Bước tới nội dung

Juana I của Castilla

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Juana I của Castilla và Aragón
Nữ vương của CastillaLeón
Tại vị26 tháng 11, năm 1504
12 tháng 4, năm 1555
(50 năm, 137 ngày)
Đồng cai trịPhilipp I
Carlos I
Tiền nhiệmIsabel I Vua hoặc hoàng đếFernando V Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệmCarlos I Vua hoặc hoàng đế
Nữ vương của Aragón, Sicilia, Naples, ValenciaSardegna
Nữ Bá tước xứ Barcelona
Tại vị23 tháng 1, năm 1516
- 12 tháng 4, năm 1555
(39 năm, 79 ngày)
Cùng trị vìCarlos I Vua hoặc hoàng đế
Tiền nhiệmFerrando II Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệmCarlos I Vua hoặc hoàng đế
Nữ vương Navarra
Tại vị23 tháng 1 năm 1516 - 12 tháng 4 năm 1555
(39 năm, 79 ngày)
Tiền nhiệmFernando I Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệmCarlos IV Vua hoặc hoàng đế
Đồng trị vìCarlos IV Vua hoặc hoàng đế
Nữ vương Napoli
Tại vị23 tháng 1 năm 1516 - 24 tháng 7 năm 1554
(38 năm, 182 ngày)
Tiền nhiệmFerdinando III Vua hoặc hoàng đế
Đồng cai trịCarlo IV Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệmFilippo I Vua hoặc hoàng đế
Công tước phu nhân xứ Bourgogne
Tại vị20 tháng 10 năm 149625 tháng 9 năm 1506
(9 năm, 340 ngày)
Tiền nhiệmMaximilian của Áo
Kế nhiệmIsabel của Bồ Đào Nha
Thông tin chung
Sinh(1479-11-06)6 tháng 11 năm 1479
Toledo, Tây Ban Nha
Mất12 tháng 4 năm 1555(1555-04-12) (75 tuổi)
Tordesillas, Tây Ban Nha
An tángCapilla Real, Granada, Tây Ban Nha
Phối ngẫuPhilipp của Áo
Hậu duệ
Vương tộcNhà Trastámara
Nhà Habsburg (kết hôn)
Thân phụFerrando II của Aragón Vua hoặc hoàng đế
Thân mẫuIsabel I của Castilla Vua hoặc hoàng đế

Juana I của Castilla và Aragón (tiếng Tây Ban Nha: Juana I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: Joana I de Castela; tiếng Anh: Joanna of Castile; tiếng Đức: Johanna I. von Kastilien; tiếng Hà Lan: Johanna I van Castilië; 6 tháng 11 năm 147912 tháng 4 năm 1555), là Nữ vương của Vương quốc CastillaAragón[1]. Trong lịch sử Châu Âu, Juana được biết đến với biệt danh Juana, Bà Chúa Điên (Juana La Loca).

Là con gái của Quân chủ Công giáo, Song vương Ferrando II của AragónIsabel I của Castilla, Juana trở thành Trữ quân của Vương quyền Castilla cùng Aragón sau cái chết liên tiếp của anh trai, chị gái và cháu trai. Từ việc hợp nhất xứ Castilla và Aragón, sự lên ngôi của Juana đã đánh dấu ấn quan trọng trong việc hình thành nhà nước Tây Ban Nha hiện đại. Juana kết hôn với Philipp của Áo, người trở thành Quốc vương vào năm 1506, đại diện dòng họ nhà Habsburg trị vì Castilla do hệ thống "Jure uxoris", cho phép người chồng có quyền hoặc tước vị dựa vào hôn phối với người vợ, trở thành Philipp I của Castilla. Thế nhưng Vua Phillipp qua đời cùng năm đó không lâu. Những tưởng rằng Juana sẽ phải đến một Tu viện cho quãng đời còn lại khi cha bà là Quốc vương Ferrando II tuyên bố quyền nhiếp chính của Castilla, Juana cuối cùng vẫn duy trì tư cách là Nữ vương của Castilla, sau đó còn thuận lợi kế tục trở thành quân chủ của Aragón khi cha bà là Quốc vương Ferrando II qua đời vào năm 1516. Theo sự kiện này, Juanna là vị quân chủ, cũng là Nữ vương đầu tiên của toàn bộ Tây Ban Nha thống nhất trong lịch sử Tây Ban Nha.

Từ năm 1517, con trai bà là Karl của Áo đến và tiếp nhận Vương vị của Castilla cùng Aragón, trở thành Quốc vương Carlos I của Castilla và Aragón , còn Juana tiếp tục cai trị cùng con trên cương vị là người đồng cai trị.

Thân thế

[sửa | sửa mã nguồn]

Nữ vương Juana xuất thân từ gia tộc nhà Trastámara lừng danh của hai Vương quốc cổ Castilla và Aragón, bà được sinh ra ở Toledo, kinh đô khi đó của Vương quốc Castilla. Bà là người con thứ 3 và là con gái thứ hai của Quốc vương Ferrando II của Aragón và Nữ vương Isabel I của Castilla. Trong gia đình hầu hết là con gái, Juana là em gái của Isabel, chị của MaríaCatalina của Aragón, người sau này lấy Henry VIII của Anh và trở thành Vương hậu nước Anh.

Từ khi còn nhỏ, Juana là một người được đánh giá là thông minh và siêng năng, đồng thời là một học sinh giỏi. Mẹ bà là Nữ vương Isabel thường lui tới phòng học và kiểm tra bài vở của bà cùng với ba chị em gái khác là Isabel, MaríaCatalina.

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]

Juana được giáo dục và đào tạo bài bản để chuẩn bị cho một cuộc hôn nhân quan trọng, nhằm tạo nên liên minh hoàng gia giúp mở rộng quyền lực, đảm bảo an ninh, cũng như tăng cường ảnh hưởng và duy trì quan hệ hòa bình với các thế lực cai trị khác. Là một Infanta, bà không được kỳ vọng sẽ trở thành người thừa kế ngai vàng của cả Castile hay Aragon, mặc dù sau này do các cái chết trong hoàng tộc, bà lại thừa hưởng cả hai ngai vàng.[2]

Học vấn của Juana bao gồm luật giáo hội và luật dân sự, phả hệ và huy hiệu học, ngữ pháp, lịch sử, ngôn ngữ, toán học, triết học, đọc, chính tả và viết. Trong số các tác giả văn học cổ điển mà bà đọc có các nhà thơ Kitô giáo Juvencus và Prudentius, các giáo phụ như Thánh Ambrose, Thánh Augustine, Thánh GregoryThánh Jerome, cũng như chính khách La Mã Seneca.[2]

Tại triều đình Castile, những người gia sư chính của Juana gồm linh mục Dòng Đa Minh Andrés de Miranda, nhà giáo dục Beatriz Galindo, thành viên triều đình của vương hậu. Nền giáo dục của Juana còn bao gồm nấu ăn, nghi thức triều đình, khiêu vũ, vẽ, kỹ năng cưỡi ngựa, âm nhạc, cùng các nghệ thuật khâu thêu, may vá, dệt, quay sợi và thêu thùa.[2] Bà học các ngôn ngữ Romance bán đảo Iberia như tiếng Castilla, tiếng León, tiếng Galicia-Bồ Đào Nhatiếng Catalunya, đồng thời thành thạo tiếng Pháptiếng Latinh. Bà cũng được rèn luyện các hoạt động ngoài trời như săn chim ưng và săn bắn. Juana giỏi khiêu vũ và âm nhạc bà còn chơi được các nhạc cụ như clavichord, guitarmonochord.

Hôn nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1496, khi mới 16 tuổi, Juana đã được hứa hôn với Philipp của Áo, lúc đó 18 tuổi, tại các Vùng đất thấp. Cha mẹ của Philip là Maximilian I, Hoàng đế La Mã Thần thánh, và người vợ đầu tiên của ông, Nữ công tước Mary xứ Burgundy. Cuộc hôn nhân này là một trong những liên minh gia đình giữa nhà Habsburg và nhà Trastámara, nhằm tăng cường sức mạnh cả hai bên trước sự mở rộng quyền lực của Pháp.

Juana đã tiến hành hôn lễ đại diện tại Palacio de los Vivero ở thành phố Valladolid, Castile, nơi cha mẹ bà đã bí mật kết hôn vào năm 1469. Vào tháng 8 năm 1496, Joanna rời cảng Laredo ở phía bắc Castile, trên Vịnh Biscay của Đại Tây Dương. Ngoại trừ năm 1506, khi bà gặp người em gái út Catherine, lúc đó là Công chúa góa phụ xứ Wales, Juana không bao giờ gặp lại các anh chị em còn lại.

Juana bắt đầu hành trình đến Brabant trong Vùng đất thấp, gồm các phần của Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Pháp và Đức ngày nay, vào ngày 22 tháng 8 năm 1496. Cuộc hôn nhân chính thức diễn ra vào 20 tháng 10 năm 1496 tại Lier, phía bắc Brussels hiện nay.

Trong giai đoạn từ 1498 đến 1507, Juana sinh sáu người con, gồm hai trai và bốn gái, tất cả đều lớn lên và trở thành hoàng đế hoặc vương hậu.

Thân vương xứ Asturias

[sửa | sửa mã nguồn]

Nữ vương của toàn Tây Ban Nha

[sửa | sửa mã nguồn]

Lên ngôi

[sửa | sửa mã nguồn]

Cái chết của Philipp

[sửa | sửa mã nguồn]

Ferrando nhiếp chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Con trai đồng vị

[sửa | sửa mã nguồn]

Cái chết

[sửa | sửa mã nguồn]

Hậu duệ

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Ngày sinh và ngày mất Ghi chú
Leonor, Vương hậu Bồ Đào Nha, sau thành Vương hậu Pháp 15 tháng 11 năm 1498
- 25 tháng 2 năm 1558
(59 tuổi)
Kết hôn với Quốc vương Manuel I của Bồ Đào Nha, sau tái hôn với François I của Pháp. Cuộc hôn nhân đầu của bà cho ra hậu duệ.
Carlos V, Hoàng đế La Mã Thần thánh 24 tháng 2 năm 1500
– 21 tháng 9 năm 1558
(58 tuổi)
Kế thừa vị trí Hoàng đế của Thánh chế La Mã từ ông nội, Hoàng đế Maximiliam. Là vị Hoàng đế trứ danh, quân chủ quyền lực nhất Châu Âu đương thời.

Kết hôn với Isabel của Bồ Đào Nha - em họ bên họ ngoại, có hậu duệ là Felipe II của Tây Ban Nha.

Isabel, Vương hậu của Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển 18 tháng 7 năm 1501
- 19 tháng 1 năm 1526
(24 tuổi)
Kết hôn với Quốc vương Christian II của Đan Mạch. Có hậu duệ.
Fernando I, Hoàng đế La Mã Thần thánh 10 tháng 3 năm 1503
- 25 tháng 7 năm 1564
(61 tuổi)
Một nhà quân sự lỗi lạc và hết mực trung thành dưới triều anh trai Karl V, và sau đó ông được anh trai chỉ định kế thừa vị trí Hoàng đế của Thánh chế La Mã.

Kết hôn với Anna của Bohemia và Hungary, có hậu duệ, bao gồm Hoàng đế Maximilian II của đế quốc La Mã Thần thánh.

María, Vương hậu Hungary, sau thành Nữ Thống chế của Hà Lan thuộc Habsburg 15 tháng 9 năm 1505
- 18 tháng 10 năm 1558
(53 tuổi)
Kết hôn với Quốc vương Lajos II của Hungary, không có hậu duệ.

Sau khi Vua Louis II tử trận trong cuộc chiến với Đế quốc Ottoman, Maria trở thành nhiếp chính Hungary, về sau lại trở thành Nữ Thống chế của Hà Lan thuộc Áo.

Catalina, Vương hậu Bồ Đào Nha 14 tháng 1 năm 1507
- 12 tháng 2 năm 1578
(71 tuổi)
Khác với 5 người anh chị khác, Catalina bị giam cùng mẹ mình tại Tordesillas, mãi cho đến khi quá tuổi kết hôn, bà mới được anh trai là Hoàng đế của Thánh chế La Mã, Karl V, chỉ định làm vợ của người em họ là João III của Bồ Đào Nha. Có hậu duệ.

Phả hệ

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Con gái của John xứ Gaunt với người vợ đầu là Blanche xứ Lancaster,[8] điều đó khiến bà là em cùng cha khác mẹ với Catherine của Lancaster. Mẹ của Catherine là Constanza của Castilla.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Fueros, observancias y actos de corte del Reino de Aragón; Santiago Penén y Debesa, Pascual Savall y Dronda, Miguel Clemente (1866) Lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2008 tại Wayback Machine, page 64 Lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2008 tại Wayback Machine
  2. ^ a b c Gelardi, Julia P. (2009). In Triumph's Wake: Royal Mothers, Tragic Daughters, and the Price They Paid for Glory. St. Martin's Griffin.
  3. ^ a b Isabella I, Queen of Spain tại Encyclopædia Britannica (bằng tiếng Anh)
  4. ^ a b c Henry III, King of Castille tại Encyclopædia Britannica (bằng tiếng Anh)
  5. ^ a b Ferdinand I, King of Aragon tại Encyclopædia Britannica (bằng tiếng Anh)
  6. ^ a b Leese, Thelma Anna, Blood royal: issue of the kings and queens of medieval England, 1066–1399, (Heritage Books Inc., 1996), 222.
  7. ^ a b c Sidney Lee, biên tập (1896). "Philippa of Lancaster" . Dictionary of National Biography. Quyển 45. Luân Đôn: Smith, Elder & Co. tr. 167.
  8. ^ Armitage-Smith, Sydney (1905). John of Gaunt: King of Castile and Leon, Duke of Aquitaine and Lancaster, Earl of Derby, Lincoln, and Leicester, Seneschal of England. Charles Scribner's Sons. tr. 77. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  9. ^ a b c Gerli, E. Michael; Armistead, Samuel G. (2003). Medieval Iberia. Taylor & Francis. tr. 182. ISBN 9780415939188. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  10. ^ a b Chisholm, Hugh, biên tập (1911). "Ferdinand V. of Castile and Leon and II. of Aragon" . Encyclopædia Britannica. Quyển 10 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
  11. ^ a b Chisholm, Hugh, biên tập (1911). "John II of Aragon" . Encyclopædia Britannica. Quyển 15 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
  12. ^ a b Miron, E. L. (1913). "Doña Leonor of Alburquerque". The Queens of Aragon: Their Lives and Times. Brentano's. tr. 265. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2018.
  13. ^ a b c d Ortega Gato, Esteban (1999). "Los Enríquez, Almirantes de Castilla" [The Enríquezes, Admirals of Castille] (PDF). Publicaciones de la Institución "Tello Téllez de Meneses" (bằng tiếng Tây Ban Nha). Quyển 70. tr. 42. ISSN 0210-7317.
  14. ^ a b "Mariana de Ayala Córdoba y Toledo". Ducal House of Medinaceli Foundation. Truy cập 21 tháng 8 2018.