Bước tới nội dung

Anna của Áo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Anna của Áo
Vương hậu nước Tây Ban Nha
Tại vị4 tháng 5, năm 1570 – 26 tháng 10, năm 1580 (10 năm, 175 ngày)
Tiền nhiệmÉlisabeth của Pháp
Kế nhiệmMargarete của Áo
Vương hậu Bồ Đào Nha
Tại vị12 tháng 9 năm 1580 - 26 tháng 10 năm 1580 (44 ngày)
Tiền nhiệmCatalina của Castilla
Kế nhiệmMargarete của Áo
Thông tin chung
Sinh(1549-11-02)2 tháng 11, 1549
Valladolid, Tây Ban Nha
Mất26 tháng 10, 1580(1580-10-26) (30 tuổi)
Badajoz, Tây Ban Nha
An tángEl Escorial
Phu quânFelipe II của Tây Ban Nha Vua hoặc hoàng đế
Hậu duệFernando, Thân vương xứ Asturias
Diego, Thân vương xứ Asturias
Felipe III của Tây Ban Nha Vua hoặc hoàng đế
Hoàng tộcNhà Habsburg
Thân phụMaximilian II của Thánh chế La Mã Vua hoặc hoàng đế
Thân mẫuMaría của Tây Ban Nha
Tôn giáoCông giáo La Mã

Anna của Áo (tiếng Đức: Anna von Österreich, tiếng Tây Ban Nha: Ana de Austria; 2 tháng 11 năm 154926 tháng 10 năm 1580), là Nữ Đại vương công Áo, sau thành Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Felipe II của Tây Ban Nha.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Anna sinh ra ở thành phố Valladolid thuộc Vương quốc Tây Ban Nha, là con gái lớn nhất của Hoàng đế Maximilian II của Đế quốc La Mã Thần thánhMaría của Tây Ban Nha, Hoàng hậu của Thánh chế La Mã. Hai vợ chồng là chị em họ, vì María là con gái của Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã - anh trai của Ferdinand I của đế quốc La Mã Thần thánh — cũng là ông nội của Anna. Khi Anna được sinh ra, Thánh chế La Mã vẫn đang được cai trị bởi ông ngoại là Hoàng đế Karl V, lúc này ông nội bà vẫn chưa được truyền ngôi.

Năm lên 4 tuổi, Ana đến Viên. Trong các người con, bà là người được cha mình yêu thương nhất. Theo những câu chuyện ghi lại, Hoàng đế Maximilian II thích chơi cá cược với con gái mình. Vào một hôm, Anna ngã bệnh, và Hoàng đế Maximilian II đã không tiếp các công sứ từ Hungary vì mãi lo lắng cho con gái. Từ lúc nhỏ đến trưởng thành, Anna tiếp thu nền giáo dục Công giáo, dù cha bà là Hoàng đế Maximilian lại có thiên hướng ủng hộ Tin Lành.

Với tư cách là người con lớn nhất của Hoàng đế Maximilian, Anna được bàn định đính hôn với người anh họ là Carlos, Thân vương xứ Asturias, con trai của Quốc vương Tây Ban Nha là Felipe II, với việc này thì nhánh Habsburg của Thánh chế La Mã và nhánh ở Tây Ban Nha sẽ được giữ vững liên kết. Tuy nhiên Carlos qua đời ngay vào năm 1568, khiến liên kết này đứt quãng. Sau đó, vợ thứ 3 của Felipe II là Elisabeth qua đời, khiến cho vấn đề liên hôn giữa hai nhánh Habsburg được triển khai. Cuộc định ước này bị phản đối rất nhiều bởi các thế lực, trong đó có Giáo hoàng Piô V, nhưng sau cùng vẫn được giải quyết[1].

Năm 1569, hôn nhân giữa Ana với chú mình được tuyên bố khắp Châu Âu, và vào tháng 5 năm 1570 thì cả hai được kết hôn thông qua trung gian. Mùa thu năm ấy, Ana di chuyển từ Áo đến Tây Ban Nha, đồng hành là hai người em trai, AlbertWenceslaus. Vương hậu Ana sinh 3 lần liên tiếp đều là con trai, tuy nhiên của chỉ có người con út là sống được đến trưởng thành, chính là Quốc vương Felipe III của Tây Ban Nha.

Tổ tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Anna of Austria, Queen of Spain- Spanish School Lưu trữ 2011-07-15 tại Wayback Machine
  2. ^ a b Press, Volker (1990), “Maximilian II.”, Neue Deutsche Biographie (NDB) (bằng tiếng Đức), 16, Berlin: Duncker & Humblot, tr. 471–475Quản lý CS1: postscript (liên kết); (full text online)
  3. ^ a b Wurzbach, Constantin von biên tập (1861). “Habsburg, Maria von Spanien” . Biographisches Lexikon des Kaiserthums Oesterreich [Biographical Encyclopedia of the Austrian Empire] (bằng tiếng Đức). 7. tr. 19 – qua Wikisource.
  4. ^ Wurzbach, Constantin von biên tập (1861). “Habsburg, Philipp I. der Schöne von Oesterreich” . Biographisches Lexikon des Kaiserthums Oesterreich [Biographical Encyclopedia of the Austrian Empire] (bằng tiếng Đức). 7. tr. 112 – qua Wikisource.
  5. ^ Chisholm, Hugh biên tập (1911). “Joanna” . Encyclopædia Britannica. 15 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
  6. ^ a b Priebatsch, Felix (1908), “Wladislaw II.”, Allgemeine Deutsche Biographie (ADB) (bằng tiếng Đức), 54, Leipzig: Duncker & Humblot, tr. 688–696
  7. ^ a b Charles V, Holy Roman Emperor tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  8. ^ a b Stephens, Henry Morse (1903). The story of Portugal. G.P. Putnam's Sons. tr. 125, 139, 279. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.

Literature

[sửa | sửa mã nguồn]
  • J. Brouwer, Montigny, Representative of the Netherlands by Philip II (Amsterdam z.j. [1941]).
  • R. Rodríguez Raso, Maximiliano de Austria, gobernador de Carlos V en España: cartas al emperador (Madrid 1963).
  • Fernando González-Doria, Las Reinas de España (Madrid 1986).
  • A. W. Lovett, Early Habsburg Spain, 1517-1598 (Oxford 1986).
  • John Lynch, Spain 1516-1598. From nation state to world empire (Oxford 1991).
  • Geoffrey Parker, Philip II (Chicago / La Salle 1996).
  • Henry Kamen, Philip of Spain (New Haven / London 1997).
  • Manuel Ríos Mazcarelle, Reinas de España. Casa de Austria (Madrid 1998).
  • L. Cabrera de Córdoba, Historia de Felipe II, rey de España, J. Martínez Millán and C.J. ed the Carlos Morales (Madrid 1998).
  • Paula Sutter Fichtner, The Emperor Maximilian II (New Haven 2001).
  • Pedro Gargantilla, Enfermedades de los reyes de España. Los Austrias. De la locura a la impotencia de Juana de Carlos II el Hechizado (Madrid 2005).