978 Chuyển cho Hàn Quốc 1978; trở thành tàu bảo tàng 2000; tháo dỡ tháng 12, 2016
William M. Wood (DD-715) 2 tháng 11, 1944 29 tháng 7, 1945 24 tháng 11, 1945 B 1 tháng 12, 1976 Đánh chìm như mục tiêu ngoài khơi Puerto Rico, tháng 3, 1983
Wiltsie (DD-716) 13 tháng 3, 1945 31 tháng 8, 1945 12 tháng 1, 1946 B 23 tháng 1, 1976 Bán cho Pakistan, 29 tháng 4, 1977
Theodore E. Chandler (DD-717) 23 tháng 4, 1945 20 tháng 10, 1945 22 tháng 3, 1946 B 1 tháng 4, 1975 Bán để tháo dỡ, 30 tháng 12, 1975
Hamner (DD-718) 25 tháng 4, 1945 24 tháng 11, 1945 12 tháng 7, 1946 B 1 tháng 10, 1979 Bán cho Đài Loan, 17 tháng 12, 1980
Epperson (DD-719) 20 tháng 6, 1945 22 tháng 12, 1945 19 tháng 3, 1949 B 1 tháng 12, 1975 Chuyển cho Pakistan, 29 tháng 4, 1977
Frank Knox (DD-742) Bath Iron Works, Bath, Maine 8 tháng 5, 1944 17 tháng 9, 1944 11 tháng 12, 1944 * 30 tháng 1, 1971 Chuyển cho Hy Lạp, 3 tháng 2, 1971
Southerland (DD-743) 27 tháng 5, 1944 5 tháng 10, 1944 22 tháng 12, 1944 B 26 tháng 2, 1981 Đánh chìm như mục tiêu, 2 tháng 8, 1997
William C. Lawe (DD-763) Bethlehem Shipbuilding Corporation, San Francisco, California 12 tháng 3, 1944 21 tháng 5, 1945 18 tháng 12, 1946 B 1 tháng 10, 1983 Đánh chìm như mục tiêu, 14 tháng 7, 1999
Lloyd Thomas (DD-764) 26 tháng 3, 1944 5 tháng 10, 1945 21 tháng 3, 1947 * 12 tháng 10, 1972 Bán cho Đài Loan, 12 tháng 10, 1972
Keppler (DD-765) 23 tháng 4, 1944 24 tháng 6, 1946 23 tháng 5, 1947 * 1 tháng 7, 1972 Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ
Rowan (DD-782) Todd Pacific Shipyards, Seattle, Washington 25 tháng 3, 1944 29 tháng 12, 1944 31 tháng 3, 1945 B 18 tháng 12, 1975 Mắc cạn và đắm đang khi kéo đi tháo dỡ, 22 tháng 8, 1977
Gurke (DD-783) 1 tháng 7, 1944 15 tháng 2, 1945 12 tháng 5, 1945 B 30 tháng 1, 1976 Chuyển cho Hy Lạp, 17 tháng 3, 1977
McKean (DD-784) 15 tháng 9, 1944 31 tháng 3, 1945 9 tháng 6, 1945 B 1 tháng 10, 1981 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 2 tháng 11, 1982
Henderson (DD-785) 27 tháng 10, 1944 28 tháng 5, 1945 4 tháng 8, 1945 B 30 tháng 9, 1980 Bán cho Pakistan, 1 tháng 10, 1980
Richard B. Anderson (DD-786) 1 tháng 12, 1944 7 tháng 7, 1945 26 tháng 10, 1945 A 20 tháng 12, 1975 Chuyển cho Đài Loan, 1 tháng 6, 1977
James E. Kyes (DD-787) 27 tháng 12, 1944 4 tháng 8, 1945 8 tháng 2, 1946 B 31 tháng 3, 1973 Chuyển cho Đài Loan, 18 tháng 4, 1973
Hollister (DD-788) 18 tháng 1, 1945 9 tháng 10, 1945 29 tháng 3, 1946 B 31 tháng 8, 1979 Chuyển cho Đài Loan, 3 tháng 3, 1983
Eversole (DD-789) 28 tháng 2, 1945 8 tháng 1, 1946 10 tháng 5, 1946 B 11 tháng 7, 1973 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 11 tháng 7, 1973
Shelton (DD-790) 31 tháng 5, 1945 8 tháng 3, 1946 21 tháng 6, 1946 A 31 tháng 3, 1973 Bán cho Đài Loan, 18 tháng 4, 1973
Chevalier (DD-805) Bath Iron Works, Bath, Maine 12 tháng 6, 1944 29 tháng 10, 1944 9 tháng 1, 1945 * 5 tháng 7, 1972 Chuyển cho Hàn Quốc, 5 tháng 7, 1972
Higbee (DD-806) 26 tháng 6, 1944 13 tháng 11, 1944 27 tháng 1, 1945 B 15 tháng 7, 1979 Đánh chìm như mục tiêu, 24 tháng 4, 1986
Benner (DD-807) 10 tháng 7, 1944 30 tháng 11, 1944 13 tháng 2, 1945 * 20 tháng 11, 1970 Bán để tháo dỡ, 18 tháng 4, 1975
Dennis J. Buckley (DD-808) 24 tháng 7, 1944 20 tháng 12, 1944 2 tháng 3, 1945 B 2 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, 29 tháng 4, 1974
Corry (DD-817) Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas 5 tháng 4, 1945 28 tháng 7, 1945 27 tháng 2, 1946 B 27 tháng 2, 1981 Chuyển cho Hy Lạp, 8 tháng 7, 1981
New (DD-818) 14 tháng 4, 1945 18 tháng 8, 1945 5 tháng 4, 1946 B 1 tháng 7, 1976 Chuyển cho Hàn Quốc, 23 tháng 2, 1977
Holder (DD-819) 23 tháng 4, 1945 25 tháng 8, 1945 18 tháng 5, 1946 B 1 tháng 10, 1976 Chuyển cho Ecuador, 23 tháng 2, 1977
Rich (DD-820) 16 tháng 5, 1945 5 tháng 10, 1945 3 tháng 7, 1946 B 10 tháng 11, 1977 Bán để tháo dỡ, 5 tháng 12, 1979
Johnston (DD-821) 26 tháng 3, 1945 10 tháng 10, 1945 23 tháng 8, 1946 B 27 tháng 2, 1981 Chuyển cho Đài Loan, 27 tháng 2, 1981
Robert H. McCard (DD-822) 20 tháng 6, 1945 9 tháng 11, 1945 23 tháng 10, 1946 B 5 tháng 6, 1980 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 5 tháng 6, 1980
Samuel B. Roberts (DD-823) 27 tháng 6, 1945 30 tháng 11, 1945 22 tháng 12, 1946 B 2 tháng 11, 1970 Đánh chìm như mục tiêu, 14 tháng 11, 1971
Basilone (DD-824) 7 tháng 7, 1945 21 tháng 12, 1945 26 tháng 7, 1949 B 1 tháng 11, 1977 Đánh chìm trong thực tập, 9 tháng 4, 1982
Carpenter (DD-825) 30 tháng 7, 1945 28 tháng 9, 1945 15 tháng 12, 1949 B 20 tháng 2, 1981 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 20 tháng 2, 1981
Agerholm (DD-826) Bath Iron Works, Bath, Maine 10 tháng 9, 1945 30 tháng 3, 1946 20 tháng 6, 1946 A 1 tháng 12, 1978 Đánh chìm như mục tiêu, 18 tháng 7, 1982
Robert A. Owens (DD-827) 29 tháng 10, 1945 15 tháng 7, 1946 5 tháng 11, 1949 B 16 tháng 2, 1982 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 16 tháng 2, 1982
Timmerman (DD-828) 1 tháng 10, 1945 19 tháng 5, 1951 26 tháng 9, 1952 27 tháng 7, 1956 Bán để tháo dỡ, 21 tháng 4, 1959
Myles C. Fox (DD-829) 14 tháng 8, 1944 13 tháng 1, 1945 20 tháng 3, 1945 B 1 tháng 10, 1979 Chuyển cho Hy Lạp để làm nguồn phụ tùng, 2 tháng 8, 1980
Everett F. Larson (DD-830) 4 tháng 9, 1944 28 tháng 1, 1945 6 tháng 4, 1945 * 30 tháng 10, 1972 Chuyển cho Hàn Quốc, 30 tháng 10, 1972
Goodrich (DD-831) 18 tháng 9, 1944 25 tháng 2, 1945 24 tháng 4, 1945 * 30 tháng 11, 1969 Bán để tháo dỡ, 12 tháng 9, 1977
Hanson (DD-832) 7 tháng 10, 1944 11 tháng 3, 1945 11 tháng 5, 1945 B 31 tháng 3, 1973 Chuyển cho Đài Loan, 18 tháng 4, 1973
Herbert J. Thomas (DD-833) 30 tháng 10, 1944 25 tháng 3, 1945 29 tháng 5, 1945 B 4 tháng 12, 1970 Chuyển cho Đài Loan, 1 tháng 6, 1974
Turner (DD-834) 13 tháng 11, 1944 8 tháng 4, 1945 12 tháng 6, 1945 * 26 tháng 9, 1969 Bán để tháo dỡ, 13 tháng 10, 1970
Charles P. Cecil (DD-835) 2 tháng 12, 1944 2 tháng 4, 1945 29 tháng 6, 1945 B 1 tháng 10, 1979 Bán cho Hy Lạp, 8 tháng 8, 1980
George K. MacKenzie (DD-836) 21 tháng 12, 1944 13 tháng 5, 1945 13 tháng 7, 1945 B 30 tháng 9, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 15 tháng 10, 1976
Sarsfield (DD-837) 15 tháng 1, 1945 27 tháng 5, 1945 31 tháng 7, 1945 B 1 tháng 10, 1977 Chuyển cho Đài Loan, 1 tháng 10, 1977; hiện là tàu bảo tàng tại cảng An Bình, Đài Nam.
Ernest G. Small (DD-838) 30 tháng 1, 1945 14 tháng 6, 1945 21 tháng 8, 1945 * 13 tháng 11, 1970 Chuyển cho Đài Loan, 13 tháng 4, 1971
Power (DD-839) 26 tháng 2, 1945 30 tháng 6, 1945 13 tháng 9, 1945 B 1 tháng 10, 1977 Bán cho Đài Loan, 1 tháng 10, 1977
Glennon (DD-840) 12 tháng 3, 1945 14 tháng 7, 1945 4 tháng 10, 1945 B 1 tháng 10, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 26 tháng 2, 1981
Noa (DD-841) 26 tháng 3, 1945 30 tháng 7, 1945 2 tháng 11, 1945 A 31 tháng 10, 1973 Chuyển cho Tây Ban Nha, 31 tháng 10, 1973; bán, 17 tháng 5, 1978
Fiske (DD-842) 9 tháng 4, 1945 8 tháng 9, 1945 28 tháng 11, 1945 B 5 tháng 6, 1980 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 5 tháng 6, 1980
Warrington (DD-843) 23 tháng 4, 1945 27 tháng 9, 1945 20 tháng 12, 1945 B 30 tháng 9, 1972 Chuyển cho Đài Loan, 24 tháng 4, 1973, tháo dỡ làm nguồn phụ tùng
Perry (DD-844) 14 tháng 5, 1945 25 tháng 10, 1945 17 tháng 1, 1946 A 1 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, 24 tháng 6, 1974
Bausell (DD-845) 28 tháng 5, 1945 19 tháng 11, 1945 7 tháng 2, 1946 A 30 tháng 5, 1978 Đánh chìm như mục tiêu, 17 tháng 7, 1987
Ozbourn (DD-846) 16 tháng 6, 1945 22 tháng 12, 1945 5 tháng 3, 1946 B 30 tháng 5, 1975 Bán để tháo dỡ, 1 tháng 12, 1975
Robert L. Wilson (DD-847) 2 tháng 7, 1945 5 tháng 1, 1946 28 tháng 3, 1946 B 30 tháng 9, 1974 Đánh chìm như mục tiêu, 1 tháng 3, 1980
Witek (DD-848) 16 tháng 7, 1945 2 tháng 2, 1946 23 tháng 4, 1946 19 tháng 8, 1968 Đánh chìm như mục tiêu, 4 tháng 7, 1969
Richard E. Kraus (DD-849) 31 tháng 7, 1945 2 tháng 3, 1946 23 tháng 5, 1946 B 1 tháng 7, 1976 Chuyển cho Hàn Quốc, 23 tháng 2, 1977
Joseph P. Kennedy Jr. (DD-850) Bethlehem Shipbuilding Corporation, Fore River Shipyard, Quincy, Massachusetts 2 tháng 4, 1945 26 tháng 7, 1945 15 tháng 12, 1945 B 2 tháng 7, 1973 Tàu bảo tàng tại Battleship Cove
Rupertus (DD-851) 2 tháng 5, 1945 21 tháng 9, 1945 8 tháng 3, 1946 B 10 tháng 7, 1973 Chuyển cho Hy Lạp, 10 tháng 7, 1973
Leonard F. Mason (DD-852) 2 tháng 5, 1945 4 tháng 1, 1946 28 tháng 6, 1946 B 2 tháng 11, 1976 Bán cho Đài Loan, 10 tháng 3, 1978
Charles H. Roan (DD-853) 2 tháng 4, 1945 15 tháng 3, 1946 12 tháng 9, 1946 B 21 tháng 9, 1973 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 21 tháng 9, 1973
Fred T. Berry (DD-858) Bethlehem Shipbuilding Corporation, San Pedro, California 16 tháng 7, 1944 28 tháng 1, 1945 12 tháng 5, 1945 * 15 tháng 9, 1970 Đánh chìm như dãi san hô nhân tạo, 14 tháng 5, 1972
Norris (DD-859) 29 tháng 8, 1944 25 tháng 2, 1945 9 tháng 6, 1945 * 4 tháng 12, 1970 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 1 tháng 7, 1974
McCaffery (DD-860) 1 tháng 10, 1944 12 tháng 4, 1945 26 tháng 7, 1945 * 30 tháng 9, 1973 Bán để tháo dỡ, 11 tháng 6, 1974
Harwood (DD-861) 29 tháng 10, 1944 22 tháng 5, 1945 28 tháng 9, 1945 * 1 tháng 2, 1971 Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ, 17 tháng 12, 1973
Vogelgesang (DD-862) Bethlehem Steel Corporation, Staten Island, New York 3 tháng 8, 1944 15 tháng 1, 1945 28 tháng 4, 1945 B 24 tháng 2, 1982 Bán cho Mexico, 24 tháng 2, 1982
Steinaker (DD-863) 1 tháng 9, 1944 13 tháng 2, 1945 26 tháng 5, 1945 B 24 tháng 2, 1982 Bán cho Mexico, 24 tháng 2, 1982
Harold J. Ellison (DD-864) 3 tháng 10, 1944 14 tháng 3, 1945 23 tháng 6, 1945 B 1 tháng 10, 1983 Chuyển cho Pakistan, 1 tháng 10, 1983
Charles R. Ware (DD-865) 1 tháng 11, 1944 12 tháng 4, 1945 21 tháng 7, 1945 B 30 tháng 11, 1974 Đánh chìm như mục tiêu 15 tháng 11, 1981
Cone (DD-866) 30 tháng 11, 1944 10 tháng 5, 1945 18 tháng 8, 1945 B 1 tháng 10, 1982 Chuyển cho Pakistan, 1 tháng 10, 1982
Stribling (DD-867) 15 tháng 1, 1945 8 tháng 6, 1945 29 tháng 9, 1945 A 1 tháng 7, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 27 tháng 7, 1980
Brownson (DD-868) 13 tháng 2, 1945 7 tháng 7, 1945 17 tháng 11, 1945 B 30 tháng 9, 1976 Bán để tháo dỡ, 10 tháng 6, 1977
Arnold J. Isbell (DD-869) 14 tháng 3, 1945 6 tháng 8, 1945 5 tháng 1, 1946 B 4 tháng 12, 1973 Bán cho Hy Lạp, 4 tháng 12, 1973
Fechteler (DD-870) 12 tháng 4, 1945 19 tháng 9, 1945 2 tháng 3, 1946 B 11 tháng 9, 1970 Bán để tháo dỡ, 28 tháng 6, 1972
Damato (DD-871) 10 tháng 5, 1945 21 tháng 11, 1945 27 tháng 4, 1946 B 30 tháng 9, 1980 Chuyển cho Pakistan, 1 tháng 10, 1980
Forrest Royal (DD-872) 8 tháng 6, 1945 17 tháng 1, 1946 29 tháng 6, 1946 B 27 tháng 3, 1971 Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ, 27 tháng 3, 1971
Hawkins (DD-873) Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas 14 tháng 5, 1944 7 tháng 10, 1944 10 tháng 2, 1945 B 1 tháng 10, 1979 Bán cho Đài Loan, 17 tháng 3, 1983
Duncan (DD-874) 22 tháng 5, 1944 27 tháng 10, 1944 25 tháng 2, 1945 * 15 tháng 1, 1971 Đánh chìm như mục tiêu, 31 tháng 7, 1980
Henry W. Tucker (DD-875) 29 tháng 5, 1944 8 tháng 11, 1944 12 tháng 3, 1945 B 3 tháng 12, 1973 Chuyển cho Brazil, 3 tháng 12, 1973
Rogers (DD-876) 3 tháng 6, 1944 20 tháng 11, 1944 26 tháng 3, 1945 B 1 tháng 10, 1980 Chuyển cho Hàn Quốc, 25 tháng 7, 1981
Perkins (DD-877) 19 tháng 6, 1944 7 tháng 12, 1944 4 tháng 4, 1945 * 15 tháng 1, 1973 Chuyển cho Argentina, 15 tháng 1, 1973
Vesole (DD-878) 3 tháng 7, 1944 29 tháng 12, 1944 23 tháng 4, 1945 B 1 tháng 12, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 14 tháng 4, 1983
Leary (DD-879) 11 tháng 8, 1944 20 tháng 1, 1945 7 tháng 5, 1945 B 31 tháng 10, 1973 Chuyển cho Tây Ban Nha, 17 tháng 5, 1978
Dyess (DD-880) 17 tháng 8, 1944 26 tháng 1, 1945 21 tháng 5, 1945 B 27 tháng 1, 1981 Bán cho Hy Lạp, 8 tháng 7, 1981, tháo dỡ làm nguồn phụ tùng
Bordelon (DD-881) 9 tháng 9, 1944 3 tháng 3, 1945 5 tháng 6, 1945 B 1 tháng 2, 1977 Chuyển cho Iran, 1 tháng 7, 1977
Furse (DD-882) 23 tháng 9, 1944 9 tháng 3, 1945 10 tháng 7, 1945 B 31 tháng 8, 1972 Loaned to Tây Ban Nha, 1972; Sold, 17 tháng 5, 1978
Newman K. Perry (DD-883) 10 tháng 10, 1944 17 tháng 3, 1945 26 tháng 7, 1945 B 27 tháng 2, 1981 Chuyển cho Hàn Quốc, 27 tháng 2, 1981
Floyd B. Parks (DD-884) 30 tháng 10, 1944 31 tháng 3, 1945 31 tháng 7, 1945 B 2 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, 1 tháng 4, 1974
John R. Craig (DD-885) 17 tháng 11, 1944 14 tháng 4, 1945 20 tháng 8, 1945 B 27 tháng 7, 1979 Đánh chìm như mục tiêu, 17 tháng 6, 1980
Orleck (DD-886) 28 tháng 11, 1944 12 tháng 5, 1945 15 tháng 9, 1945 B 1 tháng 10, 1982 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 1 tháng 10, 1982
Brinkley Bass (DD-887) 20 tháng 12, 1944 26 tháng 5, 1945 1 tháng 10, 1945 B 3 tháng 12, 1973 Chuyển cho Brazil, 3 tháng 12, 1973
Stickell (DD-888) 5 tháng 1, 1945 16 tháng 6, 1945 31 tháng 10, 1945 B 1 tháng 7, 1972 Chuyển cho Hy Lạp, 1 tháng 7, 1972
O'Hare (DD-889) 27 tháng 1, 1945 22 tháng 6, 1945 29 tháng 11, 1945 B 31 tháng 10, 1973 Chuyển cho Tây Ban Nha, 31 tháng 10, 1973; bán, 17 tháng 5, 1978
Meredith (DD-890) 27 tháng 1, 1945 28 tháng 6, 1945 31 tháng 12, 1945 A 29 tháng 6, 1979 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 29 tháng 6, 1979

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Trên nhiều chiếc các tháp pháo 5-inch phía trước được giữ lại, thay vào đó tháp pháo 5-inch phía đuôi được tháo dỡ.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “The Sumner Class As Built”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2009.
  2. ^ Friedman 2004, tr. 129-131
  3. ^ Silverstone 1977
  4. ^ Gardiner & Chesneau 1980, tr. 133-134
  5. ^ Friedman 2004, tr. 510–513
  6. ^ Gardiner & Chumbley 1995, tr. 562-563
  7. ^ “FRAM”. Gyrodynehelicopters.com. ngày 1 tháng 9 năm 1962. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2012.
  8. ^ Gardiner & Chumbley 1995, tr. 213–217, 240–245
  9. ^ Bauer & Roberts 1991, tr. 201-206
  10. ^ “QH-50C”. Gyrodynehelicopters.com. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2012.
  11. ^ Friedman 2004, tr. 282–283
  12. ^ “Gyrodyne Today”. Gyrodynehelicopters.com. ngày 9 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2012.
  13. ^ Pike, John. “DD-710 Gearing-class”. www.globalsecurity.org. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2021.
  14. ^ “Special Feature – FRAM”. www.navsource.org. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]