Carlos III của Tây Ban Nha

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Carlos III của Tây Ban Nha
Vua Tây Ban Nha
Tại vị10 tháng 8 năm 1759 - 14 tháng 12 năm 1788
29 năm, 126 ngày
Tiền nhiệmFernando VI
Kế nhiệmCarlos IV
Vua của NapoliSicilia
Tại vị15 tháng 5 năm 1734 - 6 tháng 10 năm 1759
Đăng quang3 tháng 7 năm 1735
Tiền nhiệmCarlos VI & IV
Kế nhiệmFerdinand IV & III
Công tước của Parma và Piacenza
Tại vị29 tháng 12 năm 1731 - 3 tháng 10 năm 1735
Tiền nhiệmAntonio Farnese
Kế nhiệmCarlos VI
Thông tin chung
Sinh20 tháng 1 năm 1716
Royal Alcazar of Madrid, Tây Ban Nha
Mất14 tháng 12 năm 1788
Cung điện hoàng gia Madrid, Tây Ban Nha
An tángEl Escorial
Phối ngẫuMaria Amalia của Saxony
Hậu duệMaría Josefa, Vương nữ Tây Ban Nha
María Luisa, Hoàng hậu Thánh chế La Mã
Felipe, Công tước của Calabria
Carlos IV của Tây Ban Nha
Fernando I, Quốc vương Hai Sicilie
Gabriel, Vương tử Tây Ban Nha
Infante Antonio Pascual
Hoàng tộcNhà Borbón
Thân phụFelipe V của Tây Ban Nha
Thân mẫuElisabeth Farnese
Tôn giáoCông giáo La Mã

Carlos III của Tây Ban Nha (Tiếng Anh: Charles III; Tiếng ÝTiếng Napoli: Carlo Sebastiano; Tiếng Sicilia: Carlu Bastianu; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là vua của Vương quốc NapoliVương quốc Sicily (1734 - 1759), sau trở thành vua của Tây Ban Nha (1759 - 1788). Ông là con trai thứ 5 của vua Felipe V của Tây Ban Nha, và là con trai cả của người vợ thứ 2 của Philip V, Hoàng hậu Elisabeth Farnese. Carlos III là người đề xướng chủ nghĩa chuyên chế và vương giả khai sáng, ông kế vị ngai vàng Tây Ban Nha vào ngày 10/08/1759, sau cái chết của người anh cùng cha khác mẹ Ferdinand VI.

Năm 1731, ở tuổi 15, Carlos trở thành Công tước của Parma và Piacenza, với tước hiệu là Carlos I, sau cái chết của người chú Antonio Farnese. Năm 1738, ông kết hôn với Công chúa Maria Amalia của Sachsen, con gái của Augustus III, vua của Ba Lan, Đại công tước của Latvia và Tuyển đế hầu của Saxony, bà là một người phụ nữ có học thức và văn hoá. Hai vợ chồng có 13 người con, 8 trong số đó sống đến tuổi trưởng thành, bao gồm cả Hoàng tử Carlos người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha và Hoàng tử Ferdinando người thừa kế ngai vàng Napoli và Sicilia. Carlos III và Maria Amalia đã cư trú tại Naples trong 19 năm. Ông đã có kinh nghiệm cai trị và tổ chức nhà nước trong 25 năm ở Ý, trong giai đoạn làm vua của Napoli và Sicily, nhờ đó mà khi kế thừa ngai vàng của Đế quốc Tây Ban Nha ông đã thể hiện bản lĩnh của mình rất tốt. Các chính sách của ông áp dụng ở Vương quốc NapoliVương quốc Sicilia đã định hình nên các chính sách mà ông sẽ áp dụng trong suốt 30 năm cai trị Tây Ban Nha.[1]

Với tư cách là vua của Tây Ban Nha, Carlos III đã thực hiện những cải cách sâu rộng để tăng nguồn tài chính cho hoàng gia và chống lại các cuộc xâm lược của các thế lực nước ngoài vào đế chế của mình.[2] Ông tạo điều kiện cho sự phát triển thương mại, hiện đại hoá nông nghiệp và quyền sở hữu đất đai, thúc đẩy khoa học và nghiên cứu khoa học. Ông thực hiện các chính sách hoàng gia để tăng quyền lực của nhà nước thông qua nhà thờ. Trong thời gian trị vì của mình, ông đã trục xuất các tu sĩ Dòng Tên khỏi Đế quốc Tây Ban Nha. Ông tăng cường sức mạnh cho lục quânhải quân Tây Ban Nha. Mặc dù ông không đạt được quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nguồn tài chính của Đế quốc, và đôi khi phải vay nợ để trang trải chi phí, nhưng hầu hết các cải cách của ông đều tỏ ra thành công trong việc tăng doanh thu cho hoàng gia và mở rộng quyền lực nhà nước, để lại một di sản lâu dài.[3]

Trong Đế chế Tây Ban Nha, ông đã ban hành một loạt cải cách sâu rộng với mục đích đưa các lãnh thổ hải ngoại dưới sự kiểm soát chặt chẽ hơn của chính quyền trung ương, đảo ngược xu hướng tự trị địa phương và giành quyền kiểm soát nhiều hơn đối với Giáo hội. Các cuộc cải cách bao gồm việc thành lập hai cơ quan Phó vương quốc mới, phân bổ lại cơ quan hành chính, thành lập quân đội thường trực, thiết lập các công ty độc quyền mới, phục hồi hoạt động khai thác bạc, loại bỏ người Tây Ban Nha gốc Mỹ (criollos) khỏi các cơ quan dân sự và giáo hội, đồng thời loại bỏ nhiều đặc quyền (fueros) của giới tăng lữ.[4] Ông cũng là người thành lập ra Ngân hàng Tây Ban Nha vào năm 1782 và nó tồn tại cho đến nay như là một ngân hàng trung ướng của Tây Ban Nha.

Nhà sử học Stanley Payne viết rằng: "Carlos III có lẽ là người cai trị châu Âu thành công nhất trong thế hệ của ông. Ông ấy đã thể hiện khả năng lãnh đạo vững chắc, nhất quán và thông minh. Ông ấy đã chọn những bộ trưởng có năng lực. Cuộc sống cá nhân của ông ấy đã giành được sự tôn trọng của người dân".[5]

Di sản của Đế quốc Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dung của Elisabeth Farnese

Năm 1714, Hiệp ước Utrecht được ký kết, chính thức chấm dứt Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha (1701 - 1714) và làm giảm sức mạnh chính trị cũng như quân sự của Tây Ban Nha, nơi mà Nhà Bourbon đã cai trị từ năm 1700. Theo các điều khoản của hiệp ước, Đế quốc Tây Ban Nha, vẫn giữ lại các lãnh thổ thuộc địa của mình ở Tân Thế giớiPhilippines, nhưng phải nhượng lại cho Quân chủ Habsburg của Áo lãnh thổ Nam Hà Lan, các Vương quốc NapoliVương quốc Sardegna, Công quốc MilanNhà nước Presidi. Nhà Savoy giành được Vương quốc Sicily, trong khi đó Vương quốc Anh giành được đảo Menorca và pháo đài ở Gibraltar.

Năm 1700, cha của Carlos, ban đầu là Hoàng tử của Pháp thuộc Nhà Bourbon được gọi là Philip của Anjou, trở thành vua của Tây Ban Nha với vương hiệu Philip V. Trong suốt thời gian cai trị của mình từ năm 1700 đến năm 1746, ông đã liên tục cố gắng giành lại các lãnh thổ của Tây Ban Nha bị mất trong Hiệp ước Utrecht. Năm 1714, sau cái chết của người vợ đầu tiên - Công chúa Maria Luisa Gabriella của Savoy, Hồng y Piacenza Guilio Alberoni đã dàn xếp thành công cuộc hôn nhân chóng vánh giữa vua Philip V và Elisabetta Farnese, con gái riêng đồng thời cũng là cháu ruột của Francesco Farnese, Công tước Parma, hai người kết hôn vào ngày 24/12/1714; bà nhanh chóng chứng tỏ quyền lực của mình bằng cách tạo sức ảnh hưởng để vua Philip V bổ nhiệm Hồng y Giulio Alberoni làm thủ tướng Tây Ban Nha vào năm 1715.

Vào ngày 20/01/1716, Elisabeth hạ sinh hoàng tử Carlos III tại Cung điện Hoàng gia Alcazar ở Madrid. Ông là người đứng thứ tư trong hàng kế vị ngai vàng, xếp sau 3 người anh cùng cha khác mẹ: Hoàng tử Louis, Hoàng tử Asturias (người trở thành vua trong một thời gian ngắn với vương hiệu Louis I, qua đời vào năm 1724); Hoàng từ Felipe (mất năm 1719); và Hoàng tử Ferdinand sau trở thành vua Fernando VI.

Bởi vì Công tước Francesco của Parma và người kế vị của ông không có con, Elisabeth đã thuyết phục để đưa con trai của mình là hoàng tử Carlos thế tục làm Công tước xứ Parma và Piacenza, vì tính đến lúc đó ông không có cơ hội trở thành vua của Tây Ban Nha. Elisabeth cũng tìm kiếm cho vị hoàng tử này cơ hội tiếp nhận Đại công quốc Toscana, vì Gian Gastone de' Medici, Đại công tước xứ Toscana (1671 - 1737) cũng không có con. Vị Đại công tước này là anh em họ xa với Elisabeth thông qua bà cố Margherita de' Medici.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Elisabeth bên con trai cả Charles.
Carlos năm 9 tuổi.

Sự ra đời của hoàng tử Carlos đã khuyến khích thủ tướng Alberoni bắt đầu vạch ra những kế hoạch lớn. Năm 1717, ông tư vấn cho nhà vua thực hiện cuộc xâm lược Sardinia và năm 1718 ông lại tiếp tục đưa người Tây Ban Nha xâm lược Sicily, cả 2 lãnh thổ này đều nằm dưới quyền cai trị của Nhà Savoia. Cùng năm đó, em gái đầu tiên của Carlos là Vương nữ Mariana Victoria được sinh ra đời (31/03/1718). Để phản ứng lại Chiến tranh Liên minh bộ tứ, Công tước xứ Savoy sau đó gia nhập Liên minh và gây chiến với Tây Ban Nha. Cuộc chiến này dẫn đến việc vua Felipe V của Tây Ban Nha sa thải Alberoni vào năm 1719. Hiệp ước The Hague (1720) được ký kết, trong đó bao gồm cả điều khoản trao tước hiệu Công tước xứ Parma và Piacenza cho hoàng tử Carlos.

Ngày 29/12/1719, anh trai cùng cha khác mẹ của Carlos là Hoàng tử Philip Peter qua đời, đưa Carlos lên vị trí thứ 3 trong danh sách kế vị ngai vàng Tây Ban Nha, chỉ xếp sau Hoàng tử Louis và Ferdinand. Người em thứ 2 của ông là Hoàng tử Philip, Công tước Parma ra đời ngày ngày 15/03/1720.

Từ năm 1721, Vua Philip V đã đàm phán với Công tước xứ Orléans, nhiếp chính của Vương quốc Pháp để dàn xếp 3 cuộc hôn nhân Pháp - Tây Ban Nha để xoa dịu các mối quan hệ căng thẳng giữa 2 nước. Vua Louis XV của Pháp sẽ kết hôn với Vương nữ Mariana Victoria, và do đó cô ấy sẽ trở thành hoàng hậu Pháp. Anh trai cùng cha khác mẹ của Carlos là Hoàng tử Louis sẽ kết hôn với người con gái thứ tư của nhiếp chính vương là Louise Élisabeth xứ Orléans. Bản thân Carlos sẽ đính hôn với công chúa Philippine Élisabeth d'Orléans, người con gái thứ 5 của Công tước xứ Orléans.

Trong số những cuộc hôn nhân được đề xuất này, chỉ có Louis và Louise Élisabeth là sẽ kết hôn. Elisabeth Farnese đã tìm kiếm những cô con dâu tiềm năng khác cho con trai cả của mình. Vì điều này, bà hướng đến Đại công quốc Áo, đối thủ chính của Tây Ban Nha trên bán đảo Ý. Bà đã đề nghị với Charles VI, Hoàng đế La Mã Thần thánh, rằng Hoàng tử Carlos kết hôn với Nữ Đại vương công Maria Theresia 8 tuổi và người con trai thứ hai của bà, Hoàng tử Philip, kết hôn với Nữ đại vương công Maria Anna, 7 tuổi.

Liên minh Tây Ban Nha và Áo được ký kết vào ngày 30/04/1725 và bao gồm sự ủng hộ của Tây Ban Nha đối với Chính sách Thực dụng, một văn bản do Hoàng đế Charles soạn thảo năm 1713 để đảm bảo sự ủng hộ cho Nữ đại vương công Maria Theresia trong việc kế vị ngai vàng của Nhà Habsburg. Hoàng đế cũng từ bỏ mọi yêu sách đối với ngai vàng Tây Ban Nha và hứa sẽ hỗ trợ Tây Ban Nha trong nỗ lực giành lại Gibraltar. Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1727-1729) sau đó đã ngăn chặn tham vọng của Elisabeth Farnese, và kế hoạch kết hôn bị hủy bỏ với việc ký kết Hiệp ước Seville vào ngày 9/11/1729. Các điều khoản của hiệp ước đã cho phép Hoàng tử Carlos có quyền chiếm Parma, Piacenza, và Tuscany bằng vũ lực nếu cần thiết.

Sau Hiệp ước Seville, Felipe V của Tây Ban Nha đã bỏ qua các điều khoản của nó và thành lập một liên minh với Vương quốc PhápVương quốc Anh. Antonio Farnese, Công tước Parma, qua đời vào ngày 26/02/1731 mà không có người thừa kế. Kết quả là, Hiệp ước Vienna lần thứ hai ký vào ngày 22 tháng 7 năm 1731 chính thức công nhận Hoàng tử Carlos là Công tước của Parma và Piacenza.

Cai trị ở Ý[sửa | sửa mã nguồn]

Đến Ý[sửa | sửa mã nguồn]

Dorothea Sophie của Neuburg, mẹ của Elisabeth Farnese và là người giám hộ của Carlos và nhiếp chính của Parma

Sau một buổi lễ long trọng ở Seville, Carlos được cha mình trao cho épée d'or ("thanh kiếm vàng"); thanh kiếm đã được ông cố của ông là Vua Louis XIV của Pháp trao cho cha ông là Philip xứ Anjou trước khi cha của ông khởi hành đến Tây Ban Nha vào năm 1700 để tiếp nhận ngai vàng và trở thành Felipe V của Tây Ban Nha.

Carlos rời Tây Ban Nha vào ngày 20/10/1731 và đi bằng đường bộ đến Antibes, Vương quốc Pháp; sau đó ông đi thuyền đến Toscana, và đến Livorno vào ngày 27/12/1731. Anh họ của ông Gian Gastone de' Medici, Đại công tước xứ Toscana, được chỉ định là đồng gia sư của ông và mặc dù Carlos chỉ được xếp thứ 2 trong danh sách kế vị Đại công quốc Toscana, Đại công tước vẫn ban cho ông một lễ chào đón nồng nhiệt. Trên đường đến Florence từ Pisa, Carlos bị ốm vì bệnh đậu mùa.[6] Carlos đã đến thủ đô Florence vào ngày 9/03/1732 với một đoàn tùy tùng 250 người. Ông ở với hoàng tộc Medici tại dinh thự của công tước, Palazzo Pitti.[6]

Gian Gastone đã tổ chức một buổi dạ tiệc để vinh danh vị Thánh bảo trợ của Florence, Thánh Gioan Baotixita, vào ngày 24/06. Tại lễ hội này, Gian Gastone đã tuyên bố Carlos là người thừa kế của mình, phong cho ông tước hiệu "Đại công tử cha truyền con nối" của Đại công quốc Toscana, và Carlos đã tỏ lòng tôn kính với viện nguyên lão Florence, cũng như truyền thống dành cho những người thừa kế ngai vàng Toscana. Khi Hoàng đế Karl VI của Thánh chế La Mã nghe về buổi lễ, ông đã rất tức giận vì Gian Gastone đã không thông báo cho ông, vì ông là lãnh chúa của Toscana và việc đề cử lẽ ra là đặc quyền của ông. Bất chấp những lễ kỷ niệm, Elisabeth Farnese vẫn thúc giục con trai mình tiếp tục đến Parma, Carlos đã thực hiện hành trình nào vào tháng 10/1732, nơi anh được chào đón nồng nhiệt. Trên mặt trước của cung điện công tước ở Parma được viết Parma Resurget (Parma sẽ sống lại). Cùng lúc đó, vở kịch La Venuta di Ascanio ở Italia được dựng bởi Carlo Innocenzo Frugoni. Sau đó nó được biểu diễn tại Nhà hát Farnese trong thành phố.[7][8]

Chinh phục Napoli và Sicilia[sửa | sửa mã nguồn]

Carlos của Bourbon gần Naples (1734)

Năm 1733, cái chết của Augustus II, Vua của Ba Lan, đã gây ra một cuộc khủng hoảng kế vị ở Ba Lan. Vương quốc Pháp ủng hộ một kẻ giả danh, Đại công quốc ÁoĐế quốc Nga ủng hộ một kẻ khác. Pháp và Nhà Savoy thành lập liên minh để giành lãnh thổ từ Áo. Đế quốc Tây Ban Nha, quốc gia đã liên minh với Pháp vào cuối năm 1733 (Hiệp ước Bourbon), cũng tham gia vào cuộc xung đột. Mẹ của Carlos, với tư cách là người nhiếp chính, đã nhìn thấy cơ hội giành lại Vương quốc NapoliVương quốc Sicilia, mà Tây Ban Nha đã mất trong Hiệp ước Utrecht.

Vào ngày 20/01/1734, Carlos lúc này 18 tuổi, đã đạt được đa số thành tựu quyền lực, và "được tự do điều hành và quản lý theo cách thức độc lập với các nhà nước của mình".[9] Ông cũng được chỉ định là chỉ huy của quân đội Tây Ban Nha ở Ý, một vị trí mà ông chia sẻ với Công tước Montemar. Vào ngày 27/02, Vua Philip của Tây Ban Nha tuyên bố ý định đánh chiếm Vương quốc Napoli, ông nói rằng sẽ giải phóng vùng đất này khỏi "bạo lực quá mức của Phó vương Napoli, sự áp bức và chuyên chế của Đại công quốc Áo".[10] Carlos, lúc bấy giờ đã tiếp nhận ngai vàng của Parma với tước hiệu là "Carlos I của Parma", sẽ phụ trách việc chinh phạt. Carlos duyệt binh đội quân Tây Ban Nha tại Perugia, và hành quân về phía Naples vào ngày 5/03. Quân đội của ông đi qua Lãnh địa Giáo hoàng, được cai trị bởi Giáo hoàng Clêmentê XII.[9]

Người Áo, đã chiến đấu với quân đội Pháp và Savoyard để giữ lại Lombardy, chỉ có nguồn lực hạn chế cho việc phòng thủ Naples để chống lại người Tây Ban Nha. Hoàng đế muốn giữ Naples, nhưng hầu hết giới quý tộc Napoli đều chống lại ông, và một số âm mưu chống lại phó vương của ông. Họ hy vọng rằng Philip sẽ trao vương quốc cho Hoàng tử Carlos, người sẽ có nhiều khả năng sống và cai trị ở đó hơn là có một phó vương và phục vụ một thế lực ngoại bang. Vào ngày 9/03, người Tây Ban Nha chiếm ProcidaIschia, hai hòn đảo trong Vịnh Naples. Một tuần sau, họ đánh bại quân Áo trên biển. Vào ngày 31/03, quân đội của ông đánh quân Áo ở Naples. Người Tây Ban Nha đã đánh úp vào vị trí phòng thủ của quân Áo dưới sự chỉ huy của Tướng Traun và buộc họ phải rút về Capua. Điều này cho phép Carlos và quân của ông tiến vào thành phố Napoli.

Phó vương người Áo, Giulio Borromeo Visconti, và chỉ huy quân đội của ông, Giovanni Carafa, đã bỏ lại một số đơn vị đồn trú giữ các pháo đài của thành phố và rút về Apulia. Ở đó, họ chờ đợi quân tiếp viện để phản công quân Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha tiến vào Napoli và vây hãm các pháo đài do Áo trấn giữ. Trong khoảng thời gian đó, Carlos đã nhận được những lời khen ngợi của giới quý tộc địa phương, chìa khóa thành phố và cuốn sổ đặc quyền từ một phái đoàn gồm các quan chức được bầu của thành phố.[11]

Người Tây Ban Nha chiếm Lâu đài Carmine vào ngày 10/04; Castel Sant'Elmo thất thủ vào ngày 27/04; Castel dell' Ovo vào 04/05 và cuối cùng là Lâu đài Mới vào ngày 6/05. Tất cả những chiến thắng này đến với quân Tây Ban Nha ngay cả khi Carlos không có kinh nghiệm quân sự, hiếm khi mặc quân phục, và chỉ có thể bị thuyết phục một cách khó khăn để chứng kiến một cuộc duyệt binh.

Được công nhận là vua của Napoli và Sicilia 1734-1735[sửa | sửa mã nguồn]

Carlos đã toàn thắng và tiến vô Napoli vào ngày 10/05/1734, qua cổng thành cũ ở Capuana được bao quanh bởi các ủy viên hội đồng thành phố, cùng với một nhóm người ném tiền cho dân địa phương. Cuộc rước tiếp tục đi qua các đường phố và kết thúc tại Nhà thờ Napoli, nơi Carlos nhận được lời chúc phúc từ Tổng giám mục địa phương, Hồng y Pignatelli. Carlos đến cư trú tại Cung điện Hoàng gia Napoli, được xây dựng bởi tổ tiên của ông, Felipe III của Tây Ban Nha.

Hai nhà biên niên sử thời đại, Florentine Bartolomeo Intrieri, và Venetian Cesare Vignola đã đưa ra những báo cáo trái ngược nhau về quan điểm của người dân Napoli. Intrieri viết rằng sự xuất hiện là một sự kiện lịch sử và đám đông đã hét lên rằng "Ngài thật đẹp, khuôn mặt của ngài giống như khuôn mặt của San Gennaro".[12] Ngược lại, Vignola viết rằng "chỉ có một số lời tung hô", và đám đông vỗ tay tán thưởng với "rất nhiều người uể oải".[13]

Tuy nhiên, sự kháng cự của quân Áo vẫn chưa bị loại bỏ hoàn toàn. Hoàng đế đã gửi quân tiếp viện đến Naples dưới sự chỉ đạo của Thân vương xứ Belmonte, đến Bitonto.

Quân đội Tây Ban Nha do Bá tước Montemar chỉ huy tấn công quân Áo vào ngày 25/05/1734 tại Bitonto, và giành được chiến thắng quyết định. Belmonte bị bắt sau khi chạy trốn đến Bari, trong khi đó số quân Áo còn lại có thể chạy thoát ra biển. Để ăn mừng chiến thắng, Naples được chiếu sáng trong ba đêm, và vào ngày 30/05, Công tước Montemar, chỉ huy quân đội của Carlos, được phong là Công tước xứ Bitonto.[14] Ngày nay có một đài tưởng niệm ở thành phố Bitonto để kỷ niệm trận chiến.

Sau sự thất thủ của Reggio Calabria vào ngày 20/06, Carlos cũng chinh phục các thị trấn L'Aquila (27/06) và Pescara (28/07). Hai pháo đài cuối cùng của Áo là GaetaCapua. Cuộc vây hãm Gaeta, mà Carlos đã thực hiện, kết thúc vào ngày 6/08. Ba tuần sau, Công tước Montemar rời Bán đảo Ý đến Đảo Sicily, họ đến Palermo vào ngày 2/09/1734, bắt đầu cuộc chinh phục các pháo đài do Áo nắm giữ trên đảo kết thúc vào đầu năm 1735. Capua, thành trì duy nhất còn sót lại của Áo ở Naples, do von Traun nắm giữ cho đến ngày 24/11/1734.

Năm 1735, theo hiệp ước kết thúc chiến tranh, Carlos chính thức nhượng Công quốc Parma cho Hoàng đế La Mã Thần thánh Charles VI để đổi lấy việc ông được công nhận là Vua của Naples và Sicily.

Xung đột với Tòa Thánh[sửa | sửa mã nguồn]

Bernardo Tanucci, người đã hỗ trợ Carlos trong cuộc xung đột với Tòa thánh

Trong những năm đầu trị vì của Carlos, tòa án Nepoli đã tranh chấp với Tòa thánh về quyền tài phán, bổ nhiệm thư ký và doanh thu. Vương quốc Napoli là một thái ấp cổ xưa của Lãnh địa Giáo hoàng. Vì lý do này, Giáo hoàng Clêmentê XII coi mình là người duy nhất có quyền hành lên các địa vị của lãnh thổ này, và vì vậy ông không công nhận Carlos của Bourbon là một vị vua hợp pháp. Thông qua sứ thần Tòa thánh, Giáo hoàng cho Carlos biết rằng ông không công nhận sự đề cử của Vua Tây Ban Nha cho ngai vàng Naples. Đáp lại, một ủy ban do luật sư người Tuscan Bernardo Tanucci đứng đầu ở Naples đã kết luận rằng việc tôn phong Giáo hoàng là không cần thiết vì việc lên ngôi của một vị vua không thể được coi là một bí tích.[15]

Tình hình trở nên tồi tệ hơn vào năm 1735, chỉ vài ngày trước khi Carlos đăng quang, Giáo hoàng đã chọn chấp thuận nhận ngựa Hackney theo nghi lễ truyền thống từ Hoàng đế La Mã Thần thánh thay vì từ Carlos. Hackney là một con ngựa cái trắng kèm theo một số tiền mà Vua của Naples sẽ dâng lên Giáo hoàng như một sự tôn kính phong kiến vào ngày 29/06 hàng năm, vào lễ các Thánh Peter và Paul. Lý do của hành động này từ Giáo hoàng là vì Carlos vẫn chưa được công nhận là người cai trị Vương quốc Naples bằng một hoà ước, và vì vậy Hoàng đế Thánh chế La Mã vẫn được coi là Vua hợp pháp của Naples. Nhận được Hackney từ Đế chế La Mã Thần thánh là điều bình thường trong khi nhận nó từ Bourbon là điều bất thường. Do đó, Đức Giáo hoàng coi lựa chọn đầu tiên là một cử chỉ ít nguy hiểm hơn, và khi làm như vậy đã kích động sự phẫn nộ của Tây Ban Nha.

Trong khi đó, Carlos đã đến Sicily. Mặc dù cuộc chinh phục hòn đảo của Bourbon chưa hoàn thành, ông đã lên ngôi Vua của Vương quốc Hai Sicilia (utriusque Siciliae rex) vào ngày 3/07 tại Nhà thờ cổ Palermo, sau khi du hành đường bộ đến Palmi, và bằng đường biển từ Palmi đến Palermo. Lễ đăng quang đã bỏ qua thẩm quyền của Giáo hoàng nhờ quyền tông đồ của Sicily, một đặc quyền thời Trung cổ đảm bảo cho hòn đảo này một quyền tự trị pháp lý đặc biệt khỏi Giáo hội Công giáo.[16]

Vào tháng 3/1735, một mối bất hòa mới đã xảy ra giữa Lãnh địa Giáo hoàng và Naples. Tại Rome, người ta phát hiện ra rằng Nhà Bourbon đã giam giữ các công dân La Mã trong tầng hầm của Palazzo Farnese, vốn là tài sản cá nhân của Vua Carlos. Hàng ngàn cư dân ở thị trấn Trastevere đã xông vào cung điện để giải phóng họ. Cuộc bạo loạn sau đó biến thành cướp bóc. Tiếp theo, đám đông hướng về đại sứ quán Tây Ban Nha ở Piazza di Spagna. Trong các cuộc đụng độ sau đó, một số binh sĩ Bourbon đã thiệt mạng, trong đó có một sĩ quan. Những xáo trộn lan đến thị trấn Velletri, nơi dân cư tấn công quân Tây Ban Nha trên đường tới Naples.

Sự kiện này bị coi là một sự sỉ nhục nghiêm trọng đối với người Nhà Bourbon. Do đó, các đại sứ Tây Ban Nha và Naples đã rời khỏi Rome, thủ đô của Lãnh địa Giáo hoàng, trong khi đó các sứ thần của Tòa thánh bị trục xuất khỏi MadridNapoli. Các trung đoàn của quân đội Bourbon tiến vào Lãnh địa Giáo hoàng. Mối đe dọa đến mức một số cổng thành của Rome đã bị đóng chặt và lực lượng bảo vệ dân sự được tăng gấp đôi. Velletri bị chiếm đóng và buộc phải trả 8.000 crown, trong khi Palestrina tránh được số phận tương tự bằng cách trả khoản tiền chuộc 16.000 crown.

Uỷ bản của các Hồng y đã cử ra một phái đoàn đến Napoli để tiến hành đền bù các thiệt hại trước đó. Những kẻ bạo loạn bị phạt tù, nhưng chỉ ngồi vài ngày thì được nhà vua ân xá.[16] Ngay sau đó, vua Naples đã tìm cách hàn gắn với Giáo hoàng bằng những cuộc đàm phán, thông qua sự trung gian của đại sứ Naples ở Rome, Hồng y Acquaviva, Tổng giám mục Giuseppe Spinelli và Tuyên úy Celestino Galiani. Thỏa thuận đạt được vào ngày 12/05/1738.

Sau cái chết của Giáo hoàng Clement vào năm 1740, ông được thay thế bởi Giáo hoàng Benedict XIV, một năm sau đó, vị giáo hoàng mới này đã cho phép thành lập một hiệp ước với Vương quốc Naples. Điều này cho phép đánh thuế một số tài sản nhất định của các giáo sĩ, giảm số lượng giáo hội và hạn chế quyền miễn trừ và quyền tự chủ về công lý của họ thông qua việc thành lập một tòa án hỗn hợp.[17]

Lựa chọn vương hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Carlos/Charles là vị vua thứ 7 trong danh sách tên gọi của những nhà cai trị Naples, nhưng ông chưa bao giờ tự phong cho mình là Carlos VII. Ông được biết đến với cái tên đơn giản là Carlos của Bourbon (tiếng Ý: Carlo di Borbone). Điều này nhằm mục đích nhấn mạnh rằng ông là vị vua đầu tiên của Naples sống ở đó, và đánh dấu sự không đồng điệu giữa ông và những người cai trị trước đó có cùng vương hiệu là Carlos/Charlse, cụ thể là người tiền nhiệm của ông, Habsburg Charles VI.

Ở Sicilia, ông được gọi là Carlos III của Sicilia và Jerusalem, sử dụng số "III" thay vì "V" vì người dân Sicily không công nhận Charles I xứ Anjou (Charles d'Anjou) là vua của mình (họ nổi dậy chống lại ông), cũng như Hoàng đế Charles của Thánh chế La Mã, người mà họ cũng không ưa.

Hoà ước với Áo[sửa | sửa mã nguồn]

Charles VI, Hoàng đế La Mã Thần thánh, người mà Carlos thường xuyên xung đột

Hòa ước sơ bộ với Áo được ký kết vào ngày 3/10/1735. Tuy nhiên, hòa ước vẫn chưa được hoàn tất cho đến 3 năm sau với Hiệp ước Viên (1738), kết thúc Chiến tranh Kế vị Ba Lan.

Naples và Sicily được Áo nhượng lại cho Carlos, người đã từ bỏ Công quốc ParmaĐại công quốc Toscana để đổi lại. (Carlos đã thừa kế Toscana vào năm 1737 sau cái chết của Gian Gastone). Toscana được chuyển cho con rể của Hoàng đế Charles VIFrancis Stephen, để đền bù cho việc nhường Công quốc Lorraine cho Vua Ba Lan bị phế truất Stanislaus I.

Vợ của Charles Công chúa Maria Amalia xứ Sachsen, người mà ông kết hôn năm 1738, mặc trang phục Ba Lan, vẽ bởi Louis Silvestre

Hiệp ước bao gồm việc chuyển giao cho Naples tất cả các tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà Farnese trước kia. Carlos đã mang theo bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật, các tài liệu lưu trữ và thư viện của công tước, các khẩu pháo của pháo đài, và thậm chí cả cầu thang bằng đá cẩm thạch của cung điện.[18]

Chiến tranh kế vị Áo[sửa | sửa mã nguồn]

Hòa ước giữa Carlos và Đại công quốc Áo được ký kết tại Vienna vào năm 1740. Cũng trong năm đó, Hoàng đế Charles qua đời để lại Vương quốc Bohemia và Hungary (cùng với nhiều vùng đất khác thuộc Quân chủ Habsburg) cho con gái là Maria Theresia; ông đã hy vọng nhiều bên ký kết Lệnh trừng phạt thực dụng sẽ không can thiệp vào sự kế vị này. Tuy nhiên, không phải vậy, và Chiến tranh Kế vị Áo đã nổ ra. Vương quốc Pháp liên minh với Tây Ban NhaVương quốc Phổ, tất cả đều chống lại Maria Theresia. Maria Theresia được sự ủng hộ của Vương quốc Anh, lúc bấy giờ được cai trị bởi Vua George II, và Vương quốc Sardegna, dưới quyền cai trị của Charles Emmanuel III.

Carlos đã muốn giữ trung lập trong cuộc xung đột, nhưng cha của ông muốn ông tham gia và tập hợp quân đội để hỗ trợ người Pháp. Carlos đã bố trí 10.000 binh sĩ Tây Ban Nha được cử đến Ý dưới sự chỉ huy của Công tước Castropignano, nhưng họ buộc phải rút lui khi một đội Hải quân Hoàng gia Anh dưới sự chỉ huy của William Martin đe dọa sẽ bắn phá Napoli nếu họ không đứng ngoài cuộc xung đột.[19]

Quyết định giữ quyền trung lập của Naples không được người Pháp và cha ông ở Tây Ban Nha đồng ý. Bố mẹ ông đã khuyến khích ông nắm lấy cơ hội giúp em trai của ông là Infante Felipe chiếm lấy Công quốc Parma từ tay người Áo. Sau khi trấn an thần dân của mình vào ngày 25/03/1744 bằng một tuyên bố, Carlos đã chỉ huy một đội quân chống lại quân đội Áo của hoàng tử Lobkowitz, lúc đó đang hành quân tới biên giới Naples.

Để chống lại đảng thân Áo nhỏ bé nhưng mạnh mẽ ở Naples, một hội đồng mới đã được thành lập dưới sự chỉ đạo của Tanucci dẫn đến việc bắt giữ hơn 800 người. Vào tháng 4, Maria Theresia của Áo đã nói với người Naples rằng bà hứa sẽ ân xá và những lợi ích khác cho những người chống lại "kẻ soán ngôi" - ám chỉ người Nhà Bourbon.[20]

Sự tham gia của Naples và Sicily trong cuộc xung đột dẫn đến trận chiến quyết định tại Velletri vào ngày 11/08, nơi quân đội Naples do Charles và Công tước Castropignano chỉ đạo, và quân đội Tây Ban Nha dưới quyền Bá tước Pledges, đã đánh bại quân Áo của Hoàng tử Lobkowitz, với những tổn thất nặng nề. Sự can đảm của Carlos đã khiến Vua xứ Sardinia, kẻ thù của ông, viết rằng "anh ta bộc lộ sự kiên định, xứng đáng với dòng máu của mình và anh ta đã cư xử một cách vinh quang".[21]

Chiến thắng tại Velletri đảm bảo Carlos có quyền trao tước hiệu Công tước của Parma cho em trai mình là Infante Felipe. Điều này đã được công nhận trong Hiệp ước Aix-la-Chapelle ký năm 1748; phải đến năm sau, Infante Felipe mới chính thức trở thành Công tước của Parma, Piacenza và Guastalla.

Tác động của chế độ cai trị ở Napoli và Sicilia[sửa | sửa mã nguồn]

Vua Carlos VII của Naples được vẽ bởi Camillo Paderni, năm 1757

Carlos đã để lại một di sản lâu dài cho Vương quốc Naples và Sicilia thông qua các cuộc cải cách. Tại Naples, Carlos bắt đầu cải cách nội bộ mà sau này ông cũng thực hiện ở Tây Ban Nha và trên toàn Đế chế khi ông được kế vị ngai vàng Tây Ban Nha. Thủ tướng Naples là Bernardo Tanucci, người này đã ảnh hưởng rất lớn đến Carlos. Tanucci đã tìm cách hạn chế đáng kể các đặc quyền của Nhà thờ và giới tăng lữ, những người có tài sản khổng lồ được miễn thuế. Vương quốc của Carlos về mặt tài chính là một nền kinh tế nông nghiệp trì trệ và lạc hậu, với 80% đất đai thuộc sở hữu hoặc kiểm soát bởi Nhà thờ. Các chủ đất thường đăng ký tài sản của họ với Nhà thờ để được hưởng lợi từ việc miễn thuế. Những người thuê đất ở nông thôn chịu sự kiểm soát của chủ đất hơn là quyền tài phán của hoàng gia.[22]

Carlos khuyến khích sự phát triển của các thợ thủ công lành nghề ở Naples và Sicily, sau nhiều thế kỷ bị ngoại bang đô hộ. Carlos được công nhận vì đã tái tạo "quốc gia Neapolitan", xây dựng một vương quốc độc lập và có chủ quyền.[23] Ông cũng tiến hành các cải cách mang tính hành chính, xã hội hơn.

Carlos là vị vua được người Naples yêu thích nhất so với các vị vua trước đó. Ông rất ủng hộ nhu cầu của người dân, không phân biệt giai cấp, và đã được ca ngợi [24] như một vị vua Khai sáng. Trong số các sáng kiến nhằm đưa vương quốc ra khỏi điều kiện kinh tế khó khăn, Carlos đã thành lập "hội đồng thương mại" để đàm phán với người Ottoman, Thụy Điển, PhápHà Lan. Ông cũng thành lập một công ty bảo hiểm và thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, đồng thời cố gắng bắt đầu khai thác tài nguyên thiên nhiên.

Cung điện Caserta
Cung điện Hoàng gia Napoli

Vào ngày 3/02/1740, Vua Carlos đã ban hành một tuyên ngôn gồm 37 đoạn, trong đó người Do Thái chính thức được mời quay trở lại Sicily, nơi họ đã bị trục xuất bằng bạo lực vào năm 1492. Động thái này có một chút hiệu quả trên thực tế: một số người Do Thái đã đến Sicily, dù không có trở ngại pháp lý nào đối với cuộc sống của họ ở đó, nhưng họ cảm thấy không an toàn, và đã sớm quay trở lại Đế quốc Ottoman. Bất chấp thiện chí của Nhà vua, cộng đồng người Do Thái ở Sicily vốn phát triển mạnh mẽ ở Trung Đông đã không được tái lập. Tuy nhiên, đây là một cử chỉ mang tính biểu tượng quan trọng, Nhà vua rõ ràng đã bác bỏ chính sách tôn giáo không khoan dung trong quá khứ. Hơn nữa, việc trục xuất người Do Thái khỏi Sicily là một sự áp dụng của Nghị định Alhambra của Tây Ban Nha - sẽ bị bãi bỏ ở chính Tây Ban Nha sau đó.

Vương quốc Naples vẫn trung lập trong Chiến tranh Bảy năm (1756–1763). Thủ tướng Anh, William Pitt muốn thành lập một liên minh trên Bán đảo Ý, nơi Naples và Sardinia sẽ cùng nhau chiến đấu chống lại Áo, nhưng Carlos từ chối tham gia. Sự lựa chọn này đã bị chỉ trích gay gắt bởi Đại sứ Naples tại Turin, Domenico Caraccioli.

Với Cộng hòa Genova, mối quan hệ đang căng thẳng: Pasquale Paoli, tướng của quân nổi dậy ủng hộ độc lập của Đảo Corsica, là một sĩ quan của quân đội Neapoli và người Genova nghi ngờ rằng ông đã nhận được sự trợ giúp của vương quốc Naples.

Carlos đã cho xây dựng một bộ sưu tập các cung điện trong và xung quanh kinh đô Napoli. Ông rất ngưỡng mộ Cung điện VersaillesCung điện Hoàng gia MadridTây Ban Nha (sau này được mô phỏng theo chính Versailles). Ông đảm nhận giám sát việc xây dựng một trong những cung điện xa hoa nhất Châu Âu, Đại cung điện hoàng gia Caserta (Reggia di Caserta). Ý tưởng xây dựng cung điện tuyệt đẹp bắt đầu vào năm 1751 khi ông 35 tuổi. Địa điểm này trước đây từng là một nhà nghỉ săn bắn nhỏ, cũng như Versailles, nơi mà ông thích vì nó khiến ông nhớ đến Real Sitio de San Ildefonso, nơi có Cung điện Hoàng gia La Granja de San IldefonsoTây Ban Nha. Caserta cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi vợ ông, Maria Amalia của Sachsen. Địa điểm của cung điện cũng cách xa ngọn núi lửa lớn Vesuvius, là mối đe dọa thường xuyên đối với thủ đô. Chính Carlos đã đặt viên đá nền tảng của cung điện lần sinh nhất thứ 36 của ông, ngày 20/01/1752. Các công trình khác mà ông đã xây dựng trong vương quốc của mình là Cung điện Portici (Reggia di Portici), Teatro di San Carlo — được xây dựng chỉ trong năm 270 ngày — và Cung điện Capodimonte (Reggia di Capodimonte); ông cũng đã cải tạo Cung điện Hoàng gia Napoli. Ông và vợ đã xây dựng Nhà máy sứ Capodimonte tại thành phố. Ông cũng thành lập Học viện Ercolanesi và Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Napoli, vẫn hoạt động cho đến ngày nay.

Trong thời kỳ cai trị của Carlos, các thành phố La Mã cổ đại Herculaneum (1738), StabiaePompeii (1748) đã được tái khám phá. Nhà vua khuyến khích việc khai quật các di chỉ này và tiếp tục được thông báo về những phát hiện ngay cả khi ông đã chuyển đến Tây Ban Nha. Camillo Paderni, người phụ trách các đồ vật được khai quật tại Cung điện Nhà vua ở Portici cũng là người đầu tiên cố gắng đọc các cuộn giấy thu được từ Villa of the Papyri ở Herculaneum.[25]

Sau khi Carlos khởi hành đến Tây Ban Nha, Thủ tướng Tanucci chủ trì Hội đồng Nhiếp chính cai trị cho đến khi Hoàng tử Ferdinand 16 tuổi.

Vua Tây Ban Nha (1759 - 1788)[sửa | sửa mã nguồn]

Xu bạc: 8 real của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha, đúc năm 1778 với chân dung của vua Carlos III ở mặt trước

Carlos trên thực tế không thể nào lên ngôi ở Tây Ban Nha, vì cha của ông đã có 3 con trai với người vợ trước. Tuy nhiên chính sự tham vọng quyền lực của mẹ ông, Carlos đã trở thành vua của vương quốc lớn nhất trên Bán đảo Ý là Naples và Sicily, trong quá trình cai trị ở đây, ông đã thu được rất nhiều kinh nghiệm, chính điều này đã giúp ông rất nhiều khi kế thừa ngai vàng của Đế quốc Tây Ban Nha vào năm 1759, sau cái chết của người anh cùng cha khác mẹ Vua Fernando VI.

Lên ngôi vua Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối năm 1758, anh trai cùng cha khác mẹ của Carlos là Vua Ferdinand VI có các triệu chứng trầm cảm giống như cha của họ từng mắc phải. Ferdinand mất đi người vợ tận tụy, Barbara của Bồ Đào Nha, vào tháng 8 năm 1758, và nhà vua vô cùng thương tiếc bà. Ferrdinand đã xuống chiếu chỉ để cho người em khác mẹ là Carlos trở thành thừa kế của mình vào ngày 10 tháng 12 năm 1758, trước khi rời Madrid để ở lại Villaviciosa de Odón, nơi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm 1759.

Vào thời điểm đó, Carlos được tuyên bố là Vua của Tây Ban Nha dưới đế hiệu Carlos III của Tây Ban Nha. Ông đã phải từ bỏ các tước hiệu ở Vương quốc Napolia và Sicilia để lên ngôi vua Tây Ban Nha.

Tiếp tục kết nối với Ý[sửa | sửa mã nguồn]

Carlos khởi hành từ Napoli, 1759 để về Tây Ban Nha

Carlos sau đó được trao tước hiệu Lãnh chúa xứ Hai Sicilia. Hiệp ước Aix-la-Chapelle, mà Carlos đặt bụt phê chuẩn, đã cho mọi người thấy trước khả năng ông sẽ trở về trị vì Tây Ban Nha; do đó, Napoli và Sicily sẽ thuộc về em trai của ông là Philip, Công tước xứ Parma, trong khi tài sản của người sau này được chia cho Maria Theresa (Parma và Guastalla) và Vua của Sardinia (Plaisance).

Quyết tâm duy trì sự nắm giữ của con cháu mình trong triều đình Napoli, Carlos đã tiến hành các cuộc đàm phán ngoại giao kéo dài với Maria Theresa, và vào năm 1758, hai người đã ký Hiệp ước Versailles lần thứ tư, theo đó Áo chính thức từ bỏ các Công quốc Ý. Tuy nhiên, Charles Emmanuel III của Sardinia tiếp tục gây áp lực về khả năng giành cho bằng được Plaisance và thậm chí còn đe dọa chiếm đóng nó.

Để bảo vệ Công quốc Parma khỏi các mối đe dọa của Charles Emmanuel, Carlos đã triển khai quân đội ở biên giới của Lãnh địa Giáo hoàng. Nhờ sự trung gian của Louis XV của Pháp, Charles Emmanuel đã từ bỏ yêu sách của mình đối với Plaisance để đổi lấy khoản bồi thường tài chính. Do đó, Carlos đảm bảo quyền kế vị của một trong những người con trai của mình, đồng thời làm giảm bớt tham vọng của Charles Emmanuel. Theo Domenico Caracciolo, đây là "đòn chí mạng giáng vào hy vọng và kế hoạch của vua Sardinia".[26]

Con trai cả của Carlos là Hoàng tử Philip, Công tước xứ Calabria, gặp khó khăn trong học tập và do đó bị loại khỏi hàng kế vị bất kỳ ngai vàng nào; ông qua đời ở Portici, nơi ông sinh ra, vào năm 1747. Tước hiệu Thân vương xứ Asturias được trao cho người con thứ hai là Hoàng tử Carlos. Quyền kế vị Napoli và Sicily được dành cho con trai thứ ba của ông, Hoàng tử Ferdinand; ông ấy sẽ ở lại Ý trong khi cha mẹ và các anh em trở về Tây Ban Nha. Carlos chính thức thoái vị khỏi ngai vàng Napoli và Sicily vào ngày 6 tháng 10 năm 1759 để ủng hộ con trai Ferdinand nên ngôi. Carlos để lại việc giáo dục và chăm sóc con trai mình cho một hội đồng nhiếp chính bao gồm 8 thành viên, hội đồng này sẽ cai trị vương quốc cho đến khi vị vua trẻ được 16 tuổi. Carlos và vợ đến Barcelona vào ngày 7 tháng 10 năm 1759.

Cai trị Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Xung đột quân sự[sửa | sửa mã nguồn]

Các chính sách chính trị trong nước[sửa | sửa mã nguồn]

Cai trị Đế chế Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Tập trung hóa quy tắc và tăng doanh thu[sửa | sửa mã nguồn]

Trục xuất các tu sĩ Dòng Tên, 1767[sửa | sửa mã nguồn]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Sinh Mất Chú thích
Công chúa Maria Isabel Antonietta de Padua Francisca Januaria Francisca de Paula Juana Nepomucena Josefina Onesifora của Naples và Sicily Cung điện Portici, Portici, Modern Italy, 6 tháng 9 năm 1740 Naples, ngày 2 tháng 11 năm 1742 chết trẻ.
Công chúa Maria Josefa Antonietta của Tây Ban Nha của Naples và Sicily Cung điện Portici, 20 tháng 1 năm 1742 Naples, 1 tháng 4 năm 1742 Chết trẻ.
Công chúa María Isabel Ana của Naples và Sicily Cung điện Capodimonte, 30 tháng 4 năm 1743 Cung điện Capodimonte, 5 tháng 3 năm 1749 chết trẻ.
Công chúa María Josefa Carmela của Naples và Sicily Gaeta, Italy 6 tháng 7 năm 1744 Madrid, 8 tháng 12 năm 1801 Chưa kết hôn
Công chúa Maria Luisa của Naples và Sicily Cung điện Portici, 24 tháng 11 năm 1745 Cung điện Hoàng gia Hofburg, Vienna, 15 tháng 5 năm 1792 Kết hôn với Leopold II của Thánh chế La Mã năm 1765 và có hậu duệ.
Hoàng tử Felipe Antonio Genaro Pasquale Francesco de Paula của Naples và Sicily Cung điện Portici, 13 tháng 6 naqwm 1747 Cung điện Portici, 19 tháng 12 năm 1777 Công tước xứ Calabria; Bị loại khỏi quyền kế vị ngai vàng
Hoàng tử Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno Jose Januario Serafin Diego của Naples và Sicily Cung điện Portici, 11 tháng 11 năm 1748 Palazzo Barberini, Rome, 19 tháng 1 năm 1819 Tương lai là Vua Carlos IV của Tây Ban Nha; kết hôn với Công chúa Maria Luisa của Parma và để lại hậu duệ.
Công chúa Maria Teresa Antonieta Francisca Javier Francisca de Paula Serafina của Naples và Sicily Cung điện Hoàng gia Naples, 2 tháng 12 năm 1749 Cung điện Portici, 2 tháng 5 năm 1750 Chết trẻ.
Hoàng tử Ferdinando Antonio Pasquale Giovanni Nepomuceno Serafino Gennaro Benedetto của Naples và Sicily Naples, 12 tháng 1 năm 1751 Naples, 4 tháng 1 năm 1825 kết hôn 2 lần; lần đầu kết hôn với Nữ đại công tước Maria Karolina của Áo và có con cái; dòng hiện tại của Hai Sicilia có nguồn gốc từ những đứa con với vợ đầu; kết hôn lần thứ hai với Lucia Migliaccio của Floridia. Ferdinand đã chứng kiến sự ra đời của Hai Sicilia vào năm 1816.
Vương tử Gabriel Antonio Francisco Javier Juan Nepomuceno José Serafin Pascual Salvador của Naples và Sicily Cung điện Portici, 11 tháng 5 năm 1752 Casita del Infante, San Lorenzo de El Escorial, Tây Ban Nha, 23 tháng 11 năm 1788 kết hôn với Infanta Mariana Vitória của Bồ Đào Nha, con gái của Maria I của Bồ Đào Nha;có ba người con, hai trong số đó chết trẻ.
Công chúa Maria Ana của Naples và Sicily Cung điện Portici, 3 tháng 7 năm 1754 Cung điện Capodimonte, 11 tháng 5 năm 1755 Chết trẻ.
Hoàng tử Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno Aniello Raimundo Sylvestre của Naples và Sicily Cung điện Caserta, 31 tháng 12 năm 1755 20 tháng 4 năm 1817 kết hôn với cháu gái của anh ấy, Infanta Maria Amalia của Tây Ban Nha (1779–1798) năm 1795 và không có con cái.
Hoàng tử Francisco Javier Antonio Pascual Bernardo Francisco de Paula Juan Nepomuceno Aniello Julian của Naples và Sicily Cung điện Caserta, 15 tháng 2 năm 1757 Cung điện Hoàng gia Aranjuez, Tây Ban Nha, 10 tháng 4 năm 1771 qua đời năm 14 tuổi

Gia phả[sửa | sửa mã nguồn]

Huy hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Acton, Sir Harold (1956). The Bourbons of Naples, 1734–1825. London: Methuen.
  • Chávez, Thomas E. Spain and the Independence of the United States: An Intrinsic Gift, Albuquerque: University of New Mexico Press, 2002.
  • Henderson, Nicholas. "Charles III of Spain: An Enlightened Despot," History Today, Nov 1968, Vol. 18 Issue 10, p673-682 and Issue 11, pp 760–768
  • Herr, Richard. "Flow and Ebb, 1700-1833" in Spain: A History, ed. Raymond Carr. Oxford: Oxford University Press 2000. ISBN 978-0-19-280236-1
  • Herr, Richard. The Eighteenth Century Revolution in Spain. Princeton: Princeton University Press 1958.
  • Lößlein, Horst. 2019. Royal Power in the Late Carolingian Age: Charles III the Simple and His Predecessors. Cologne: MAP.[liên kết hỏng]
  • Lynch, John (1989). Bourbon Spain, 1700–1808. Oxford: Basil Blackwell. ISBN 0-631-14576-1.
  • Petrie, Sir Charles (1971). King Charles III of Spain: An Enlightened Despot. London: Constable. ISBN 0-09-457270-4.
  • Stein, Stanley J. and Barbara H. Stein. Apogee of Empire: Spain and New Spain in the Age of Charles III, 1759–1789. Baltimore: Johns Hopkins University Press 2003. ISBN 978-0801873393
  • Thomas, Robin L. Architecture and Statecraft: Charles of Bourbon's Naples, 1734-1759 (Penn State University Press; 2013) 223 pages

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Stein, Stanley J. and Barbara H. Stein.Apogee of Empire: Spain and New Spain in the Age of Charles III, 1759-1789. Baltimore: Johns Hopkins University Press 2003, p. 3.
  2. ^ Mörner, Magnus. "The expulsion of the Jesuits from Spain and Spanish America in 1767 in light of eighteenth-century regalism." The Americas 23.2 (1966): 156-164.
  3. ^ Nicholas Henderson, "Charles III of Spain: An Enlightened Despot," History Today, Nov 1968, Vol. 18 Issue 10, p673-682 and Issue 11, pp 760–768
  4. ^ Kuethe, Allan J. "Bourbon Reforms" in Encyclopedia of Latin American History and Culture, vol. 1, pp. 399-401. New York: Charles Scribner's Sons 1996.
  5. ^ Stanley G. Payne, History of Spain and Portugal (1973) 2:371
  6. ^ a b Gleijeses, Don Carlos, Naples, Edizioni Agea, 1988, pp. 46–48.
  7. ^ (tiếng Ý) Harold Acton, I Borboni di Napoli (1734–1825), Florence, Giunti, 1997, p. 18.
  8. ^ (tiếng Ý) Vittorio Gleijeses, Don Carlos, Napoli, Edizioni Agea, 1988, p. 48.
  9. ^ a b Acton, Harold. I Borboni di Napoli (1734–1825) Florence, Giunti, 1997 p. 20
  10. ^ Gleijeses, Vittorio. Don Carlos Naples, Edizioni Agea, 1988. p. 49
  11. ^ Vittorio Gleijeses, Don Carlos, Naples, Edizioni Agea, 1988. p. 50-53
  12. ^ Harold Acton, I Borboni di Napoli (1734–1825), Florence, Giunti, 1997, p. 25
  13. ^ Vittorio Gleijeses, Don Carlos, Naples, Edizioni Agea, 1988. p. 59
  14. ^ Vittorio Gleijeses, Don Carlos, Naples, Edizioni Agea, 1988. p. 61-62
  15. ^ Vittorio Gleijeses, Don Carlos, Naples, Edizioni Agea, 1988, p. 63-64.
  16. ^ a b Vittorio Gleijeses, Don Carlos, Naples, Edizioni Agea, 1988, pp. 65–66
  17. ^ Giovanni Drei, Giuseppina Allegri Tassoni (a cura di) I Farnese. Grandezza e decadenza di una dinastia Italiana, Rome, La Libreria Dello Stato, 1954.
  18. ^ Acton, Harold. I Borboni di Napoli (1734–1825), Florence, Giunti, 1997
  19. ^ Luigi del Pozzo, Cronaca Civile e Militare delle Due Sicilie sotto la dinastia borbonica dall'anno 1734 in poi, Naples, Stamperia Reale, 1857.
  20. ^ Giuseppe Coniglio, I Borboni di Napoli, Milan, Corbaccio, 1999.
  21. ^ Gaetano Falzone, Il Regno di Carlo di Borbone in Sicilia. 1734–1759, Bologne, Pàtron Editore, 1964.
  22. ^ Stein and Stein, Apogee of Empire, pp. 4-5.
  23. ^ The Academy of Real Navy 10 December 1735, was the first institution to be established by Charles III for cadets, followed 18 November 1787 by the Royal Military Academy (later Military School of Naples): Buonomo, Giampiero (2013). “Goliardia a Pizzofalcone tra il 1841 ed il 1844”. L'Ago e Il Filo Edizione Online (bằng tiếng Ý).
  24. ^ (tiếng Ý) Quei Lumi accesi nel Mezzogiorno.
  25. ^ Jo Marchant (2018). “Buried by the Ash of Vesuvius, These Scrolls Are Being Read for the First Time in Millennia”. Smithonian Magazine. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.
  26. ^ Franco Valsecchi, Il riformismo borbonico in Italia, Rome, Bonacci, 1990