Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tam độc”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Truyền bá chân lý (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Kimkha
Thẻ: Lùi tất cả
n Sai kiến thức Phật Học
Thẻ: Thêm nội dung không nguồn Soạn thảo trực quan
Dòng 2: Dòng 2:
{{Buddhism}}
{{Buddhism}}


'''Tam độc''' (tiếng [[Tiếng Phạn|Phạn]]: ''triviṣa'', tiếng Tây Tạng: ''dug gsum)'', trong [[Phật giáo]], nói về 3 trạng thái tinh thần có hại: ngu si ([[vô minh]]) (tiếng Phạn: moha), tham lam (tiếng Phạn: raga), sân hận (tiếng Phạn: dvesha).
'''Tam độc''' (tiếng [[Tiếng Phạn|Phạn]]: ''triviṣa)'', trong [[Phật giáo]], nói về 3 trạng thái tinh thần có hại: ngu si ([[vô minh]]) (tiếng Phạn: Moha), tham lam (tiếng Phạn: Lobha), sân hận (tiếng Phạn: Dosa).


Vì bị kiềm chế bởi tam độc tham, sân, si nên chúng sinh luôn tạo nghiệp ác và do đó tạo ra trong tâm thức những nghiệp lực dưới dạng tiền định lực, trói buộc tâm thức. Khi mạng sống chấm dứt, chúng sinh bị kiềm chế bởi những tiền định lực ấy sẽ phải đi theo nghiệp lực của mình để tái sinh trong [[Sáu cõi luân hồi|6 cõi luân hồi]] với một tâm thức và thân thể của kiếp sống mới, phù hợp với các nghiệp nhân đã tạo tác ra trong quá khứ. 
Vì bị kiềm chế bởi tam độc tham, sân, si nên chúng sinh luôn tạo nghiệp ác và do đó tạo ra trong tâm thức những nghiệp lực dưới dạng tiền định lực, trói buộc tâm thức. Khi mạng sống chấm dứt, chúng sinh bị kiềm chế bởi những tiền định lực ấy sẽ phải đi theo nghiệp lực của mình để tái sinh trong [[Sáu cõi luân hồi|6 cõi luân hồi]] với một tâm thức và thân thể của kiếp sống mới, phù hợp với các nghiệp nhân đã tạo tác ra trong quá khứ. 
Dòng 9: Dòng 9:


== Tham ==
== Tham ==
Tham (Lobha), bắt nguồn từ "Lubh", bám chặt vào, hay cột lại, có thể được dịch là "luyến ái", hay "bám níu". Vài học giả thích dùng danh từ "khát vọng" hơn. ái dục cũng được dùng trong nghĩa tương đương với lobha. Khi giác quan tiếp xúc với một đối tượng đáng được ưa thích, tức trần cảnh khả ái, thông thường có sự luyến ái hay bám níu phát sanh. Ngược lại, nếu đối tượng không đáng được ưa thích thì có tâm bất toại nguyện.  
Chính là tham lam, bao gồm công danh quyền uy và cả tiền tài vật chất, không biết khi nào là đủ.


== Sân ==
== Sân ==
Sự bất toại nguyện ấy đuợc gọi là Sân (dosa) hay paṭigha. Sân (Dosa) xuất nguyên từ căn "dus", không bằng lòng, không vui, bất mãn, bất toại nguyện. Paṭigha do căn "paṭi", chống lại, và "gha", chạm vào, đụng, tiếp xúc, ác ý, thù hận, cũng được xem như có ý nghĩa tương đương với paṭigha.
Là giận, tức, ghét. Chối bỏ 1 điều không như ý.


== Si ==
== Si ==
Si (Moha) do căn "muh", lầm lạc, ảo tưởng. Ðó là trạng thái mê mờ, lầm lạc, ảo tưởng. Chính moha bao trùm đối tượng như một đám mây mờ và làm cho tâm mù quáng, không thấy rõ. Ðôi khi moha được phiên dịch là không biết, si mê.  
Si là si mê tham đắm trong dục vọng. Là phiền não, si mê đối với mọi chân lý tương đối và tuyệt đối. Theo ''[[A-tì-đạt-ma-câu-xá luận]]'', nó được xem là một trong các [[Đại phiền não địa pháp]], theo giáo lý [[Duy thức tông]], nó là một trong 6 căn bản phiền não, là một trong [[Tam bất thiện căn]] (zh. 三不善根) và là một trong [[Thập tuỳ miên]] (zh. 十隨眠). Đồng nghĩa với Vô minh. Được xem như là nguồn gốc của mọi phiền não.


== Các trạng thái tinh thần đối lập với tam độc: ==
== Các trạng thái tinh thần đối lập với tam độc: ==
* Sáng suốt
* Buông bỏ
* Buông bỏ
* Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ,xả)
* Từ bi
* Trí tuệ


== Phép tu ==
== Phép tu ==
*Ta phải thực hành phép "''Thiểu dục tri túc''" (Ít muốn biết đủ).
*Ta phải thực hành phép "''Thiểu dục tri túc''" (Ít muốn biết đủ).
*Ta phải tập dừng lại, tập quan sát để có thể biết phân biệt đúng sai, phải trái.
*Ta phải tập dừng lại, tập quan sát để có thể biết phân biệt đúng sai, phải trái.
*Ta phải biết thực hành các pháp môn tu.
*Ta phải biết thực hành pháp môn tu tứ niệm xứ ( thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ).


== Kết luận ==
== Kết luận ==
Theo vi diệu pháp (Abhidhamma), moha (si) nằm trong tất cả các loại tâm bất thiện. Lobha (tham) và dosa (sân) không phát sanh một mình mà luôn luôn phối hợp với moha (si). Còn moha (si), thì có thể khởi sanh đơn độc một mình. Do đó danh
Si mê chính là gốc rễ, sân hận là cành và tham lam là lá. Chúng ta phải diệt trừ gốc rễ, có như thế trí tuệ mới được khai sáng sẽ diệt trừ được sân hận và tham lam.{{fact|date=7-2014}}


từ "momūha", si mê mạnh mẽ. Ðối nghịch hẳn với ba căn trên có ba căn thiện (Kusala). Ba căn nầy không những hàm xúc sự vắng mặt một số điều kiện bất thiện mà còn bao hàm sự hiện hữu của những điều kiện có tánh cách "thiện" một cách tích
Cây tham sân si muốn nhổ phải đào tận rễ, muốn đào tận rễ phải chủ trị thân, càng chủ trị thân càng thấy gốc rễ nó tủa sâu, phương tiện đào là lòng từ thương chúng sanh phải rộng mở, đồng thời trí huệ cũng được khai tâm. Chung qui kẻ mộ đạo phải thắng cái thân xác nếu không phút chót cũng bị nó xỏ mũi dắt đi.

cực. Alobha không phải chỉ có nghĩa là không luyến ái (không tham), mà cũng là quảng đại, bao dung, rộng rãi bố thí. Adosa cũng không phải chỉ là không sân hay không thù hận, mà còn là thiện ý, thiện chí, hay tâm từ(mettā). Amoha không phải

chỉ là không si mê mà cũng là trí tuệ hay tri kiến, minh mẫn sáng suốt (ñāṇa hay paññā).  


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
{{tham khảo}}
{{tham khảo}}

* Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Nārada Mahā Thera)

*Phật giáo Việt Nam
*Phật giáo Việt Nam
*Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
*Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất

Phiên bản lúc 15:49, ngày 5 tháng 1 năm 2021

Tác phẩm "Bánh xe luân hồi" (Bhavachakra) tại tu viện Sera, Tây Tạng.

Tam độc (tiếng Phạn: triviṣa), trong Phật giáo, nói về 3 trạng thái tinh thần có hại: ngu si (vô minh) (tiếng Phạn: Moha), tham lam (tiếng Phạn: Lobha), sân hận (tiếng Phạn: Dosa).

Vì bị kiềm chế bởi tam độc tham, sân, si nên chúng sinh luôn tạo nghiệp ác và do đó tạo ra trong tâm thức những nghiệp lực dưới dạng tiền định lực, trói buộc tâm thức. Khi mạng sống chấm dứt, chúng sinh bị kiềm chế bởi những tiền định lực ấy sẽ phải đi theo nghiệp lực của mình để tái sinh trong 6 cõi luân hồi với một tâm thức và thân thể của kiếp sống mới, phù hợp với các nghiệp nhân đã tạo tác ra trong quá khứ. 

Tam độc là phần chính giữa trong bức tranh “Bánh xe luân hồi” (Bhavachakra), đặt tại nhiều tu viện Phật giáo ở Tây Tạng, với hình ảnh con công, rắn và lợn cắn đuôi nhau.

Tham

Tham (Lobha), bắt nguồn từ "Lubh", bám chặt vào, hay cột lại, có thể được dịch là "luyến ái", hay "bám níu". Vài học giả thích dùng danh từ "khát vọng" hơn. ái dục cũng được dùng trong nghĩa tương đương với lobha. Khi giác quan tiếp xúc với một đối tượng đáng được ưa thích, tức trần cảnh khả ái, thông thường có sự luyến ái hay bám níu phát sanh. Ngược lại, nếu đối tượng không đáng được ưa thích thì có tâm bất toại nguyện.  

Sân

Sự bất toại nguyện ấy đuợc gọi là Sân (dosa) hay paṭigha. Sân (Dosa) xuất nguyên từ căn "dus", không bằng lòng, không vui, bất mãn, bất toại nguyện. Paṭigha do căn "paṭi", chống lại, và "gha", chạm vào, đụng, tiếp xúc, ác ý, thù hận, cũng được xem như có ý nghĩa tương đương với paṭigha.

Si

Si (Moha) do căn "muh", lầm lạc, ảo tưởng. Ðó là trạng thái mê mờ, lầm lạc, ảo tưởng. Chính moha bao trùm đối tượng như một đám mây mờ và làm cho tâm mù quáng, không thấy rõ. Ðôi khi moha được phiên dịch là không biết, si mê.  

Các trạng thái tinh thần đối lập với tam độc:

  • Buông bỏ
  • Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ,xả)
  • Trí tuệ

Phép tu

  • Ta phải thực hành phép "Thiểu dục tri túc" (Ít muốn biết đủ).
  • Ta phải tập dừng lại, tập quan sát để có thể biết phân biệt đúng sai, phải trái.
  • Ta phải biết thực hành pháp môn tu tứ niệm xứ ( thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ).

Kết luận

Theo vi diệu pháp (Abhidhamma), moha (si) nằm trong tất cả các loại tâm bất thiện. Lobha (tham) và dosa (sân) không phát sanh một mình mà luôn luôn phối hợp với moha (si). Còn moha (si), thì có thể khởi sanh đơn độc một mình. Do đó danh

từ "momūha", si mê mạnh mẽ. Ðối nghịch hẳn với ba căn trên có ba căn thiện (Kusala). Ba căn nầy không những hàm xúc sự vắng mặt một số điều kiện bất thiện mà còn bao hàm sự hiện hữu của những điều kiện có tánh cách "thiện" một cách tích

cực. Alobha không phải chỉ có nghĩa là không luyến ái (không tham), mà cũng là quảng đại, bao dung, rộng rãi bố thí. Adosa cũng không phải chỉ là không sân hay không thù hận, mà còn là thiện ý, thiện chí, hay tâm từ(mettā). Amoha không phải

chỉ là không si mê mà cũng là trí tuệ hay tri kiến, minh mẫn sáng suốt (ñāṇa hay paññā).  

Tham khảo

  • Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Nārada Mahā Thera)
  • Phật giáo Việt Nam
  • Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
  • Chương trình tu học bậc Hướng thiện.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán