USS Harold J. Ellison (DD-864)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Harold J. Ellison
Tàu khu trục USS Harold J. Ellison (DD-864) trên đường đi, tháng 8 năm 1976
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Harold J. Ellison (DD-864)
Đặt tên theo Harold John Ellison
Xưởng đóng tàu Bethlehem Mariners Harbor, Staten Island, New York
Đặt lườn 3 tháng 10 năm 1944
Hạ thủy 14 tháng 3 năm 1945
Nhập biên chế 23 tháng 6 năm 1945
Xuất biên chế 1 tháng 10 năm 1983
Xóa đăng bạ 1 tháng 10 năm 1983
Số phận Được chuyển cho Pakistan, 1 tháng 10 năm 1983
Pakistan
Tên gọi PNS Shah Jahan (D-164)
Đặt tên theo Shah Jahan
Trưng dụng 1 tháng 10 năm 1983
Xuất biên chế 1993
Số phận Bị đánh chìm như mục tiêu, 1994
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Gearing
Trọng tải choán nước
  • 2.616 tấn Anh (2.658 t) (tiêu chuẩn);
  • 3.460 tấn Anh (3.520 t) (đầy tải)
Chiều dài 390,5 ft (119,0 m)
Sườn ngang 40,9 ft (12,5 m)
Mớn nước 14,3 ft (4,4 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số General Electric;
  • 4 × nồi hơi;
  • 2 × trục;
  • công suất 60.000 shp (45.000 kW)
Tốc độ 36,8 hải lý trên giờ (68,2 km/h; 42,3 mph)
Tầm xa 4.500 nmi (8.300 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 350
Vũ khí

USS Harold J. Ellison (DD-864) là một tàu khu trục lớp Gearing được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc duy nhất được hoàn tất, theo tên Thiếu úy Hải quân Harold John Ellison (1917-1942), phi công thuộc Phi đội Ném ngư lôi VT-8 của tàu sân bay USS Hornet (CV-8) đã tử trận trong trận Midway và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.[1] Hoàn tất khi chiến tranh đã sắp kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh LạnhChiến tranh Việt Nam cho đến năm 1983. Nó được chuyển cho Pakistan và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pakistan như là chiếc PNS Shah Jahan (D-164) cho đến năm 1993. Nó bị đánh chìm như một mục tiêu một năm sau đó.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

USS Harold J. Ellison (DE-545) dự định là một tàu khu trục hộ tống lớp John C. Butler, sẽ được chế tạo bới Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts. Tuy nhiên hợp đồng bị hủy bỏ vào ngày 10 tháng 6 năm 1944.[1]

Chiếc DD-864 được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Steel CorporationStaten Island, New York vào ngày 3 tháng 10 năm 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 3 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà Audrey Ellison, vợ góa Thiếu úy Ellison, và nhập biên chế vào ngày 23 tháng 6 năm 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân J. C. South.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1945 - 1960[sửa | sửa mã nguồn]

Được dự định sẽ được phái sang khu vực Thái Bình Dương cho những cuộc tấn công sau cùng nhắm vào Đế quốc Nhật Bản, Harold J. Ellison đang hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện khi nhận được tin Nhật Bản đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, kết thúc cuộc chiến tranh. Đặt cảng nhà tại Norfolk, Virginia, nó hoạt động tại vùng bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe trong hai năm tiếp theo, tham gia các chuyến đi huấn luyện cho nhân sự của Hải quân Dự bị Hoa Kỳ cùng các cuộc thực tập chống tàu ngầm. Nó khởi hành từ Norfolk vào ngày 10 tháng 11 năm 1947 cho chuyến đi đầu tiên sang Địa Trung Hải, mở đầu cho cho nhiều lượt sau này được cử sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội nhằm gìn giữ hòa bình tại khu vực này cũng như bảo vệ cho những quyền lợi của Hoa Kỳ tại đây.[1]

Harold J. Ellison đã tham gia vào việc tìm kiếm chiếc tàu ngầm Anh HMS Affray bị mất tích trong eo biển Manche vào tháng 4, 1951, và thực hiện những chuyến đi đến vùng biển Caribe và Bắc Âu trong năm 1953. Từ năm 1954 đến năm 1956, nó tiếp tục thực hành chiến thuật dọc theo vùng bờ Đông cùng những chuyến đi sang Châu Âu. Sau khi xảy ra vụ Khủng hoảng Kênh đào Suez năm 1956, con tàu tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình tại khu vực Đông Địa Trung Hải trong năm 1957.[1]

Trong vụ khủng hoảng tại Li-băng vào mùa Hè năm 1958, khi những xung đột do mâu thuẫn chính trị và tôn giáo có khả năng leo thang thành một cuộc nội chiến, Hoa Kỳ đã can thiệp khi cho đổ bộ binh lính Thủy quân Lục chiến lên Beirut để vãn hồi trật tự theo yêu cầu của Tổng thống Li-băng Camille Chamoun. Harold J. Ellison đã hộ tống cho tàu sân bay Saratoga (CV-60)tàu tuần dương hạng nặng Des Moines (CA-134) thuộc biên chế Đệ Lục hạm đội từ tháng 7 đến tháng 9 trong chiến dịch này.[1]

Harold J. Ellison trên đường đi vào tháng 5, 1958.

Vào tháng 9, 1958, Harold J. Ellison hoạt động cùng Đội đặc nhiệm Alfa để huấn luyện những chiến thuật và thiết bị mới trong chiến tranh chống tầu ngầm, và tiếp tục vai trò này cho đến tháng 4, 1959. Nó quay trở lại nhịp độ hoạt động thường lệ khi khởi hành từ Norfolk vào ngày 21 tháng 9 cho một chuyến đi khác sang Địa Trung Hải.[1]

1960 – 1983[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1960, Harold J. Ellison chuyển cảng nhà đến Charleston, South Carolina, và sang năm 1961, trong lượt biệt phái sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải, con tàu đã băng qua kênh đào Suez để đi đến vịnh Ba Tư. Vào tháng 1, 1962, con tàu tham gia vào việc thu hồi tàu vũ trụ tại Đại Tây Dương trong khuôn khổ Chương trình Mercury. Cũng trong năm đó, nó trải qua một đợt nâng cấp rộng rãi tại Xưởng hải quân Brooklyn theo chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization). Nó gia nhập trở lại hạm đội vào đầu năm 1963, và cho đến năm 1964 lại tiếp tục nhịp điệu huấn luyện và tập trận ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương.[1]

Cùng với Hải đội Khu trục 24, Harold J. Ellison khởi hành từ Norfolk vào ngày 29 tháng 9, 1965, đi ngang qua kênh đào Panama trong hành trình đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương. Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, nó phục vụ canh phòng máy bay cho các tàu sân bay tại Trạm Yankee trong vịnh Bắc Bộ, tham gia Chiến dịch Sea Dragon ngăn chặn việc vận chuyển vũ khí của đối phương, hoạt động tìm kiếm và giải cứu (SAR) phi công bị bắn rơi cũng như hỗ trợ hải pháo cho lực lượng tác chiến trên bộ. Sau khi hoàn thành lượt phục vụ, nó quay trở về nhà qua ngã kênh đào Suez và hoàn tất chuyến đi vòng quanh thế giới khi về đến Norfolk vào tháng 4, 1966. Sang tháng 7, nó đi đến Xưởng hải quân Norfolk để đại tu; công việc trong xưởng tàu này kéo dài cho đến hết năm 1966.[1]

Hoàn tất việc đại tu, Harold J. Ellison tiến hành chạy thử máy và huấn luyện ôn tập tại khu vực vịnh Guantánamo, Cuba vào đầu năm 1967, rồi gia nhập trở lại Hạm đội Đại Tây Dương. Đến tháng 11, con tàu lên đường viếng thăm Brazil, rồi tiếp tục vòng qua lục địa Châu Phi trong hành trình đi sang khu vực Trung Đông. Hoàng đế Haile Selassie là vị khách đặc biệt viếng thăm con tàu trong một chuyến viếng thăm cảng tại Ethiopia, đồng thời nó cũng viếng thăm các cảng Kenya, Mauritius, MozambiquePakistan trước khi quay trở về nhà vào tháng 5, 1968.[1]

Harold J. Ellison sau đó còn được phái sang hoạt động tại khu vực Địa Trung Hải từ tháng 1 đến tháng 5, 1969; rồi một chuyến viếng thăm khác đến khu vực Trung Đông ngang qua mũi Hảo Vọng, Hồng Hảivịnh Ba Tư từ tháng 9, 1970 đến tháng 3, 1971. Con tàu được điều sang Hải đội Khu trục 36 vào tháng 7, 1971, và tiếp tục hoạt động chủ yếu tại khu vực Đại Tây Dương; rồi đến 1 tháng 7, 1972, nó lại được điều sang Hải đội Khu trục 34 thuộc Lực lượng Hải quân Dự bị. Vào đầu năm 1973, con tàu được đại tu tại Portsmouth, Virginia, và sau đó hoạt động tại vùng biển Caribe, viếng thăm Port-au-Prince, San Juan, Puerto RicoBermuda.[1][2]

Vào ngày 19 tháng 7, 1974, Harold J. Ellison khởi hành Norfolk từ để đi sang Địa Trung Hải cùng với tàu sân bay Independence (CV-62). Nó được điều sang Hải đội Khu trục 30 vào ngày 30 tháng 11, 1974, đồng thời chuyển cảng nhà đến Philadelphia, Pennsylvania. Trong giai đoạn còn lại của quãng đời phục vụ, nó tiếp tục huấn luyện học viên sĩ quan dự bị trong những chuyến đi dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ hay vùng biển Caribe. Chiếc tàu khu trục được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 10, 1983. Cùng với tàu chị em William C. Lawe (DD-763), vốn cũng được cho xuất biên chế cùng ngày hôm đó, nó là chiếc tàu khu trục lớp Gearing cuối cùng của Hải quân Hoa Kỳ.[1]

PNS Shah Jahan (D-164)[sửa | sửa mã nguồn]

Harold J. Ellison được cho rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 10, 1983, rồi được chuyển cho Pakistan. Nó tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pakistan như là chiếc PNS Shah Jahan (D-164) cho đến năm 1993, khi nó ngừng hoạt động và bị tháo dỡ để làm nguồn phục tùng cho các tàu chiến khác còn hoạt động. Con tàu bị đánh chìm như một mục tiêu một năm sau đó.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m “Harold J. Ellison (DD-864)”. Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2020.
  2. ^ “USS HAROLD J. ELLISON (DD-864) Deployments & History”. HullNumber.com. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Photo gallery of USS Harold J. Ellison at NavSource Naval History