Bước tới nội dung

Lớp tàu khu trục S và T

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục HMS Terpsichore vào năm 1945
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Lớp tàu khu trục S và T
Xưởng đóng tàu
Bên khai thác
Lớp trước lớp Q và R
Lớp sau lớp U và V
Lớp con S, T
Hoàn thành 16
Bị mất 2
Nghỉ hưu 14
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Tàu khu trục
Trọng tải choán nước
  • 1.710 tấn Anh (1.737 t) - 1.730 tấn Anh (1.758 t) (tiêu chuẩn danh định)
  • 1.780 tấn Anh (1.809 t) - 1.810 tấn Anh (1.839 t) (thực tế)
  • 2.505 tấn Anh (2.545 t) - 2.545 tấn Anh (2.586 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 339 ft 6 in (103,48 m) (mực nước)
  • 362 ft 9 in (110,57 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft 8 in (10,87 m)
Mớn nước 14 ft 2 in (4,32 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước Admiralty 3 ngăn;
  • 2 × trục;
  • công suất 40.000 shp (30.000 kW)
Tốc độ 36,75 hải lý trên giờ (68,06 km/h; 42,29 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 180-225
Vũ khí

Lớp tàu khu trục S và T là một lớp bao gồm mười sáu tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc hạ thủy vào những năm 1942-1943. Chúng được đặt hàng trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh như những Chi hạm đội Khẩn cấp 56, và phục vụ cùng hạm đội chủ lực cũng như trong vai trò hộ tống vận tải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ba chiếc đã được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan và hai chiếc khác được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Na Uy. Hai chiếc trong lớp, HNoMS SvennerSwift, đã bị mất trong chiến đấu vào năm 1944; những chiếc còn lại sống sót qua cuộc chiến tranh.

Đặc tính thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp tàu khu trục S giới thiệu một kiểu bệ pháo cột trung tâm CP (central pivot) Mark XXII dành cho pháo QF 4,7 in (120 mm) Mk IX. Kiểu bệ mới có tấm che phía trước nghiêng đáng kể giúp làm tăng góc nâng lên đến 55°, tương phản đáng kể so với mặt trước phẳng của kiểu bệ CP Marrk XVIII, giúp dễ dàng phân biệt tàu khu trục lớp S với những lớp dẫn trước. Riêng Savage (G20) là một ngoại lệ ở khía cạnh này, khi nó được trang bị bốn pháo 4,5 in (110 mm), gồm một tháp pháo nòng đôi phía trước và hai khẩu nòng đơn phía sau. Những chiếc trong lớp được trang bị Máy tính Kiểm soát hỏa lực góc cao với đồng hồ kíp nổ định thời.[1]

Bệ bốn nòng Mark VII dành cho pháo QF 2-pounder “pom-pom” phòng không được thay thế bằng bệ Mark IV nòng đôi dành cho pháo Bofors 40 mm. Được biết dưới tên gọi "Hazemeyer" (hay "Haslemere"), kiểu bệ tiên tiến này được ổn định theo cả ba trục giữ cho mục tiêu luôn ở trong đường ngắm, được bổ sung một máy tính tương tự điều khiển hỏa lực và radar bước sóng mét đo tầm xa Kiểu 282. Thiết kế Hazemeyer đã được đưa đến Anh nhờ chiếc tàu rải mìn của Hải quân Hoàng gia Hà Lan Willem van der Zaan, vốn thoát khỏi cuộc chiếm đóng của Đức vào tháng 5 năm 1940.

Những chiếc trong lớp

[sửa | sửa mã nguồn]
Tàu Đặt lườn Hạ thủy Hoạt động Số phận
Lớp S
Saumarez (G12) 20 tháng 11 năm 1942 1 tháng 7 năm 1943 Hư hại nặng do trúng mìn, 22 tháng 10 năm 1946; bán để tháo dỡ 8 tháng 9 năm 1950
Savage (G20)
Scorpion (G72) 19 tháng 6 năm 1941 26 tháng 8 năm 1942 11 tháng 5 năm 1943 Ngừng hoạt động 16 tháng 8 năm 1945; bán cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan như là chiếc HNLMS Kortenaar năm 1945; tháo dỡ 1962
Scourge (G01) 26 tháng 6 năm 1941 8 tháng 12 năm 1942 14 tháng 7 năm 1943 Ngừng hoạt động; bán cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan như là chiếc HNLMS Evertsen tháng 2 năm 1946; tháo dỡ tháng 7 năm 1963
Serapis (G94) Ngừng hoạt động; bán cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan như là chiếc HNLMS Piet Hein năm 1945
HNoMS Svenner (G03) 5 tháng 11 năm 1941 1 tháng 6 năm 1943 11 tháng 3 năm 1944 Bị đắm do trúng ngư lôi tại Normandy, 6 tháng 6 năm 1944
HNoMS Stord (G26) 25 tháng 2 năm 1942 3 tháng 3 năm 1943 26 tháng 8 năm 1943 Bán để tháo dỡ, 1959
Swift (G46) Bị mất trong chiến đấu 24 tháng 6 năm 1944
Lớp T
Teazer (R23) 20 tháng 10 năm 1941 7 tháng 1 năm 1943 13 tháng 9 năm 1943 Cải biến thành một tàu frigate Kiểu 16, 1952; bán để tháo dỡ 7 tháng 8 năm 1965
Tenacious (R45) 3 tháng 12 năm 1941 24 tháng 3 năm 1943 30 tháng 10 năm 1943 Bán để tháo dỡ, tháng 6 năm 1965
Termagant (R89) 25 tháng 11 năm 1941 22 tháng 3 năm 1943 8 tháng 10 năm 1943 Bán để tháo dỡ, 5 tháng 11 năm 1965
Terpsichore (R33) 25 tháng 11 năm 1941 17 tháng 6 năm 1943 20 tháng 1 năm 1944 Ngừng hoạt động 1960; bán để tháo dỡ tháng 5 năm 1966
Troubridge (R00) 10 tháng 11 năm 1941 23 tháng 9 năm 1942 8 tháng 3 năm 1943 Cải biến thành một tàu frigate Kiểu 15, 1957; bán để tháo dỡ tháng 5 năm 1970
Tumult (R11) 16 tháng 11 năm 1941 9 tháng 11 năm 1942 2 tháng 4 năm 1943 Cải biến thành một tàu frigate Kiểu 16, 1950; bán để tháo dỡ 25 tháng 10 năm 1965
Tuscan (R56) 6 tháng 9 năm 1941 28 tháng 5 năm 1942 11 tháng 3 năm 1943 Cải biến thành một tàu frigate Kiểu 16, 1952; bán để tháo dỡ 26 tháng 5 năm 1966
Tyrian (R67) 15 tháng 10 năm 1941 27 tháng 7 năm 1942 8 tháng 4 năm 1943 Bán để tháo dỡ, 9 tháng 3 năm 1965
  • Tàu frigate Kiểu 15: Cải biến toàn diện sau chiến tranh các tàu khu trục Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh thành các tàu frigate nhanh chống tàu ngầm hạng nhất.
  • Tàu frigate Kiểu 16: Cải biến toàn diện sau chiến tranh các tàu khu trục Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh thành các tàu frigate nhanh chống tàu ngầm hạng hai.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cocker, Maurice (1981). Destroyers of the Royal Navy, 1893-1981. Littlehampton Book Services Ltd. ISBN 978-0711010758.
  • Gardiner, Robert; Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships, 1922–1946. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-0-87021-913-9. OCLC 18121784.
  • Hodges, Peter; Friedman, Norman (1979). Destroyer Weapons of World War 2. Conway Maritime Press. ISBN 9780851771373.
  • Marriott, Leo (1989). Royal Navy Destroyers since 1945. London: Ian Allan. ISBN 9780711018174.
  • Raven, Alan; Roberts, John (1976). Ensign 6 War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 0-85680-010-4.
  • Whitley, M.J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]