Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Trang Tông”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Liên kết ngoài: clean up, replaced: → using AWB
Eruruu (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{Infobox Royalty
{{Infobox Royalty
|tên = Lê Trang Tông
|tên = Lê Trang Tông
| native name = 黎莊宗
|tước vị = Hoàng đế Việt Nam
|tước vị = [[Hoàng đế]] [[Việt Nam]]
|thêm = vietnam
|thêm = vietnam
|hình =
|chức vị = Vua nhà Hậu Lê
|chức vị = [[Hoàng đế]] [[nhà Hậu Lê]]
|sinh = [[1514]]?
|tên đầy đủ = Lê Duy Ninh (黎維寧)
|mất = [[1548]]
|nơi mất = [[Việt Nam]]
|tên đầy đủ = Lê Duy Ninh
|kiểu tên đầy đủ = Tên húy
|kiểu tên đầy đủ = Tên húy
|tại vị = [[1533]] - [[1548]]
|tại vị = [[1533]] - [[1548]]
|kiểu tại vị = Trị vì
|kiểu tại vị = Trị vì
|tiền nhiệm = [[Lê Cung Hoàng]]
|tiền nhiệm = <font color = "grey">[[Lê Cung Hoàng]]</font>
|kế nhiệm = [[Lê Trung Tông (Hậu Lê)|Lê Trung Tông]]
|kế nhiệm = <font color = "blue">[[Lê Trung Tông (Hậu Lê)|Lê Trung Tông]]</font>
|hoàng tộc = [[Nhà Hậu Lê]]
|hoàng tộc = [[Nhà Hậu Lê]]
|kiểu hoàng tộc = Triều đại
|kiểu hoàng tộc = Triều đại
|niên hiệu = Nguyên Hòa
|niên hiệu = Nguyên Hòa (元和)
|miếu hiệu = Trang Tông
|miếu hiệu = [[Trang Tông]] (莊宗)
|thụy hiệu = Dụ hoàng đế
|thụy hiệu = Dụ hoàng đế<br/>裕皇帝
|cha = [[Lê Chiêu Tông]]
|hình =
|cha = [[ Chiêu Tông]]?
|mẹ = [[Gia Khánh hoàng hậu]]
|sinh = [[1514]]
|mẹ = Phạm Thị Ngọc Quỳnh
|mất = [[29 tháng 1]], [[1548]]
|nơi mất = sách Vạn Lại, [[Tây Đô]]
|nơi an táng = [[Cảnh lăng]] (景陵)
}}
}}


'''Lê Trang Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎莊宗,ở ngôi: [[1533]] - [[1548]]) là vua đầu tiên của [[nhà Lê trung hưng]] trong [[lịch sử Việt Nam]], hay còn gọi '''Trang Tông Dụ hoàng đế''' tên thật là '''Lê Ninh''' (黎寧). Ông còn được dân gian ưu ái cho mỹ danh nghèo nàn '''Chúa Chổm'''.
'''Lê Trang Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎莊宗, [[1514]] - [[29 tháng 1]], [[1548]]) là [[Hoàng đế]] đầu tiên của [[Nhà Lê trung hưng]] và thứ 12 của [[Nhà Hậu Lê]] trong [[lịch sử Việt Nam]], ngôi từ năm [[1533]] đến năm [[1548]], tổng cộng 16 năm. Ông còn được dân gian ưu ái cho mỹ danh nghèo nàn '''Chúa Chổm'''.


Lê Duy Ninh là con trai của vua [[Lê Chiêu Tông]]; lúc [[Mạc Đăng Dung]] cướp ngôi nhà Lê, ông được [[Lê Quán]] cõng chạy sang [[Ai Lao]]. Đến năm [[1532]], được cựu thần [[Nguyễn Kim]] đón về làm vua, tái lập triều đại. Đến khoảng đầu thập niên 1540, quân Lê chiếm lại hai vùng Thanh Hóa và Nghệ An làm căn cứ chống lại [[nhà Mạc]], mở ra giai đoạn Nam - Bắc triều. Ông qua đời vào năm [[1548]], ngôi hoàng đế được truyền cho hoàng tửHuyên, tức [[Lê Trung Tông]].
Năm [[1527]], [[Mạc Đăng Dung]] cướp ngôi nhà Lê, ông được [[Lê Quán]] cõng chạy sang [[Ai Lao]]. Đến năm [[1532]], được cựu thần Thái sư Hưng quốc công [[Nguyễn Kim]] đón về, tái lập triều đại, được tôn ngay trên lãnh thổ Ai Lao. Đến khoảng đầu thập niên [[1540]], quân Lê chiếm lại hai vùng [[Thanh Hóa]][[Nghệ An]] làm căn cứ chống lại [[nhà Mạc]], mở ra giai đoạn [[Nam-Bắc triều (Việt Nam)|Nam - Bắc triều]] giữa họ họ Mạc.


==Thân thế==
==Thân thế==
Trang Tông hoàng đế tên thật là '''Lê Duy Ninh''' (黎維寧), ông là con trai của [[Lê Chiêu Tông]], mẫu thân là bà [[Gia Khánh hoàng hậu]] Phạm thị (嘉慶皇后范氏), người sách [[Cao Trĩ]], huyện [[Thụy Nguyên]], trấn [[Thanh Hóa]]<ref name="SKTB16">[[Đại Việt sử kí bản kỉ tục biên]], quyển 16.</ref>.
Đầu thế kỷ 16, [[nhà Hậu Lê]] suy yếu. Sau khi các cuộc khởi nghĩa Trần Tuân, cha con [[Trần Cảo (tướng khởi nghĩa)|Trần Cảo]] bị dẹp, quyền hành lọt vào tay các tướng lĩnh. Các tướng chia bè phái đánh lẫn nhau. Cuối cùng, [[Mạc Đăng Dung]] thu được thắng lợi, giết hai anh em vua [[Lê Chiêu Tông]] và [[Lê Cung Hoàng]], lập ra [[nhà Mạc]] (1527).


Lê Ninh là con trai của vua [[Lê Chiêu Tông]], mẫu thân là bà [[Phạm Thị Ngọc Quỳnh]], người sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên, trấn Thanh Hóa<ref name="SKTB16">[[Đại Việt sử kí bản kỉ tục biên]], quyển 16.</ref>. Năm [[1527]], [[Mạc Đăng Dung]] thoán ngôi nhà Lê, Lê Ninh cùng mẹ được quan đại thần [[Lê Quán]] cõng chạy trốn sang [[Ai Lao]]. Năm 1533, cựu thần nhà Hậu Lê là [[Nguyễn Kim]] không phục nhà Mạc, chạy vào Thanh Hoá lập lực lượng riêng rồi đón lập Lê Ninh tại [[Lào|Ai Lao]], tức Trang Tông, tái lập nhà Hậu .
Năm [[1527]], [[Mạc Đăng Dung]] soán ngôi nhà Lê, Lê Ninh cùng mẹ được quan đại thần [[Lê Quán]] cõng chạy trốn sang [[Ai Lao]]. Năm [[1533]], Thái [[Nguyễn Kim]] không phục [[nhà Mạc]], chạy vào [[Thanh Hoá]] lập lực lượng riêng rồi đón lập ông tại [[Ai Lao]], tái lập nhà Hậu. Ông dùng niên hiệu là '''Nguyên Hòa''' (元和), thời gọi ''Nguyên Hòa trung hưng'' (元和中興).


Sử sách ghi Trang Tông là con của Chiêu Tông, sinh năm 1514. Điều đó khiến các nhà nghiên cứu nghi ngờ vì khoảng cách giữa vua cha Chiêu Tông và vua con Trang Tông quá ngắn, chỉ có 8 năm<ref>Theo [[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]], Chiêu Tông sinh năm 1506</ref>. Nhà Mạc, trong biểu tâu [[nhà Minh]], phân trần về việc cướp ngôi nhà Lê nói rằng: ''Nguyễn Kim dựng con mình lên ngôi, nói dối là con của vua Chiêu Tông''.
Sử sách ghi Trang Tông là con của Chiêu Tông hoàng đế, sinh vào năm [[1514]] khiến các nhà nghiên cứu nghi ngờ vì khoảng cách giữa Chiêu Tông và Trang Tông quá ngắn, chỉ có 8 năm<ref>Theo [[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]], Chiêu Tông sinh năm 1506</ref>. Triều đình nhà Mạc trong biểu tâu [[nhà Minh]], phân trần về việc cướp ngôi nhà Lê nói rằng: ''"Nguyễn Kim dựng con mình lên ngôi, nói dối là con của Chiêu Tông"''.
Vả chăng húy của Trang Tông là Duy Ninh, thậm chí có thể là nhánh của Lê Trừ, vì con cháu Lê Trừ đều có tên lót là Duy{{fact}}.


== Nối lại nhà Lê ==
== Nối lại nhà Lê ==
=== Nguyễn Kim ===
=== Nguyễn Kim ===
Ngay sau khi lên ngôi, Trang Tông bàn luận về công tôn phò, lập [[Nguyễn Kim]] làm Thượng phụ, Thái sư Hưng quốc công, nắm giữ binh quyền; Đinh Công làm Thiếu úy Hùng quốc công, các tướng tá khác đều được phong thưởng theo thứ bậc. Nhà vua dựa vào vua [[Sạ Đẩu]] nước Ai Lao để mộ quân, trưng lương chống lại họ Mạc<ref name="CM27">[[Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục]], quyển 27.</ref>.
Ngay sau khi lên ngôi, Trang Tông bàn luận về công tôn phò, lập [[Nguyễn Kim]] làm Thượng phụ, ''[[Thái sư]] Hưng quốc công'', nắm giữ binh quyền; [[Đinh Công]] làm ''[[Thiếu úy]] Hùng quốc công'', các tướng tá khác đều được phong thưởng theo thứ bậc. Trang Tông dựa vào Quốc vương [[Sạ Đẩu]] nước [[Ai Lao]] để mộ quân, trưng lương chống lại họ Mạc<ref name="CM27">[[Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục]], quyển 27.</ref>.


Trang Tông sai [[Trịnh Duy Liêu]] đi sứ nước Minh, vượt biển từ Chiêm Thành đi ghé thuyền buôn Quảng Đông. Theo [[Minh sử]], đến năm [[1537]], mới đến Yến Kinh, tâu lên [[Minh Thế Tông|Gia Tĩnh đế nhà Minh]] về việc thoán nghịch của họ Mạc và xin nhà Minh giúp quân<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Vua Minh có ý nghi ngờ, bọn Duy Liêu liền viết thư dài để trình bày, tự sánh mình với [[Thân Bao Tư]]<ref>Người nước Sở đời Xuân Thu. Khi quân Ngô đánh phá nước Sở, Bao Tư sang Tần cầu cứu, khóc đến bảy ngày làm vua [[Tần Ái công]] cảm động, phải dấy quân cứu nước Sở.</ref> và [[Trương Tử Phòng]]<ref>Tên tự của [[Trương Lương]], trung với [[nước Hàn]], mưu sát [[Tần Thủy Hoàng]] ở Bác Lãng Sa để báo thù cho nước. Sau giúp [[Hán Cao Tổ]], thống nhất thiên hạ.</ref> ngày xưa.
Trang Tông còn sai [[Trịnh Duy Liêu]] đi sứ nước Minh, vượt biển từ [[Chiêm Thành]] đi ghé thuyền buôn [[Quảng Đông]]. Theo [[Minh sử]], đến năm [[1537]], mới đến [[Yên Kinh]], tâu lên [[Minh Thế Tông]] Gia Tĩnh hoàng đế về việc thoán nghịch của họ Mạc và xin nhà Minh giúp quân<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Gia Tĩnh Đế có ý nghi ngờ, bọn Trịnh Duy Liêu liền viết thư dài để trình bày, tự sánh mình với [[Thân Bao Tư]]<ref>Người nước [[Sở]] đời [[Xuân Thu]]. Khi quân Ngô đánh phá nước Sở, Bao Tư sang [[Tần]] cầu cứu, khóc đến bảy ngày làm [[Tần Ái công]] cảm động, phải dấy quân cứu nước Sở.</ref> và [[Trương Tử Phòng]]<ref>Tên tự của [[Trương Lương]], trung với [[nước Hàn]], mưu sát [[Tần Thủy Hoàng]] ở Bác Lãng Sa để báo thù cho nước. Sau giúp [[Hán Cao Tổ]], thống nhất thiên hạ.</ref> ngày xưa.


[[Trịnh Duy Liêu]] đi sứ đã lâu mà không thấy tăm hơi, nên đến năm [[1536]], Trang Tông lại sai [[Trịnh Viên]] sang [[nhà Minh]], thỉnh cầu [[Trung Quốc]] phát binh đánh họ Mạc. Các đại thần [[nhà Minh]] đều chủ trương thảo phạt họ Mạc. Tháng 2 ÂL năm [[1537]], [[Minh Thế Tông|Gia Tĩnh đế]] hạ lệnh cho [[Cừu Loan]] và [[Mao Bá Ôn]] cùng đánh [[Mạc Đăng Dung]]<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Mùa hạ cùng năm, tướng [[nhà Mạc]] là Tây An hầu [[Lê Phi Thừa]] cai quản bảy huyện Thanh Hoa, thu vén vơ vét chỗ đinh tam ti mà sang Ai Lao quy thuận nhà Lê, được nhà vua cho giữ nguyên chức cũ, nhưng về sau vì kiêu ngạo mà bị giết.
Vì Trịnh Duy Liêu đi sứ đã lâu mà không thấy tăm hơi, nên đến năm [[1536]], Trang Tông lại sai [[Trịnh Viên]] sang [[nhà Minh]], thỉnh cầu Gia Tĩnh Đế phát binh đánh họ Mạc. Các đại thần [[nhà Minh]] đều chủ trương thảo phạt họ Mạc.


[[Tháng 2]] năm [[1537]], Gia Tĩnh Đế hạ lệnh cho [[Cừu Loan]] và [[Mao Bá Ôn]] cùng đánh [[Mạc Đăng Dung]]<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. [[Mùa hạ]] cùng năm, tướng [[nhà Mạc]] là Tây An hầu [[Lê Phi Thừa]] cai quản bảy huyện [[Thanh Hoa]], thu vén vơ vét chỗ đinh tam ti mà sang Ai Lao quy thuận nhà Lê, được Trang Tông cho giữ nguyên chức cũ, nhưng về sau vì kiêu ngạo mà bị giết.
Năm [[1539]], Trang Tông dùng con rể [[Nguyễn Kim]] là [[Trịnh Kiểm]] làm Dực quốc công, cùng [[Trịnh Công Năng]] và [[Lại Thế Vinh]] cùng đánh họ Mạc. Quân Lê đánh bại quân Mạc ở Lôi Dương<ref>Nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]</ref>. Mùa đông năm [[1540]], quân Minh do [[Mao Bá Ôn]] chỉ huy kéo quân đến sát biên giới với nước ta, [[Mạc Đăng Dung]] hèn hạ dâng biểu xin hàng, tự cởi trần, trói mình cùng với hơn 40 quan lại đến ải Nam Quan thú tội, tình nguyện dâng nạp sáu động thuộc châu Vĩnh An quy về Khâm châu của [[nhà Minh]]<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Năm [[1541]], Gia Tĩnh đế đổi An Nam quốc thành An Nam đô thống sứ ti, trao cho Đăng Dung chức đô thống sứ; đổi đặt toàn quốc làm mười ba tuyên phủ ti, cho lệ thuộc vào đất [[nhà Minh]]. Từ đó [[nhà Minh]] đồng ý công nhận họ Mạc cai trị [[Đại Việt]].


Năm [[1539]], Trang Tông dùng con rể [[Nguyễn Kim]] là [[Trịnh Kiểm]] làm ''Dực quốc công'', cùng [[Trịnh Công Năng]] và [[Lại Thế Vinh]] cùng đánh họ Mạc. Quân Lê đánh bại quân Mạc ở [[Lôi Dương]]<ref>Nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]</ref>. Mùa đông năm [[1540]], quân Minh do [[Mao Bá Ôn]] chỉ huy kéo quân đến sát biên giới, [[Mạc Đăng Dung]] hèn hạ dâng biểu xin hàng, tự cởi trần, trói mình cùng với hơn 40 quan lại đến [[ải Nam Quan]] thú tội, tình nguyện dâng nạp sáu động thuộc [[châu Vĩnh An]] quy về [[Khâm Châu]] của [[nhà Minh]]<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />.
Mùa xuân năm [[1542]], nhà vua đích thân làm tướng ra đánh Thanh Hoa, dùng quận Thụy [[Hà Thọ Tường]] làm Ngự doanh đề thống. [[Nguyễn Kim]] dẫn quân đi trước, tấn công Thanh - Nghệ, nhiều người hưởng ứng theo, thanh thế rất lẫy lừng<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Năm [[1543]], vua tiến quân ra từ thành Tây Đô, tướng Mạc là Trung Hậu [[Dương Chấp Nhất]] hầu đầu hàng. Nhà vua sai [[Trịnh Công Năng]] đem chiếu thư gọi [[Nguyễn Kim]] về nước. Nguyễn Kim vào gặp vua ở sông Nghĩa Lộ, được phong làm Thái tể, Đô tướng tiết chế tướng sĩ chư doanh. Lại đem quân bình định vùng đất phía tây nam, thường giành thắng lợi. Về sau [[Dương Công Năng]] làm phản, Trang Tông sai Dực quận công [[Trịnh Kiểm]] đi đánh, giết được Năng.


Năm [[1541]], Gia Tĩnh Đế đổi ''An Nam quốc'' thành ''An Nam đô thống sứ ti'', trao cho Đăng Dung chức [[Đô thống sứ]]; đổi đặt toàn quốc làm 13 Tuyên phủ ti, cho lệ thuộc vào đất [[nhà Minh]]. Từ đó, [[nhà Minh]] đồng ý công nhận họ Mạc cai trị [[Đại Việt]].
=== Trịnh Kiểm ===


Mùa xuân năm [[1542]], Trang Tông đích thân làm tướng ra đánh [[Thanh Hoa]], dùng quận Thụy [[Hà Thọ Tường]] làm ''Ngự doanh đề thống''. Thái sư Hưng quốc công [[Nguyễn Kim]] dẫn quân đi trước, tấn công Thanh - Nghệ, nhiều người hưởng ứng theo, thanh thế rất lẫy lừng<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Năm [[1543]], Trang Tông tiến quân ra từ thành [[Tây Đô]], tướng Mạc là Trung Hậu [[Dương Chấp Nhất]] hầu đầu hàng. Hoàng đế sai [[Trịnh Công Năng]] đem chiếu thư gọi [[Nguyễn Kim]] về nước. Nguyễn Kim vào gặp Trang Tông[[sông Nghĩa Lộ]], được phong làm [[Thái tể]], [[Đô tướng tiết chế tướng sĩ chư doanh]]. Lại đem quân bình định vùng đất phía tây nam, thường giành thắng lợi. Về sau, [[Dương Công Năng]] làm phản, Trang Tông sai Dực quận công [[Trịnh Kiểm]] đi đánh, giết được Năng.
Tháng 4 ÂL năm [[1545]], Trang Tông tiến quân đến Yên Mô<ref>Nay thuộc địa phận tỉnh [[Ninh Bình]]</ref>. [[Dương Chấp Nhất]] mời [[Nguyễn Kim]] đến chỗ mình rồi bí mật giết chết, quay lại với [[nhà Mạc]]. Nhà vua truy tặng là Chiêu Huân Tĩnh công, thụy Trung Hiến, dùng con là [[Nguyễn Uông]] làm Lãng quận công, [[Nguyễn Hoàng]] làm Hạ Khê hầu, cầm quân đánh họ Mạc<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Mùa thu năm đó, ông dùng [[Trịnh Kiểm]] làm đô tướng, tiết chế các doanh quân thủy quân bộ, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, gia phong Thái sư, tước Lạng quốc công. Mọi việc trong nước hết thảy do [[Trịnh Kiểm]] quyết đoán, sau mới tâu lên vua. Theo đề nghị của [[Trịnh Kiểm]], vào đầu năm [[1546]], nhà vua cho lập hành điện ở sách Vạn Lại<ref>Nay thuộc huyện [[Thụy Nguyên]], tỉnh [[Thanh Hóa]]</ref> là chỗ hiểm trở.


=== Trịnh Kiểm ===
Ngày 29 tháng giêng năm 1548 Trang Tông [[chết|qua đời]], hưởng thọ 34 tuổi. Trịnh Kiểm lập con ông là thái tử Huyên lên nối ngôi, tức là [[Lê Trung Tông (Hậu Lê)|Lê Trung Tông]], táng di thể của ông lại Cảnh lăng, phía nam Lam Sơn<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />.
[[Tháng 4]] năm [[1545]], Trang Tông tiến quân đến [[Yên Mô]]<ref>Nay thuộc địa phận tỉnh [[Ninh Bình]]</ref>. [[Dương Chấp Nhất]] mời [[Nguyễn Kim]] đến chỗ mình rồi bí mật giết chết, quay lại với [[nhà Mạc]]. Nhà vua truy tặng là Chiêu Huân Tĩnh công, thụy Trung Hiến, dùng con là [[Nguyễn Uông]] làm ''Lãng quận công'', [[Nguyễn Hoàng]] làm ''Hạ Khê hầu'', cầm quân đánh họ Mạc<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />. Mùa thu năm đó, ông dùng [[Trịnh Kiểm]] làm ''Đô tướng, tiết chế các doanh quân thủy quân bộ, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự'', gia phong [[Thái sư]], tước ''Lạng quốc công''. Mọi việc trong nước hết thảy do Thái sư [[Trịnh Kiểm]] quyết đoán, sau mới tâu lên trên. Theo đề nghị của [[Trịnh Kiểm]], vào đầu năm [[1546]], Trang Tông cho lập [[Hành điện]] ở sách Vạn Lại<ref>Nay thuộc huyện [[Thụy Nguyên]], tỉnh [[Thanh Hóa]]</ref> là chỗ hiểm trở.


Ngày [[29 tháng 1]], năm [[1548]], Trang Tông hoàng đế băng hà, hưởng thọ 34 tuổi. Trịnh Kiểm lập con ông là Hoàng thái tử Lê Duy Huyên lên nối ngôi, tức là [[Lê Trung Tông (Hậu Lê)|Lê Trung Tông]], táng di thể của ông lại [[Cảnh lăng]], phía nam [[Lam Sơn]]<ref name="SKTB16" /><ref name="CM27" />.
== Niên hiệu ==
* Nguyên Hòa<ref>[http://www.hannom.org.vn Bảng tra niên hiệu các triều vua Việt Nam]</ref>: [[1533]]-[[1548]]


==Giai thoại về Chúa Chổm và câu thành ngữ==
== Giai thoại về Chúa Chổm và câu thành ngữ ==
Giai thoại dân gian kể rằng Lê Duy Ninh ngày bé tên là Chổm, mẹ ông từng tình cờ được gặp vua Lê Chiêu Tông một lần khi vua đang bị Mạc Đăng Dung giam lỏng ở phường Đông Hà; sau đó có mang và sinh ra Chổm.
Giai thoại dân gian kể rằng Lê Duy Ninh ngày bé tên là Chổm, mẹ ông từng tình cờ được gặp vua Lê Chiêu Tông một lần khi vua đang bị Mạc Đăng Dung giam lỏng ở phường Đông Hà; sau đó có mang và sinh ra Chổm.


Dòng 75: Dòng 76:


==Xem thêm==
==Xem thêm==
*[[Lê Chiêu Tông]]
* [[Lê Chiêu Tông]]
*[[Nguyễn Kim]]
* [[Nguyễn Kim]]


==Chú thích==
==Chú thích==
Dòng 82: Dòng 83:


==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==
*[http://vanhoc.xitrum.net/truyencotich/truyenthuyet/2006/180.html Nợ như Chúa Chổm]
* [http://vanhoc.xitrum.net/truyencotich/truyenthuyet/2006/180.html Nợ như Chúa Chổm]
*[http://www.1080vietnam.com/stories/Detail.aspx?Channel=84&Article=8314&ContentGroupID=300307 SỰ TÍCH ĐẤT NƯỚC VIỆT TẬP 2 - Nợ Như Chúa Chổm của Nguyễn Đổng Chi]
* [http://www.1080vietnam.com/stories/Detail.aspx?Channel=84&Article=8314&ContentGroupID=300307 SỰ TÍCH ĐẤT NƯỚC VIỆT TẬP 2 - Nợ Như Chúa Chổm của Nguyễn Đổng Chi]
*[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/phongtuc/cau_041.html Vì sao có tục bán mở hàng ? bán mở hàng thế nào cho đắt khách ? - Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam]
* [http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/phongtuc/cau_041.html Vì sao có tục bán mở hàng ? bán mở hàng thế nào cho đắt khách ? - Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam]


{{s-start}}
{{s-start}}
Dòng 102: Dòng 103:
{{Vua nhà Lê trung hưng}}
{{Vua nhà Lê trung hưng}}



[[Thể loại:Vua nhà Lê trung hưng|Trang Tông, Lê]]
[[Thể loại:Sinh 1514]]
[[Thể loại:Sinh 1514]]
[[Thể loại:Mất 1548]]
[[Thể loại:Mất 1548]]

Phiên bản lúc 11:09, ngày 31 tháng 7 năm 2015

Lê Trang Tông
黎莊宗
Hoàng đế Việt Nam
Hoàng đế nhà Hậu Lê
Trị vì1533 - 1548
Tiền nhiệmLê Cung Hoàng
Kế nhiệmLê Trung Tông
Thông tin chung
Sinh1514
Mất29 tháng 1, 1548
sách Vạn Lại, Tây Đô
An tángCảnh lăng (景陵)
Tên húy
Lê Duy Ninh (黎維寧)
Niên hiệu
Nguyên Hòa (元和)
Thụy hiệu
Dụ hoàng đế
裕皇帝
Miếu hiệu
Trang Tông (莊宗)
Triều đạiNhà Hậu Lê
Thân phụLê Chiêu Tông
Thân mẫuGia Khánh hoàng hậu

Lê Trang Tông (chữ Hán: 黎莊宗, 1514 - 29 tháng 1, 1548) là Hoàng đế đầu tiên của Nhà Lê trung hưng và thứ 12 của Nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1533 đến năm 1548, tổng cộng 16 năm. Ông còn được dân gian ưu ái cho mỹ danh nghèo nàn Chúa Chổm.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao. Đến năm 1532, được cựu thần Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim đón về, tái lập triều đại, được tôn ngay trên lãnh thổ Ai Lao. Đến khoảng đầu thập niên 1540, quân Lê chiếm lại hai vùng Thanh HóaNghệ An làm căn cứ chống lại nhà Mạc, mở ra giai đoạn Nam - Bắc triều giữa họ Lê và họ Mạc.

Thân thế

Trang Tông hoàng đế tên thật là Lê Duy Ninh (黎維寧), ông là con trai của Lê Chiêu Tông, mẫu thân là bà Gia Khánh hoàng hậu Phạm thị (嘉慶皇后范氏), người sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên, trấn Thanh Hóa[1].

Năm 1527, Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê, Lê Ninh cùng mẹ được quan đại thần Lê Quán cõng chạy trốn sang Ai Lao. Năm 1533, Thái sư Nguyễn Kim không phục nhà Mạc, chạy vào Thanh Hoá lập lực lượng riêng rồi đón lập ông tại Ai Lao, tái lập nhà Hậu Lê. Ông dùng niên hiệu là Nguyên Hòa (元和), thời kì gọi là Nguyên Hòa trung hưng (元和中興).

Sử sách ghi Trang Tông là con của Chiêu Tông hoàng đế, sinh vào năm 1514 khiến các nhà nghiên cứu nghi ngờ vì khoảng cách giữa Chiêu Tông và Trang Tông quá ngắn, chỉ có 8 năm[2]. Triều đình nhà Mạc trong biểu tâu nhà Minh, phân trần về việc cướp ngôi nhà Lê nói rằng: "Nguyễn Kim dựng con mình lên ngôi, nói dối là con của Chiêu Tông".

Nối lại nhà Lê

Nguyễn Kim

Ngay sau khi lên ngôi, Trang Tông bàn luận về công tôn phò, lập Nguyễn Kim làm Thượng phụ, Thái sư Hưng quốc công, nắm giữ binh quyền; Đinh Công làm Thiếu úy Hùng quốc công, các tướng tá khác đều được phong thưởng theo thứ bậc. Trang Tông dựa vào Quốc vương Sạ Đẩu nước Ai Lao để mộ quân, trưng lương chống lại họ Mạc[3].

Trang Tông còn sai Trịnh Duy Liêu đi sứ nước Minh, vượt biển từ Chiêm Thành đi ghé thuyền buôn Quảng Đông. Theo Minh sử, đến năm 1537, mới đến Yên Kinh, tâu lên Minh Thế Tông Gia Tĩnh hoàng đế về việc thoán nghịch của họ Mạc và xin nhà Minh giúp quân[1][3]. Gia Tĩnh Đế có ý nghi ngờ, bọn Trịnh Duy Liêu liền viết thư dài để trình bày, tự sánh mình với Thân Bao Tư[4]Trương Tử Phòng[5] ngày xưa.

Vì Trịnh Duy Liêu đi sứ đã lâu mà không thấy tăm hơi, nên đến năm 1536, Trang Tông lại sai Trịnh Viên sang nhà Minh, thỉnh cầu Gia Tĩnh Đế phát binh đánh họ Mạc. Các đại thần nhà Minh đều chủ trương thảo phạt họ Mạc.

Tháng 2 năm 1537, Gia Tĩnh Đế hạ lệnh cho Cừu LoanMao Bá Ôn cùng đánh Mạc Đăng Dung[1][3]. Mùa hạ cùng năm, tướng nhà Mạc là Tây An hầu Lê Phi Thừa cai quản bảy huyện Thanh Hoa, thu vén vơ vét chỗ đinh tam ti mà sang Ai Lao quy thuận nhà Lê, được Trang Tông cho giữ nguyên chức cũ, nhưng về sau vì kiêu ngạo mà bị giết.

Năm 1539, Trang Tông dùng con rể Nguyễn KimTrịnh Kiểm làm Dực quốc công, cùng Trịnh Công NăngLại Thế Vinh cùng đánh họ Mạc. Quân Lê đánh bại quân Mạc ở Lôi Dương[6]. Mùa đông năm 1540, quân Minh do Mao Bá Ôn chỉ huy kéo quân đến sát biên giới, Mạc Đăng Dung hèn hạ dâng biểu xin hàng, tự cởi trần, trói mình cùng với hơn 40 quan lại đến ải Nam Quan thú tội, tình nguyện dâng nạp sáu động thuộc châu Vĩnh An quy về Khâm Châu của nhà Minh[1][3].

Năm 1541, Gia Tĩnh Đế đổi An Nam quốc thành An Nam đô thống sứ ti, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ; đổi đặt toàn quốc làm 13 Tuyên phủ ti, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh. Từ đó, nhà Minh đồng ý công nhận họ Mạc cai trị Đại Việt.

Mùa xuân năm 1542, Trang Tông đích thân làm tướng ra đánh Thanh Hoa, dùng quận Thụy Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim dẫn quân đi trước, tấn công Thanh - Nghệ, nhiều người hưởng ứng theo, thanh thế rất lẫy lừng[1][3]. Năm 1543, Trang Tông tiến quân ra từ thành Tây Đô, tướng Mạc là Trung Hậu Dương Chấp Nhất hầu đầu hàng. Hoàng đế sai Trịnh Công Năng đem chiếu thư gọi Nguyễn Kim về nước. Nguyễn Kim vào gặp Trang Tông ở sông Nghĩa Lộ, được phong làm Thái tể, Đô tướng tiết chế tướng sĩ chư doanh. Lại đem quân bình định vùng đất phía tây nam, thường giành thắng lợi. Về sau, Dương Công Năng làm phản, Trang Tông sai Dực quận công Trịnh Kiểm đi đánh, giết được Năng.

Trịnh Kiểm

Tháng 4 năm 1545, Trang Tông tiến quân đến Yên Mô[7]. Dương Chấp Nhất mời Nguyễn Kim đến chỗ mình rồi bí mật giết chết, quay lại với nhà Mạc. Nhà vua truy tặng là Chiêu Huân Tĩnh công, thụy Trung Hiến, dùng con là Nguyễn Uông làm Lãng quận công, Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê hầu, cầm quân đánh họ Mạc[1][3]. Mùa thu năm đó, ông dùng Trịnh Kiểm làm Đô tướng, tiết chế các doanh quân thủy quân bộ, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, gia phong Thái sư, tước Lạng quốc công. Mọi việc trong nước hết thảy do Thái sư Trịnh Kiểm quyết đoán, sau mới tâu lên trên. Theo đề nghị của Trịnh Kiểm, vào đầu năm 1546, Trang Tông cho lập Hành điện ở sách Vạn Lại[8] là chỗ hiểm trở.

Ngày 29 tháng 1, năm 1548, Trang Tông hoàng đế băng hà, hưởng thọ 34 tuổi. Trịnh Kiểm lập con ông là Hoàng thái tử Lê Duy Huyên lên nối ngôi, tức là Lê Trung Tông, táng di thể của ông lại Cảnh lăng, phía nam Lam Sơn[1][3].

Giai thoại về Chúa Chổm và câu thành ngữ

Giai thoại dân gian kể rằng Lê Duy Ninh ngày bé tên là Chổm, mẹ ông từng tình cờ được gặp vua Lê Chiêu Tông một lần khi vua đang bị Mạc Đăng Dung giam lỏng ở phường Đông Hà; sau đó có mang và sinh ra Chổm.

Chổm lớn lên nhà nghèo, phải đi vay mọi người để sống qua ngày và hứa sẽ trả đủ nợ. Bỗng gặp lúc Nguyễn Kim khởi binh chống nhà Mạc, tìm được Chổm là dòng dõi nhà Lê nên lập làm vua.

Công cuộc diệt Mạc thắng lợi, vua Chổm trở lại kinh thành Thăng Long. Khi đi qua làng cũ chỗ mẹ con Duy Ninh lánh nạn, một số người bán chịu cho Ninh ngày xưa đổ lại đòi tiền. Họ không biết Duy Ninh làm chức gì nhưng thấy được đi xe giá, quân lính hộ vệ thì chắc là Ninh đã thành đạt, nên họ nhắc lại lời hứa của Ninh. Có nhiều người không phải là chủ nợ nhưng cũng đổ xô lại yêu cầu, đòi hỏi. Người người tấp nập đầy đường, chỉ vào vua mà đòi nợ.

Nhà vua không biết ai và cũng không biết làm sao mà trả cho hết nên truyền miễn thuế một năm cho dân cả làng để trừ. Mặt khác, triều đình ra lệnh cấm những người đòi nợ được chỉ tay xúc phạm vua. Do đó con đường nhỏ có tên là Cấm Chỉ - ngõ có tên tồn tại đến ngày nay ở Hà Nội.

"Nợ như chúa Chổm" trở thành một thành ngữ chỉ những người thiếu nợ quá nhiều. Người đời có câu ca dao:

Vua Ngô ba mươi sáu tán vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm mắc nợ tì tì
Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô

Giai thoại này không có thật. Trên thực tế Lê Duy Ninh tới hết đời vẫn chưa khôi phục được kinh thành Thăng Long.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ a b c d e f g Đại Việt sử kí bản kỉ tục biên, quyển 16.
  2. ^ Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Chiêu Tông sinh năm 1506
  3. ^ a b c d e f g Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển 27.
  4. ^ Người nước Sở đời Xuân Thu. Khi quân Ngô đánh phá nước Sở, Bao Tư sang Tần cầu cứu, khóc đến bảy ngày làm Tần Ái công cảm động, phải dấy quân cứu nước Sở.
  5. ^ Tên tự của Trương Lương, trung với nước Hàn, mưu sát Tần Thủy Hoàng ở Bác Lãng Sa để báo thù cho nước. Sau giúp Hán Cao Tổ, thống nhất thiên hạ.
  6. ^ Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa
  7. ^ Nay thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình
  8. ^ Nay thuộc huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa

Liên kết ngoài

Lê Trang Tông
Sinh: , 1514? Mất: , 1548
Tước hiệu
Tiền nhiệm
Lê Cung Hoàng
giữ chức Hoàng đế nhà Lê sơ
Hoàng đế nhà Lê trung hưng
1533-1548
Kế nhiệm
Lê Trung Tông
Tước hiệu thừa kế trên danh nghĩa
Tiền nhiệm
Lê Cung Hoàng
— DANH NGHĨA —
Hoàng đế Đại Việt
Tự nhận là dòng dõi hoàng gia
1533 - 1548
Lý do cho sự thất bại kế vị:
Nam Bắc triều
Kế nhiệm
Lê Trung Tông