Wikipedia:Bài viết chọn lọc/2020/12

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024
Bài viết chọn lọc
tháng 11 năm 2020
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Chim đớp ruồi đỏ son

Chim đớp ruồi đỏ son (danh pháp khoa học: Pyrocephalus obscurus) là một loài chim thuộc bộ Sẻ trong họ Đớp ruồi bạo chúa được tìm thấy trên khắp Nam Mỹ và miền Nam Bắc Mỹ. Màu đỏ son là một đặc điểm giúp chúng trở nên nổi bật so với những loài cùng họ. Chim trống có đỉnh đầu, ngực cùng phần bụng đỏ tươi với cánh và đuôi màu nâu; trong khi chim mái có màu nâu sẫm. Khi hót, chim đớp ruồi đỏ son phát ra âm thanh pit pit pit pi-trờ-ờ-ờ-iiii-trờ-ờ-ờ. Âm thanh này thường có giai điệu khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập lãnh thổ riêng. Loài chim này ăn côn trùng và săn mồi ngay trong khi đang bay. Quá trình thay lông thường bắt đầu vào mùa hạ, diễn ra trong vài tháng. Tuy là loài đơn phối ngẫu, nhưng thỉnh thoảng chúng còn tham gia giao phối ngoại đôi, thậm chí ký sinh nuôi dưỡng. Thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 6. Trong thời gian này, con trống sẽ đảm nhiệm việc nuôi và chăm con mái.

Loài này được mô tả lần đầu tiên vào cuối những năm 1830 trong các chuyến thám hiểm của Charles Darwin. Năm 2016, các nhà khoa học thay đổi nguyên tắc phân loại chi Pyrocephalus, tách một số phân loài của chim đớp ruồi đỏ son thành những loài riêng biệt, trong đó có cả chim đớp ruồi San Cristóbal vốn không còn tồn tại. Do số lượng cá thể vẫn còn dao động từ vài triệu đến vài chục triệu nên Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế coi chim đớp ruồi đỏ son là một loài ít được quan tâm, bất chấp con số này đang dần suy giảm do tác động của việc mất môi trường sống. [ Đọc tiếp ]

Call Me by Your Name

Hai diễn viên chính Hammer và Chalamet trong buổi họp báo cho Call Me by Your Name tại Liên hoan phim quốc tế Berlin 2017.

Call Me by Your Name là một bộ phim tình cảm, chính kịch, tuổi mới lớn năm 2017 do Luca Guadagnino đạo diễn và James Ivory chắp bút, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên xuất bản năm 2007 của tác giả André Aciman. Đây là tác phẩm cuối cùng trong bộ ba mang tên "Desire" của đạo diễn Luca Guadagnino, sau I Am Love (2009) và A Bigger Splash (2015). Lấy bối cảnh tại vùng nông thôn miền Bắc nước Ý năm 1983, Call Me by Your Name tập trung khai thác mối quan hệ lãng mạn giữa cậu thiếu niên 17 tuổi Elio Perlman (Timothée Chalamet) và sinh viên 24 tuổi người Mỹ, Oliver (Armie Hammer), trợ lí thực tập cho cha của Elio (Michael Stuhlbarg), một giáo sư khảo cổ học.

Call Me by Your Name bắt đầu được phát triển từ năm 2007, khi hai nhà sản xuất là Peter Spears và Howard Rosenman đã lựa chọn chuyển thể cuốn tiểu thuyết của Aciman lên màn ảnh. Ivory được chỉ định trở thành đồng đạo diễn, nhưng tới năm 2016 ông quyết định từ bỏ vai trò này để Guadagnino, người trước đó vốn giữ vai trò cố vấn, chỉ đạo bộ phim thay mình. Bộ phim đón nhận tài trợ từ một số các công ty quốc tế và ghi hình tại Crema, Lombardia, Ý vào tháng 5 và tháng 6 năm 2016. Đích thân đạo diễn Guadagnino chọn lựa âm nhạc cho phim, trong đó có hai ca khúc gốc được sáng tác và trình bày bởi ca sĩ-sáng tác nhạc người Mỹ, Sufjan Stevens. [ Đọc tiếp ]

Ted Bundy

Ted Bundy vào tháng 7 năm 1978

Ted Bundy là một kẻ giết người hàng loạt người Mỹ, đã bắt cóc, hãm hiếp và sát hại nhiều phụ nữ cũng như trẻ em gái trong giai đoạn những năm 1970, thậm chí trước đó nữa. Sau hơn một thập kỷ chối tội, trước khi bị hành quyết vào năm 1989, anh đã thú nhận mình là thủ phạm của 30 vụ giết người tại 7 bang từ năm 1974 đến năm 1978. Số nạn nhân thực sự vẫn là điều bí ẩn và có thể còn cao hơn con số 30.

Bundy được đánh giá là một người đẹp trai và lôi cuốn. Đây cũng là những điểm mà anh tận dụng nhằm chiếm lòng tin của các nạn nhân và cả xã hội. Anh thường tiếp cận mục tiêu ở những nơi công cộng, giả vờ bị thương hoặc tàn tật hay đóng giả một nhân vật có thẩm quyền, trước khi đánh họ bất tỉnh rồi đưa đến địa điểm vắng vẻ để cưỡng hiếp và bóp cổ. Đôi khi anh quay lại hiện trường thứ cấp của các vụ án, chải chuốt và thực hiện các hành vi tình dục với những xác chết đang trong quá trình phân hủy cho đến khi chúng thối rữa hoặc bị động vật hoang dã hủy hoại đến mức không thể thực hiện thêm bất kỳ tương tác nào nữa. Bundy chặt đầu ít nhất 12 nạn nhân và giữ một vài thủ cấp làm đồ lưu niệm trong căn hộ của mình. Có đôi lúc, anh đột nhập vào nhà dân vào ban đêm và đánh chết nạn nhân khi họ đang say giấc. [ Đọc tiếp ]

Pisco sour

Pisco sour Peru.
Pisco sour Peru.

Pisco sour là một món cocktail có cồn bắt nguồn từ Peru, đặc trưng trong ẩm thực PeruChile. Món thức uống này được đặt tên theo từ pisco, là rượu nền dùng pha chế, kèm thuật ngữ sour, là công thức pha chế gồm có nước cốt chanh chua và thành phần chất tạo ngọt. Công thức pha chế pisco sour kiểu Peru sử dụng pisco làm rượu nền và thêm nước chanh vắt tươi, siro đường, đá viên, lòng trắng trứng và rượu đắng Angostura. Phiên bản Chile cũng tương tự, nhưng lại dùng pisco và quả chanh Pica của Chile để pha chế, không pha rượu đắng và lòng trắng trứng. Các biến thể khác của món cocktail này gồm nhiều kiểu pha chế với trái cây như dứa hoặc thực vật như lá coca.

Mặc dù pha chế đồ uống hỗn hợp bằng pisco có khả năng khởi đầu từ thập niên 1700 nhưng các sử gia và chuyên gia đồ uống đều đồng tình rằng món pisco sour ngày nay là do ông Victor Vaughen Morris, người Mỹ, phát minh vào đầu thập niên 1920 tại Lima, thủ đô Peru. Morris rời Hoa Kỳ năm 1903 đến làm việc tại thành phố Cerro de Pasco, miền trung Peru. Năm 1916, ông khai trương quán Morris' Bar ở Lima. Quán của ông nhanh chóng trở thành địa điểm nổi tiếng dành cho tầng lớp thượng lưu Peru và người nước ngoài nói tiếng Anh. Pisco sour đã trải qua vài thay đổi đến khi Mario Bruiget, một bartender người Peru làm việc tại quán Morris' Bar, tạo nên công thức pha cocktail Peru hiện đại vào cuối thập niên 1920 bằng cách thêm rượu đắng Angostura cùng lòng trắng trứng vào hỗn hợp. [ Đọc tiếp ]

Final Fantasy

Logo của loạt trò chơi
Logo của loạt trò chơi

Final Fantasy là dòng trò chơi điện tử nhập vai khoa học kỳ ảothương hiệu truyền thông của Nhật Bản do Sakaguchi Hironobu tạo ra. Loạt trò chơi được phát triển và thuộc sở hữu của Square Enix (trước đây là Square). Thể loại chính của dòng game Final Fantasytrò chơi nhập vai. Trò chơi đầu tiên của dòng ra mắt vào năm 1987 và tính đến thời điểm hiện tại có tổng cộng 15 bản chính được phát hành. Final Fantasy là một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất mọi thời đại, thu về tổng cộng 11,5 tỷ đô la Mỹ tính đến năm 2020.

Mỗi phần của Final Fantasy là một cốt truyện độc lập, không có mối liên hệ gì giữa các phần với nhau. Bối cảnh, cốt truyện và nhân vật trong từng phần là khác nhau nhưng vẫn có sự liên kết bởi các yếu tố lặp đi lặp lại như game mechanic và tên nhân vật. Yếu tố cốt truyện của Final Fantasy không chỉ tập trung xoay quanh một nhóm anh hùng chiến đấu với cái ác mà còn khám phá khía cạnh nội tâm và mối quan hệ giữa các nhân vật. Tên của nhân vật thường bắt nguồn từ lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa đại chúngthần thoại của nhiều nền văn hóa trên toàn thế giới. Hệ thống chiến đấu và bản đồ của mỗi phần game đều có những sự tương đồng nhất định. Dòng trò chơi đã phổ biến nhiều tính năng của trò chơi nhập vai hiện tại cũng như truyền bá rộng rãi thể loại này ra các thị trường ngoài Nhật Bản. [ Đọc tiếp ]