Swifties

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Swift tương tác thân thiện với các Swifties đang đứng bên ngoài trụ sở Good Morning America tại thành phố New York vào năm 2012

Swiftiescộng đồng người hâm mộ của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift. Đây là cộng đồng mà được nhiều nhà báo cho là một trong những lực lượng fan hâm mộ lớn nhất và nhiệt tình nhất thế giới. Swifties còn nổi tiếng nhờ vào hoạt động sôi nổi cùng nữ ca sĩ thần tượng, sáng tạo, giao lưu cộng đồng và độ cuồng tín rất cao, do đó họ thường hay được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Các nhà phê bình cho rằng Swift đã tái định nghĩa mối quan hệ giữa nghệ sĩ và cộng đồng người hâm mộ nhờ vào việc nữ ca sĩ luôn luôn gắn bó thân thiện với các Swifties. Swift đã thường xuyên tương tác, giúp đỡ, trao từ thiện, bày tỏ biết ơn và ưu tiên quyền lợi người hâm mộ của mình nhất. Đáp lại, người hâm mộ của cô luôn sẵn sàng bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ và quan tâm đến toàn bộ sản phẩm ca hát của cô ở mức độ chưa từng có, mặc kệ mọi sự tranh cãi của cô trên truyền thông. Không chỉ thế, Swifties còn ủng hộ, bảo vệ và bênh vực thần tượng của mình trong quá trình chuyển đổi thể loại âm nhạc, thay đổi nghệ thuật bất thình lình. Họ đã giúp đỡ động viên Swift vượt qua những tranh cãi rộng rãi như vấn đề quyền sở hữu âm nhạc năm 2019, tạo động lực thúc đẩy chính trị sau vụ việc Ticketmaster dẫn đến nhiều luật pháp được ban hành, kèm theo kích thích tăng trưởng nền kinh tế bằng tác động của chuyến lưu diễn The Eras Tour. Vốn là một người lừng danh trong việc ẩn ý, Swift đã chèn các easter egg và manh mối vào quá trình hoạt động âm nhạc, quảng bá và thời trang của bản thân và đã thu hút Swifties tham gia giải mã và tìm tòi. Đây là kiểu văn hóa xây dựng thế giới nằm trong vũ trụ âm nhạc của nữ ca sĩ.

Swifties đã tác động đến ngành công nghiệp âm nhạc trên nhiều mặt khác nhau. Họ đã tự vẽ nên chỗ đứng cho riêng họ tại văn hóa đại chúng và được trao nhiều giải thưởng. Nhiều bài nghiên cứu phân tích về mặt văn hóa khác nhau đã cho rằng Swifties là cộng đồng được quan tâm, một tiểu văn hóa và cận metaverse. Các học giả đã nghiên cứu Swifties về chủ nghĩa tiêu dùng, sáng tạo nội dung, vốn xã hội, hiện tượng sôi nổi theo tập thể, năng suất tổ chức và quan hệ nhân sinh. Dẫu vậy, nhiều thành phần trong lực lượng fan hâm mộ đã bị chỉ trích vì xâm phạm đời tư của Swift, tụ tập vây quanh ở những nơi có mặt nữ ca sĩ, và bắt nạt trên mạng những người dùng Internet hay người nổi tiếng nào nói xấu Swift. Thuật ngữ Swiftie(s) đã được đưa vào Từ điển tiếng Anh Oxford vào năm 2023.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Taylor Swift bắt đầu sáng tác, thu âm và phát hành nhạc đồng quê vào năm 2006. Trước thời điểm phát hành đĩa đơn đầu tay "Tim McGraw" (2006), Swift đã biết cách sử dụng trang mạng xã hội. Cô là một trong những ca sĩ hát nhạc đồng quê đầu tiên tận dụng Internet để làm công cụ tiếp thị âm nhạc và quảng bá bản thân (trên Myspace) và giao lưu kết nối với người yêu thích âm nhạc của cô được phát trên trạm phát thanh.[1][2][3] Swift đã tạo tài khoản MySpace của cô vào ngày 31 tháng 8 năm 2005, một ngày trước khi tài khoản hãng đĩa sau này Big Machine Records của cô được tạo ra. Các bài hát của Swift trên MySpace đã thu hút hơn 45 triệu lượt nghe, khiến cho CEO hãng đĩa Scott Borchetta phải đi thuyết phục các đài phát thanh đồng quê "mang bản tính đa nghi" về đối tượng khán giả yêu thích bài hát của Swift.[4]

Swift phát hành album phòng thu đầu tay cùng tên tuổi của bản thân tại Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2006. Nhạc phẩm đã bán được 40.000 bản trong tuần đầu,[5] rồi trở thành một sleeper hit nhờ vào doanh số bán hàng ổn định qua thời gian,[6] và chạm đến triệu bản vào tháng 11 năm 2007.[7] Taylor Swift thu về lượt tiêu thụ cao nhất trong tuần vào tháng 1 năm 2008 với 187.000 bản.[8] Sức thành công của nhạc phẩm sleeper hit đã khiến cho Swift nhanh chóng nổi tiếng trong và vượt ra ngoài bối cảnh làng nhạc đồng quê. Taylor Swift dành ra 24 tuần đứng đầu bảng xếp hạng Top Country Albums Hoa Kỳ và trở thành album trụ hạng lâu nhất thập kỷ 2000 tại bảng xếp hạng toàn thể loại Billboard 200.[9][6] Album kế tiếp Fearless được Swift cho phát hành vào tháng 11 năm 2008 và trở thành album bán chạy nhất năm 2009. Đĩa nhạc gặt hái thành công vang dội trên thị trường quốc tế ngoài vùng văn hóa tiếng Anh,[10][11] mà những nơi ấy thì thể loại nhạc đồng quê kiểu Mỹ lại không mấy phổ biến.[12][11] Các đĩa đơn "Love Story" và "You Belong with Me" trở thành bài hát đồng quê thành công trên trạm phát thanh nhạc pop,[13] đưa Swift trở nên nổi tiếng và mở rộng lượng khán giả của cô nhiều hơn nữa.[14][15] Thành công đó đã tạo dựng được lượng người hâm mộ dành riêng cho Swift ở các thị trường nước ngoài như Vương quốc Anh,[10] Ireland, Brasil và Đài Loan.[11] Những album tiếp theo đầy tính thử nghiệm, pha trộn nhiều thể loại nhạc pop, rock, điện tử, folkalternative của Swift đã góp phần mở rộng ranh giới người hâm mộ và làm đa dạng nhiều thành phần người nghe trong âm nhạc của cô.[16][17]

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ "Swiftie" dùng để chỉ fan hâm mộ của Swift đã trở nên nổi tiếng từ cuối thập niên 2000. Đây là từ ghép giữa tên Swift với hậu tố "ie" (hoặc đôi khi "y" trong "Swifty"), trong tiếng Anh thì những từ mang hậu tố này có chức năng tí hon hóa, thể hiện ý nghĩa yêu thương.[18] Swift phỏng vấn với Vevo vào năm 2012 và bảo rằng câu chuyện fan của cô tự gọi chính họ là "Swifties" trông thật "đáng yêu".[19] Swift đã đăng ký thuật ngữ này làm thương hiệu vào tháng 3 năm 2017.[20] Năm 2023, Từ điển tiếng Anh Oxford đã xếp Swiftie thuộc từ loại danh từ và thuật ngữ này có nghĩa là "một người hâm mộ nhiệt tình của ca sĩ Taylor Swift." Cũng theo từ điển, những từ thường kết hợp với Swiftie thành cụm đi chung (Collocation) là "fandom", "die-hard", "hardcore" và "self-proclaimed".[18] Theo trang Dictionary.com, thuật ngữ Swiftie thường có nghĩa là "một người hâm mộ rất cuồng nhiệt và trung thành, trái ngược với việc chỉ là một người nghe bình thường."[21]

Mối quan hệ với thần tượng[sửa | sửa mã nguồn]

Một tấm áp phích hâm mộ do một Swiftie sáng tạo

Swift là một ca-nhạc sĩ luôn luôn giữ tương tác vui vẻ thân thiết với những người hâm mộ Swifties. Bên cạnh đó, nhiều nhà báo cho rằng Swifties là nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng về mặt văn hóa của nữ ca sĩ.[22][23] Theo The Washington Post, Swift và Swifties chính là mối quan hệ "một nhóm chơi thân trong đó có một người là bạn đáng quý nhất".[24] The New York Times cho biết, nữ ca sĩ đã "cách mạng hóa" (tức là thay đổi làm mới) mối quan hệ mà người nổi tiếng có thể có với những người hâm mộ.[25] Nhiều người hâm mộ cảm thấy gắn bó với Swift là do họ "đã trưởng thành cùng cô ấy và âm nhạc của cô ấy."[26][27] Lora Kelley bên The Atlantic bảo rằng, Swift là người "thấu hiểu sức mạnh của kinh nghiệm hoạt động cùng với nhóm người [ủng hộ cô ấy]."[28] Đối với một nghệ sĩ tầm cỡ toàn cầu như Swift thì việc cô vẫn còn giữ thân thiết quan tâm với người hâm mộ được cho là chỉ có một trên đời. Swift luôn sẵn sàng tương tác với Swifties trên mạng xã hội, cho họ quà tặng, tự tay mời họ đến những buổi hòa nhạc thân mật hoặc họp mặt, bất ngờ ghé thăm, tham dự một số hoạt động kỷ niệm của Swifties (như đám cưới và tiệc của cô dâu trước khi lên xe hoa) và phát vé miễn phí cho các fan hâm mộ kém may mắn hoặc bị lâm bệnh nặng.[23][29][30] Thói quen theo dõi hoạt động người hâm mộ trên mạng của Swift được Swifties gọi là "Taylurking".[31]

Tháng 6 năm 2010, Swift đã tổ chức buổi họp mặt kéo dài 13 tiếng thuộc một phần của lễ hội CMA tổ chức tại Nashville, Tennessee. Năm 2014, 2017 và 2019, cô tổ chức các buổi tiệc nghe nhạc "Secret Sessions" trước khi phát hành album dành cho người hâm mộ tại nhà cô[32][33] và một sự kiện giáng sinh năm 2014 được fan đặt tên là "Swiftmas". Khi đó, Swift đích thân gửi từng gói quà giáng sinh sớm cho người hâm mộ và tự tay trao cho một số người may mắn.[34] Swift đã từng viết nhạc nhằm bày tỏ niềm yêu quý với người hâm mộ chẳng hạn như "Long Live" (2010)[35] và "Ronan" (2012). "Ronan" là một bài hát từ thiện nói về con trai bốn tuổi của một người hâm mộ đã qua đời vì căn bệnh u nguyên bào thần kinh.[29] Năm 2023, nữ ca sĩ đã mời 2.200 người hâm mộ trên thế giới đến thưởng thức miễn phí buổi công chiếu bộ phim hòa nhạc Những kỷ nguyên của Taylor Swift của cô.[36] Zoya Raza-Sheikh viết cho The Independent đã phát biểu rằng Swift "vẫn đi đầu trong việc đem lại trải nghiệm người hâm mộ để tiếp tục gia tăng lực lượng người theo dõi. Dù cho đó là lời mời riêng đến nhà của ca sĩ để tham gia các bữa tiệc nghe album, còn gọi là Secret Sessions, hay các buổi họp mặt trước biểu diễn, cô ấy vẫn tiếp tục đặt người hâm mộ của mình lên hàng đầu."[31]

Swift chụp hình với fan bên ngoài liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2022

Nhờ số lượng người hâm mộ đông đảo, Swift là một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên mạng xã hội.[37][38][39] Theo giám đốc điều hành bán vé Nathan Hubbard, Swift là nhạc sĩ đầu tiên "chỉ bán vé gần như trực tuyến."[40] Nhà phê bình Brittany Spanos bên Rolling Stone cho rằng Swift đã phát triển cộng đồng người hâm mộ của mình trên mạng xã hội: "Cô ấy đã sử dụng Tumblr ngay từ thuở hoàng kim của nền tảng đó. Khỏi bàn đến Twitter và hiện nay, cô ấy đang sử dụng TikTok để bình luận video của mọi người."[3] Một phần Swifties thống trị ở TikTok được gọi là "SwiftTok".[31] Các biệt danh thường được Swifties sử dụng cho Swift gồm có "Blondie" (do mái tóc màu vàng của cô), "T-Swizzle" (nhờ lời bài hát trong ca khúc parody "Thug Story" năm 2009 của Swift cùng với nhà sản xuất thu âm Người Mỹ T-Pain) và "Cả ngành công nghiệp âm nhạc" (nhờ vào sức ảnh hưởng của cô đối với ngành công nghiệp âm nhạc).[41] Các Swifties người Trung Quốc đã gọi cô là "Môi Môi" (霉霉, Meimei), cách chơi chữ của chữ Hán "Môi" (霉, Mei) có nghĩa là "kém may mắn" do phương tiện truyền thông Trung Quốc quen gọi như vậy.[42][43]

Swift sẵn sàng quyên góp chi phí trang trải các khoản vay học tập, hóa đơn y tế, tiền thuê nhà hoặc các loại chi tiêu khác cho người hâm mộ.[44] Năm 2018, cô đã mua một căn nhà cho một fan vô gia cư và đang mang thai.[45] Nhờ vào khoản đóng góp to lớn của Swift cho người hâm mộ mắc bệnh bạch cầu trên GoFundMe vào năm 2015 mà nền tảng huy động vốn từ cộng đồng phải nới lỏng chính sách lại.[46] Năm 2023, hàng nghìn Swifties đã chung tay đóng góp 125.000 đô la Mỹ thông qua GoFundMe nhằm trao tặng gia đình của một người bạn Swiftie bị một tài xế say rượu tông chết trên đường về nhà sau buổi hòa nhạc của Swift. Phần lớn số lượt quyên góp trong đó đều là 13 đô la Mỹ, và đó cũng chính là con số yêu thích của Swift.[47]

Truyền thuyết và cộng đồng[sửa | sửa mã nguồn]

"Cái cách cô ấy sử dụng ký hiệu và hình ảnh chỉ có thể càng ngày càng phát triển tới mức độ một khi mà bạn nhìn đủ tường tận vào Thế giới Swift, bạn sẽ thấy những người hâm mộ của cô ấy thực sự đang giao tiếp bằng thứ tiếng khác với những từ viết tắt, khẩu hiệu ẩn ý hay lời bóng gió mà chỉ có họ mới hiểu được."

Emily Yahr, The Washington Post (2022)[48]

Nhiều tay viết báo cho rằng sự phô trương ầm ỹ xoay quanh sự nghiệp âm nhạc và người nổi tiếng của Swift đã trở thành một thế giới tách biệt. Họ còn gọi đó là một chủ đề "vũ trụ" âm nhạc để các Swifties phân tích suy luận. Bởi Swift nổi tiếng là người tận dụng muôn hình vạn trạng trứng phục sinh (easter egg) và "thân thiết với fan của ấy tới mức bất thường",[24][49] nên cô đã trở thành nguồn gốc của thần thoại trong văn hóa đại chúng. Trang phục, phụ kiện, cách phát âm, mã màu và các con số đã trở thành các easter egg để Swift đặt vào nhạc phẩm của cô.[50][51] Cộng đồng Swifties cũng nổi tiếng nhờ việc tung giả thuyết fan, mổ xẻ từng chút và lồng ghép nhiều yếu tố mà họ cho rằng đó là dấu hiệu hay easter egg.[52] Theo cây viết Bruce Arthur của tờ Toronto Star, "Swift được các fan theo dõi, và các fan lại là người tôn vinh dâng hiến bản chất thần thoại của cô ấy lên vị thế tầm cỡ nghệ thuật Đế quốc Đông La Mã (Byzantine), vừa phức tạp vừa hóc búa vừa tựa như Chúa Cứu thế."[53]

GlamourThe Washington Post đã gọi truyền thuyết là Vũ trụ Điện ảnh Taylor Swift.[54][55] Entertainment Weekly bảo rằng đó là Vũ trụ âm nhạc Taylor Swift, "một ngôi sao nhạc pop nổi tiếng cùng với tài năng đưa ra gợi ý phi thường, còn người hâm mộ [của cô ấy] thì biến mọi thông tin trở thành một cuộc khai quật khảo cổ trên mạng trực tuyến."[56] Phía The Guardian, Adrian Horton cho rằng "Swiftverse" là một tiểu văn hóa của truyền thông được xây dựng nên nhờ "nhiều năm gầy dựng thế giới và củng cố truyền thuyết Swiftian",[51] còn Alim Kheraj thì viết báo rằng Swift đã biến nhạc pop trở thành "một trò chơi giải đố nhiều người chơi" với sự tham gia của lực lượng fan hâm mộ, và đó cũng là chuyện mà nhiều nghệ sĩ khác cũng muốn có được và đã cố thực hiện.[57]

Cây viết tạp chí Andrew Unterberger bên Spin cho rằng biểu tượng là "những yếu tố không thể tách rời trong trải nghiệm của Taylor Swift" và là chìa khóa để hiểu các tác phẩm ca nhạc của cô.[58] Theo Caroline Mimbs Nyce bên The Atlantic, cộng đồng người hâm mộ của Swift là một cận metaverse, là "một cộng đồng ảo khổng lồ được tách ra từ một nền tảng duy nhất dựa trên thế giới xung quanh Taylor Swift, chỉ còn thiếu đúng không gian ảo 3D để tham gia nữa thôi."[59] Ở góc nhìn của Yahr, Swift là người thích lồng ghép "manh mối, gợi ý và câu đố" vào tác phẩm, các bài đăng trên mạng xã hội và các cuộc phỏng vấn của cô. Bên cạnh đó, cô là người ưa chuộng trong việc xây dựng tượng đài huyền thoại về bản thân mà người hâm mộ tin rằng có thể ẩn chứa ý nghĩa nào đó bên trong và họ sẽ cố gắng giải mã. Ví dụ như ngày phát hành, tiêu đề bài hát hoặc album hoặc một yếu tố nghệ thuật nào đó.[48] Madeline Merinuk của Today đã để ý những quả trứng phục sinh của Swift, lúc đầu chỉ đơn giản là những thông điệp ngắn ẩn trong bao bì đĩa CD phức tạp, qua nhiều thời gian thì đã trở nên sáng tạo và phức tạp hơn nhiều.[60] Các phương tiện đã gọi những bài phân tích chuyên môn là "Swiftology".[61][58] Đơn cử "chiếc khăn quàng cổ" trong lời bài hát "All Too Well" đã là một chủ đề thần thoại.[62][63][64]

Swift cũng là một ca sĩ đi đầu trong việc chọn chủ đề ra mắt và quảng bá album, hay còn gọi là "những kỷ nguyên".[65][66][67] Mỗi kỷ nguyên được đặc trưng theo gu thẩm mỹ, bảng màu, tâm trạng và phong cách thời trang.[68][69][70] Swift còn là người luôn sẵn sàng thay mới hình tượng và phong cách của bản thân xuyên suốt sự nghiệp, khiến cho Ashley Lutz đảm nhận tạp chí Fortune phải công nhận rằng hành động đó đã giúp mở rộng nhiều đối tượng hâm mộ của cô.[50] Biên tập viên cấp cao của Today tên Elena Nicolaou đã lên bài báo cho biết phần lớn Swifties đều thuộc thế hệ Millennials, và họ đã đưa văn hóa Swiftie vào các lễ cưới và những sự kiện khác của họ ở ngoài đời.[71]

Đặc điểm xã hội học[sửa | sửa mã nguồn]

Swifties tự làm chia sẻ các vòng tay tình bạn tại The Eras Tour (2023–2024) nhờ cảm hứng từ ca khúc "You're on Your Own, Kid". Số 13 là số may mắn cũng như yêu thích nhất của Swift, đồng thời cũng thường được fan bàn tán tới.

Swifties được cho là một cộng đồng người hâm mộ trung thành với độ hoạt động sôi nổi cũng như sáng tạo cùng Swift rất cao.[72] Những người hâm mộ cuồng nhiệt ở nước ngoài như Trung Quốc sẵn sàng dịch lời bài hát của Swift và tổ chức các sự kiện quy mô lớn liên quan đến nữ ca sĩ thần tượng.[43] Hành động Swifties đón nhận nồng nhiệt album Reputation ra mắt sau vụ tranh cãi năm 2016 đã chứng tỏ một điều rằng: Không cần biết Swift đã thay đổi trong tông màu nghệ thuật cũng như công chúng nhận thức hình tượng của cô ra sao, họ vẫn giữ cam kết trung thành tuyệt đối với nữ ca sĩ thần tượng.[73] Billboard đã viết rằng, việc các album tái thu âm thành công chưa từng có chính là bằng chứng rõ ràng hơn của lòng trung thành của các Swifties đối với Swift.[74] Theo lời phát biểu của Willman, việc tái thu âm thành công đã lan truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ khác đi "vũ khí hóa người hâm mộ trong các tranh chấp kinh doanh của họ".[75] Tác giả Amanda Petrusich cho rằng lòng trung thành của Swifties vừa "mạnh mẽ vừa đáng sợ".[76] Cây viết phê bình từ trang The Guardian mang tên Rachel Aroesti cho hay, "Bạn không thể tranh cãi với lượng người hâm mộ của cô ấy được. Họ không những là những người cực kỳ cuồng tín mà lại còn đông đúc đến khó tin."[77]

Drag queen người Philippines Taylor Sheesh chuyên đóng giả Swift đã trở nên nổi tiếng là nhờ Swifties.[78]

Nhiều nguồn xuất bản đã gọi hiện tượng chủ nghĩa tiêu dùng mua sắm hoặc tham gia bất cứ thứ gì liên quan tới Swift chính là "Hiệu ứng Taylor Swift".[79][80][81] Theo các nhà khoa học kinh doanh Brendan Canavan và Claire McCamley, mối quan hệ giữa Swift và Swifties đại diện cho chủ nghĩa tiêu dùng hậu hiện đại.[82] Nhà xã hội học Brian Donovan cho rằng, "Sự điên cuồng diễn ra xoay quanh Swift trong việc tôn thờ anh hùng đầy bất chấp mặc dù có thể dễ dàng cho qua một bên. Thật vậy, các Swifties đã cho thấy sức mạnh của cộng đồng người hâm mộ trong việc tạo ra các mối liên kết xã hội còn vươn ra xa khỏi chủ nghĩa tiêu thụ."[83] Anh ca ngợi khả năng của Swift trong việc "tận dụng hiệu quả tư duy sưu tầm của cộng đồng người hâm mộ cô ấy".[84] Arthur cho biết, "Dù mọi người thích nhìn nhận Swifties là một trường hợp cực đoan nhưng về hình thức hoạt động [của nhóm fan này] thì lại giống như [nhóm fan] trong thể thao."[53]

Sự cuồng nhiệt của người hâm mộ Swift (gọi là "Swiftmania")[85] được nhiều nhà báo đơn cử như Jon Bream của Star Tribune cho là tương đồng với Beatlemania phiên bản thế kỷ 21. Bream cho rằng "Swift đã đạt được một nền văn hóa độc canh không thể tưởng tượng được: một sự chuyển đổi của hệ chủ nghĩa tư tưởng thời đại Beatlemania".[86][87] Các chương trình truyền hình và loạt phim nào mà có sự tham gia của Swift thường đạt được lượng người xem cao nhất là nhờ Swifties.[88][89] Ngoài những nghệ sĩ âm nhạc coi Swift là người có ảnh hưởng, chẳng hạn như Olivia Rodrigo, HalseyCamila Cabello, nhiều ngôi sao khác cùng tự nhận bản thân là Swifties.[90][91]

Tác động đối với ngành công nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Swifties là nhân tố hàng đầu trong việc thành công thương mại của Swift, nhờ vào sự ủng hộ rộng rãi của họ dành cho cô. Swift còn nổi tiếng là nghệ sĩ có doanh số tiêu thụ đĩa CD và đĩa than cao ngất ngưỡng bất chấp bối cảnh làng nhạc thế kỷ 21 đã đa phần chuyển đổi sang công nghiệp kỹ thuật số.[92] Từ 2014 đến 2015, Swift đã đấu tranh với các ông lớn dịch vụ phát nhạc trực tuyến SpotifyApple Music nhằm thay đổi luật để bảo vệ tính toàn vẹn nghệ thuật dành cho nghệ sĩ âm nhạc.[22][93] Cô đích thân tuyên bố album nhạc pop đầu tiên của cô 1989 sẽ không được đưa lên Spotify nhằm phản đối chính sách trả công "nhỏ giọt" của nền tảng dành cho nhạc sĩ.[94] Một số nhà báo chẳng hạn như Nilay Patel bên Vox đã chỉ trích quan điểm của Swift khi cho rằng Internet đã giết chết định dạng album và nhiều người hâm mộ sẽ chẳng còn muốn đi mua đĩa CD của Swift nữa.[95] Nhiều gương mặt trong ngành cảm thấy rằng việc Swift dứt áo rời khỏi làng nhạc đồng quê và nền tảng phát trực tuyến sẽ gây ảnh hưởng đến doanh số bán album của cô.[96] Đến cả các tờ báo còn dự đoán 1989 sẽ không thể bán được hơn triệu bản tuần đầu tương tự như các album Speak Now (2010) và Red (2012) trước đó của cô.[97][98] Tuy nhiên, album 1989 của Swift vẫn đạt được thành công chưa từng có bất chấp thiếu đi phát trực tuyến, là nhờ được fan mua sắm CD từ Target[99] và tiêu thụ được 1,28 triệu bản trong tuần đầu.[99] Trong thập niên 2020, Swifties cũng được ghi nhận là một trong nguyên nhân dẫn đến sự hồi sinh của đĩa nhạc vinyl.[100] Các phiên bản LP album của Swift được lên kệ độc quyền tại những doanh nghiệp nhỏ, góp phần tạo doanh thu cho họ.[101][102]

Người hâm mộ của Swift còn giúp gia tăng độ lan tỏa cuộc tranh chấp bản thu hoàn chỉnh năm 2019 của cô với Big Machine và doanh nhân người Mỹ Scooter Braun, đồng thời họ còn giúp Swift đạt được thành công sau nhiều nỗ lực tái thu âm.[75][103][104] Một bản kiến nghị trực tuyến do một người hâm mộ đưa ra trên trang web Change.org, trong đó yêu cầu Braun và Borchetta "ngừng bắt giữ nghệ thuật của Swift làm con tin", đã thu hút 35.000 lượt ủng hộ ký tên trong vòng ba tiếng đầu tiên. Giám đốc điều hành Michael Jones của Change.org đã cho rằng cuộc vận động là "một trong những kiến nghị bùng nổ nhất trên nền tảng trong tháng này".[105] Tuy nhiên, Braun tuyên bố rằng Swift đã "vũ khí hóa" người hâm mộ của mình bằng cách công khai tranh chấp.[106] Swifties cũng giúp phát hiện ra Tập đoàn Carlyle (đối tác làm ăn của Braun) đã cung cấp vũ khí cho nội chiến tại Yemen, và được chính các tờ báo như The New York Times đưa tin xác nhận.[107][108][109]

Các hoạt động của Swift, gồm âm nhạc lẫn các chuyến lưu diễn hòa nhạc như The Eras Tour, đã gây tác động đến nền kinh tế.[110] Nguyên nhân được đưa ra là do Swifties làm nhu cầu đi du lịch, thuê nhà ở, mua sắm mỹ phẩm, thời trang và đồ ăn gia tăng "đột biến"[111] giúp thúc đẩy mạnh mẽ doanh thu du lịch tại các thành phố lên cao ngất ngưỡng.[112][113][114] Los Angeles Times phát biểu rằng Swifties là một mô hình kinh tế vi mô.[115] Tháng 11 năm 2022, câu chuyện quản lý đợt bán vé trước The Eras Tour đầy yếu kém của Ticketmaster đã vấp phải chỉ trích và giám sát rộng rãi của công chúng và chính trị. Do nhu cầu của fan "cao đến mức ra tới ngoài vũ trụ"[116] nên trang web Ticketmaster đã bị sập mà vẫn bán được 2,4 triệu vé, khiến Swift phá kỷ lục trở thành nghệ sĩ có số lượng vé hòa nhạc bán ra nhiều nhất trong một ngày. Ticketmaster lên tiếng cho rằng vụ sập web là do lưu lượng truy cập internet "chưa từng có trong lịch sử".[117][118] Người hâm mộ và các nhóm tổ chức người tiêu dùng đã cáo buộc Ticketmaster lừa dối và độc quyền.[119] Sức phẫn nộ của người hâm mộ đã khiến cho một số thành viên Quốc hội Hoa Kỳ tuyên bố rằng việc sáp nhập của Ticketmaster và công ty mẹ Live Nation Entertainment đã dẫn đến dịch vụ không đạt tiêu chuẩn và đẩy giá vé cao.[120] Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã tổ chức điều tra bên phía Live Nation–Ticketmaster,[121] trong khi một số người hâm mộ đã đâm đơn kiện các công ty về tội cố ý lừa dối, gian lận, ấn định giá và vi phạm luật chống độc quyền.[122] Dưới sức ép của tổng thống Mỹ Joe Biden, Ticketmaster và các công ty bán vé khác đã đồng ý chấm dứt phí rác (junk fees), tức là các khoản phí bổ sung được tiết lộ khi kết thúc quá trình mua vé.[123] Entertainment WeeklyThe A.V. Club đề xuất "Swifties vs. Ticketmaster" là một trong những tin tức văn hóa lớn nhất năm 2022.[124][125] Nhà báo CNN Allison Morrow đã viết trong một bài báo có tựa đề "One Nation, Under Swift" rằng người hâm mộ đoàn kết các bên chống lại Ticketmaster theo cách mà "Nhóm lập quốc đã không lường trước được".[126]

Sau khi chứng kiến xu hướng bữa tiệc khiêu vũ theo chủ đề Swift trên thế giới càng ngày càng tăng, các nhà bình luận trong ngành nhận thấy rằng vị thế văn hóa của Swift đã trở thành yếu tố quan trọng trong bối cảnh âm nhạc thế kỷ 21, giúp cho các hộp đêm thu lợi nhuận từ cô bằng cách tổ chức các sự kiện chuyên biệt dành cho người hâm mộ.[127][128][129] Điển hình là một bữa tiệc có tên gọi "Swiftogeddon", khởi điểm chỉ là một sự kiện Swiftie chỉ diễn ra một lần tại Luân Đôn mà giờ đã phát triển thành chuyến tham quan câu lạc bộ ban đêm trên toàn nước Anh cháy sạch vé vào mỗi cuối tuần.[130] Các chương trình truyền hình thực tế Mỹ như Dancing with the StarsThe Voice đã tổ chức các đêm đặc biệt theo chủ đề Swift vào năm 2023.[131][132] Xu hướng của cộng đồng Swifties cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều thương hiệu khác nhau. The A.V. Club tuyên bố rằng "thông thường, các ngôi sao nhạc pop là sản phẩm và fandom là người tiêu dùng", nhưng mà Swifties là sản phẩm của chính họ. Ví dụ, cụm từ "seemingly ranch" đã nên phổ biến sau khi một tài khoản hâm mộ trên Twitter sử dụng để viết mô tả hình chụp đồ ăn nhanh của Swift tại trận đấu Giải Bóng bầu dục Quốc gia (NFL), kéo theo đó là một loạt các meme và khiến cho các công ty đồ ăn như Heinz, McDonald's, KFC, Hidden ValleyPrimal Kitchen phải bắt chước áp dụng lên sản phẩm và quá trình tiếp thị của họ.[133][134][135]

Nhân khẩu học[sửa | sửa mã nguồn]

Theo một cuộc khảo sát năm 2023 của Morning Consult tại Hoa Kỳ, 53% người trưởng thành tự nhận mình là fan của Swift, trong đó hết 44% cho rằng bản thân là Swifties và 16% là fan "cuồng nhiệt" của cô. Trong số những người hâm mộ thì nữ chiếm 52% và nam chiếm 48%. Về mặt chủng tộc, 74% người hâm mộ là người da trắng, 13% là người da đen, 9% là người gốc Á, và 4% là thuộc chủng tộc khác. Ở chính trị, xấp xỉ khoảng 55% người hâm mộ Swift ở Mỹ là đảng viên Đảng Dân chủ, 23% là đảng viên Đảng Cộng hòa và 23% là người bỏ phiếu độc lập. Về mặt thế hệ, 45% thuộc thế hệ Millenials, 23% thuộc thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, 21% thuộc thế hệ X và 11% thuộc thế hệ Z.[136] Các nhà báo cũng từng ghi nhận sự gia tăng lượng người hâm mộ của Swift thuộc thế hệ X và thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, được gọi là "các Swifties thâm niên".[84][137]

Vai trò chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Brooke Schultz bên Associated Press tuyên bố Swifties là nhóm cử tri có sức ảnh hưởng lớn trong nền chính trị Hoa Kỳ khi cho rằng "sức mạnh và quy mô tuyệt đối của cộng đồng người hâm mộ cô Swift đã dấy lên những cuộc bàn tán xôn xao về bất bình đẳng kinh tế, dường như hoàn toàn là tượng trưng cho vụ việc Ticketmaster".[138] Theo cuộc khảo sát của The Times vào năm 2023, 53% người Mỹ trưởng thành tự nhận mình là "fan" của Swift, một con số tỷ lệ mà nhà báo Ellie Austin cho rằng đến cả Biden lẫn Trump "cũng phải nằm mơ mới có được". Austin giải thích rằng mặc dù bản thân Swift đi theo cánh tả nhưng một số người bảo thủ vẫn "thèm muốn" cô, khiến nữ ca sĩ trở thành nhân tố quyết định trong nền chính trị Hoa Kỳ.[139] Tháng 5 năm 2023, Texas đã thông qua dự luật có tiêu đề "Save Our Swifties" nhằm cấm sử dụng bot để mua vé số lượng lớn.[140][141] Các dự luật tương tự đã được đưa ra ở nhiều tiểu bang khác nhau của Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ.[142][143] Trên phương diện quốc tế, các ứng cử viên tổng thống như Gabriel Boric ở Chile và Leni Robredo ở Philippines đã kêu gọi hoặc quảng bá bản thân với Swifties trong các chiến dịch bầu cử tương ứng của họ.[144][145]

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách giải thưởng và đề cử của Swifties
Lễ trao giải Năm Hạng mục Kết quả Nguồn
Capricho Awards de Gato Nacional 2020 Cộng đồng người hâm mộ của năm Đề cử [146]
Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio 2014 Đội quân hâm mộ xuất sắc nhất Đề cử [147]
2015 Đề cử [148]
2016 Đề cử [149]
2018 Đề cử [150]
2019 Đề cử [151]
2020 Đề cử [152]
2021 Đề cử [153]
2022 Đề cử [154]
2023 Đề cử [155]
2024 Chưa công bố [156]
Giải thưởng Âm nhạc MTV Châu Âu 2015 Những người hâm mộ lớn nhất Đề cử [157]
2017 Đề cử [158]
2018 Đề cử [159]
2019 Đề cử [160]
2020 Đề cử [161]
2021 Đề cử [162]
2022 Đề cử [163]
2023 Đề cử [164]
Giải thưởng Cộng đồng người hâm mộ của MTV 2015 Đội quân cộng đồng người hâm mộ của năm Đề cử [165]
Nickelodeon Australian Kids' Choice Awards Đội quân người hâm mộ được yêu thích nhất của Aussie/Kiwi Đề cử [166]
Nickelodeon Mexico Kids' Choice Awards 2023 Fandom chủ Đề cử [167]
Nickelodeon UK Kids' Choice Awards 2015 Đội quân người hâm mộ yêu thích tại Anh Đề cử [168]
Giải thưởng Âm nhạc O 2012 Đội quân người hâm mộ Đề cử [169]
Người hâm mộ tiếp cận cuồng nhiệt nhất Đoạt giải
Giải thưởng Âm nhạc Radio Disney 2014 Người hâm mộ cuồng nhiệt nhất Đoạt giải [170]
2016 Đề cử [171]
Teen Choice Awards 2014 Những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất được lựa chọn Đề cử [172]
2018 Cộng đồng người hâm mộ được lựa chọn Đề cử [173]
2019 Đề cử [174]

Chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]

Swifties đã vấp phải chỉ trích vì một số hành vi nhất định. Nhiều nhà báo đã lên án một số hành động ngoài đời mà Swifties dành cho Swift gồm có xâm phạm đời tư thần tượng quá mức.[175][176] Người hâm mộ cũng hay bao vây tại nhiều địa điểm công cộng nơi thần tượng xuất hiện.[177] Chính Swift đã lên tiếng về vấn đề thiếu sự riêng tư nhiều lần. Trong bộ phim tài liệu Miss Americana, lúc Swift rời khỏi căn hộ Tribeca đầy fan và phóng viên bao vây ngoài cửa thì cô bảo cô "cực kỳ hiểu được sự thật rằng điều đó là không bình thường chút nào."[178] Một số Swifties cũng bị chỉ trích vì những hành vi tấn công, quấy rối, đưa những lời dọa giết và doxing những ngôi sao, nhà báo hay người dùng Internet bắt nguồn từ nhiều lý do, chủ yếu là do những người vừa kể buông lời không hay về Swift.[179][180][181] Sau cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm, Braun tuyên bố rằng anh đã nhận được những lời dọa giết từ Swifties.[182] Vice gọi fandom là một "cộng đồng tuy chào đón bình đẳng nhưng vẫn là một cộng đồng khép kín và bị giam giữ vào nỗi đau của văn hóa người nổi tiếng vừa phi thực tế vừa ám ảnh".[183]

Gaylor[sửa | sửa mã nguồn]

Gaylor là một thuyết âm mưu cho rằng Swift là một người đồng tính kín. Một nhóm nhỏ Swifties tự gọi mình là "Gaylor" đã ủng hộ và quảng bá tin đồn này khi bảo rằng Swift đang thả "dấu hiệu" cho thấy cô thuộc giới tính thứ ba thông qua âm nhạc, lối sống. Trong khi đó, nữ ca sĩ lên tiếng bảo rằng cô không phải là người thuộc cộng đồng LGBT mà cô là đồng minh của LGBT. Các Gaylor đặc biệt tập trung đẩy thuyền Swift với Karlie Kloss, Dianna Agron hoặc cả hai người, cho rằng Swift đã từng hẹn hò với họ trong quá khứ và chỉ trích nữ ca sĩ thần tượng vì queerbaiting nếu như cô lên tiếng mình không đồng tính. Đa số Swifties cũng chỉ trích thuyết âm mưu Gaylor vì quá lố, độc hại và thiếu tôn trọng Swift. Các nhà báo cũng bác bỏ vì thuyết âm mưu đã xâm phạm đời tư người khác và vô căn cứ.[184][185][186] Các Gaylor đã lên tiếng rằng thông qua một số bài hát của Swift thì họ đã xác nhận nữ ca sĩ yêu phụ nữ và có quan hệ tình cảm với các nữ diễn viên Emma StoneCara Delevigne. Họ khẳng định rằng bài hát năm 2023 của Swift "When Emma Falls in Love" là lời thú nhận tình cảm giữa cô với Stone mặc dù Swift và Stone chỉ gọi nhau là bạn thân trên các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, phần lớn Swifties đã thực sự xem cuộc tình trong quá khứ giữa Stone và diễn viên Andrew Garfield mới chính là nguồn cảm hứng cho bài hát.[187] Trong phần mở đầu của album 1989 (Taylor's Version), Swift khẳng định rằng tình bạn với các đồng nghiệp nữ của cô đã bị tình dục hóa theo cách tương tự như truyền thông lá cải đồn đoán đưa tin rộng rãi giữa Swift với đồng nghiệp nam.[188][189] Một bài báo mang tựa đề "Look What We Make Taylor Swift Do" vào tháng 1 năm 2024 trên The New York Times do Anna Marks biên tập đã suy đoán Swift là một người đồng tính kín hoàn toàn dựa trên cách nhìn nhận lời bài hát và gu thẩm mỹ của Swift của Marks. Bài báo này đã vấp phải những chỉ trích từ Swifties và những độc giả khác. CNN Business đưa tin rằng những người quản lý của Swift cảm thấy bài báo "xâm phạm đời tư, không đúng sự thật và không phù hợp".[190] Các Gaylor thậm chí còn cho rằng Swifties bày tỏ kỳ thị đồng tính với họ.[191]

Nghiên cứu học thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Swifties là chủ đề được báo chí và giới hàn lâm quan tâm. Họ tập trung nghiên cứu Swifties về vốn xã hội, đặc điểm tiêu dùng và quan hệ nhân sinh.[192][193] Theo các nhà nghiên cứu Cristina López và Avneesh Chandra về văn hóa Internet, "hoạt động sáng tạo nội dung phong phú, hiểu biết về kỹ thuật số, năng suất tổ chức và đôi khi là những hành vi xấu xa trên mạng [của các Swifties]" cũng là đối tượng đáng để nghiên cứu.[194] Donovan phân biệt "những người hâm mộ Taylor Swift" với Swifties, cho rằng Swifties là một tiểu văn hóa đặc trưng nhờ vào hiện tượng sôi nổi theo tập thể, không giống như những cộng đồng người hâm mộ khác. Một số nhà ngôn ngữ học gọi ngôn ngữ dựa trên lời bài hát và do người hâm mộ mã hóa của Swifties là "fanilect".[192] López và Chandra đã xuất bản một bản đồ mạng lưới vào năm 2023 và chia Swifties thành sáu phe phái riêng biệt dựa trên các tương tác trực tuyến và chủ đề thảo luận.[194] Nhiều trường đại học đã từng tổ chức các câu lạc bộ hâm mộ nhằm tôn vinh Swift.[195][196][197]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Willman, Chris (ngày 25 tháng 7 năm 2007). “Getting to know Taylor Swift”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2022.
  2. ^ Willman, Chris (ngày 5 tháng 2 năm 2008). “Taylor Swift's Road to Fame”. Entertainment Weekly: 3. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  3. ^ a b “Taylor Swift is peak millennial vibes”. NPR. ngày 21 tháng 10 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2022.
  4. ^ Roland, Tom (ngày 7 tháng 7 năm 2016). “Love Story: The Impact of Taylor Swift's First Decade in Music”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  5. ^ Hasty, Katie (ngày 1 tháng 11 năm 2006). 'Hannah Montana' Trumps My Chem, Legend At No. 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2010.
  6. ^ a b Malec, Jim (ngày 2 tháng 5 năm 2011). “Taylor Swift: The Garden In The Machine”. American Songwriter. tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ Guerra, Joey (ngày 3 tháng 11 năm 2007). “Swift known for sweet sound, but there's more to her”. Houston Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2020.
  8. ^ Walsh, Chris (ngày 27 tháng 12 năm 2007). “Groban, Blige Enjoy Huge Weeks On Album Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  9. ^ Whitaker, Sterling (ngày 24 tháng 10 năm 2021). “15 Years Ago Today: Taylor Swift Releases Debut Album”. Taste of Country. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.
  10. ^ a b Cripps, Charlotte (ngày 21 tháng 6 năm 2013). “Country music star Taylor Swift the new country music is all about”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2023.
  11. ^ a b c Rosen, Jody (ngày 17 tháng 11 năm 2013). “Why Taylor Swift Is the Reigning Queen of Pop”. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2020.
  12. ^ Crummy, Colin (ngày 13 tháng 3 năm 2014). “Detwanging country music: how Nashville took the UK”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2021.
  13. ^ “The Significance of Taylor Swift's Fearless in 2008—and How Taylor's Version Stacks Up”. Time. ngày 9 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2021.
  14. ^ Stewart, Allison (ngày 12 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift's New Take on Fearless Piles on the Nostalgia, Along with Some Revenge”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  15. ^ Jackson, Lauren M. (ngày 12 tháng 11 năm 2018). “10 Years Later, Taylor Swift's Fearless Still Slaps”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2023.
  16. ^ Hull, Tom (ngày 27 tháng 7 năm 2020). “Music Week”. Tom Hull – on the Web. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  17. ^ Hunt, El (ngày 24 tháng 7 năm 2020). “How Taylor Swift's new album 'Folklore', inspired by The National, made dad-rock cool again”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  18. ^ a b “Oxford Word of the Year 2023”. Oxford University Press. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2024.
  19. ^ Swift, Taylor (ngày 29 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift - #VEVOCertified, Pt. 3: Taylor Talks About Her Fans”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023 – qua YouTube.
  20. ^ Rys, Dan (ngày 15 tháng 3 năm 2017). “Taylor Swift Files Nine Trademarks For the Word 'Swifties,' But Why?”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  21. ^ “What Is A "Swiftie"?”. Dictionary.com. ngày 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2024.
  22. ^ a b Khan, Fawzia (ngày 18 tháng 6 năm 2021). “The Might Of Taylor Swift”. Elle. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  23. ^ a b Collins, Katie (ngày 8 tháng 6 năm 2018). “How Taylor Swift flipped online fandom on its head for the better”. CNET. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2023.
  24. ^ a b Yahr, Emily (ngày 15 tháng 5 năm 2023). “The bonding experience of watching a Taylor Swift concert from a parking lot”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  25. ^ Brodesser-Akner, Taffy (ngày 12 tháng 10 năm 2023). “My Delirious Trip to the Heart of Swiftiedom”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2023.
  26. ^ Fanick, Christopher (ngày 1 tháng 5 năm 2019). "Call It What You Want": The Impact of Fan Characteristics on Political Views”. Communication Honors Theses. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  27. ^ Pazzanese, Christina (ngày 2 tháng 8 năm 2023). “So what exactly makes Taylor Swift so great?”. Harvard Gazette. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2023.
  28. ^ Kelley, Lora (ngày 20 tháng 10 năm 2023). “What Taylor Swift Knows”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2023.
  29. ^ a b Tilchen, Jordyn (ngày 21 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift's Fans Have Known Her For 13 Years — This Is How She's Kept Growing With Them”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  30. ^ “Taylor Swift defends fan, gets them tickets after incident at Philadelphia show”. CBS News. ngày 16 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  31. ^ a b c Raza-Sheikh, Zoya (ngày 17 tháng 11 năm 2021). “How Taylor Swift redefined online fandom, from SwiftTok to #Taylurking”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  32. ^ Kawa, Katie; Cartlidge, Cherese (ngày 15 tháng 12 năm 2016). Taylor Swift: Superstar Singer. Greenhaven Publishing LLC. ISBN 978-1-5345-6026-0. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  33. ^ Yahr, Emily (ngày 15 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Avoided and Mocked the Media with 'Reputation.' And It Worked”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2020.
  34. ^ Wang, Jenna (ngày 24 tháng 12 năm 2014). “Fans on Taylor Swift's 'Swiftmas': 'No One in the Music Industry Has as Big a Heart as She Does'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  35. ^ Sodomsky, Sam (ngày 19 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: Speak Now. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2019.
  36. ^ “Of Course Beyoncé Made A Cameo At Taylor Swift's 'Eras' Film Premiere”. Elle. ngày 12 tháng 10 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2023.
  37. ^ Weiner, Natalie (ngày 9 tháng 9 năm 2015). “Taylor Swift Officially the Most-Followed Person on Instagram (Over Kim K and Bey)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  38. ^ Duboff, Josh (ngày 16 tháng 3 năm 2016). “How Did Selena Gomez Become the Most Followed Person on Instagram?”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  39. ^ “Brandwatch's 50 Most Influential People on Twitter 2021”. Brandwatch. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2021.
  40. ^ Ben, Sisario (ngày 5 tháng 8 năm 2023). “How Taylor Swift's Eras Tour Conquered the World”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2023.
  41. ^ Pelzer, Kelsey (ngày 13 tháng 12 năm 2022). “15+ Taylor Swift Nicknames”. Parade. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023.
  42. ^ Frater, Patrick (ngày 4 tháng 12 năm 2023). 'Taylor Swift: The Eras Tour' Film Seeking Release Date in China (EXCLUSIVE)”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2023.
  43. ^ a b Tobin, Meaghan; Wu, Pei-Lin (ngày 29 tháng 12 năm 2023). “Chinese Swifties are ready to shake it off at the Eras movie”. The Washington Post. ISSN 0190-8286. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
  44. ^ Aniftos, Rania (ngày 23 tháng 3 năm 2021). “A Timeline of Taylor Swift's Generosity”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  45. ^ Atkinson, Katie (ngày 3 tháng 1 năm 2018). “Taylor Swift Helps Pregnant Fan Buy a House: 'She Lifted Me Off the Ground'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  46. ^ Plucinska, Joanna (ngày 13 tháng 7 năm 2015). “GoFundMe Raised Its Donation Cap Thanks to Taylor Swift”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  47. ^ “Taylor Swift Fans Donate Thousands For Fan Who Was Killed On The Way Home From Her Concert”. Yahoo!. ngày 26 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  48. ^ a b Yahr, Emily (ngày 20 tháng 10 năm 2022). “How the search for clues in Taylor Swift's music became all-consuming”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
  49. ^ Gambles, Sarah (ngày 23 tháng 7 năm 2023). “The ubiquitous power of Taylor Swift”. Deseret News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2023.
  50. ^ a b Lutz, Ashley (ngày 8 tháng 10 năm 2022). “Taylor Swift's new album proves she is a business genius”. Fortune. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2022.
  51. ^ a b Horton, Adrian (ngày 29 tháng 5 năm 2023). “How Taylor Swift's Eras tour took over America”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
  52. ^ “All the Taylor Swift fan theories that predicted the 1989 (Taylor's Version) announcement”. Hello!. ngày 10 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  53. ^ a b Arthur, Bruce (ngày 26 tháng 9 năm 2023). “Bruce Arthur: Higher, Stronger, Swifter? Taylor Swift goes to a football game and shows she's bigger than the NFL”. Toronto Star. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2023.
  54. ^ Yahr, Emily (ngày 26 tháng 12 năm 2022). “2022: The year in review (Taylor's version)”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2022.
  55. ^ Tannenbaum, Emily. “Taylor Swift Hid a Bunch of Easter Eggs in the All Too Well Short Film”. Glamour. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  56. ^ Suskind, Alex (ngày 9 tháng 5 năm 2019). “New Reputation: Taylor Swift shares intel on TS7, fan theories, and her next era”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  57. ^ Kheraj, Alim (ngày 9 tháng 11 năm 2022). “The curate's Easter egg: how Taylor Swift turned pop into a multiplayer puzzle”. The Guardian. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2023.
  58. ^ a b Unterberger, Andrew (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “The Complete Taylor Swiftology: A Glossary Of Symbols”. Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
  59. ^ Nyce, Caroline Mimbs (ngày 21 tháng 10 năm 2022). “Weirdly, Taylor Swift Is Extremely Close to Creating a True Metaverse”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
  60. ^ Merinuk, Madeline (ngày 21 tháng 10 năm 2022). “How Taylor Swift turned fandom into a scavenger hunt of clues”. Today. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  61. ^ Cụm nguồn tham khảo:  • Adler, Dan (ngày 18 tháng 9 năm 2019). “Taylor Swift Opens Up, Really”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.  • Nicholson, Rebecca (ngày 5 tháng 2 năm 2022). “Richard Moore: even spies don't want to see our Wordle solutions”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.  • Crucchiola, Jordan (ngày 16 tháng 8 năm 2019). “Let's Speculate Wildly About the Meaning of Taylor Swift's Lover Song Titles”. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
  62. ^ Khomami, Nadia (ngày 15 tháng 11 năm 2021). “Where's Taylor Swift's scarf – is it in Jake Gyllenhaal's drawer?”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2022.
  63. ^ Mercado, Mia (ngày 16 tháng 11 năm 2021). “Where the Hell Is Taylor Swift's Scarf?”. The Cut. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.
  64. ^ Yahr, Emily (ngày 12 tháng 11 năm 2021). “The story behind Taylor Swift's 10-minute version of 'All Too Well', the song making fans lose their minds”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  65. ^ Curto, Justin (ngày 22 tháng 12 năm 2020). “Did 2020 Kill the Long, Fancy Pop-Album Rollout for Good?”. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2020.
  66. ^ Gambles, Sarah (ngày 23 tháng 7 năm 2023). “The ubiquitous power of Taylor Swift”. Deseret News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2023.
  67. ^ Friedman, Vanessa (ngày 24 tháng 4 năm 2023). “Taylor Swift and the Sparkling Trap of Constant Reinvention”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2023.
  68. ^ “Glittery Guitars to a New 'Reputation': The Many Eras Taylor Swift”. Billboard. ngày 13 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  69. ^ Lakritz, Talia. “Taylor Swift embarks on her Eras Tour this spring. Here's a guide to every era of her groundbreaking career”. Insider Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2022.
  70. ^ Willman, Chris (ngày 11 tháng 8 năm 2023). “Why Taylor Swift's Eras Road Trip Feels Like the Career-Capping Beatles Tour That Never Happened”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2023.
  71. ^ Nicolau, Elena (ngày 29 tháng 11 năm 2022). “How Taylor Swift is transforming millennial weddings”. Today. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
  72. ^ Pattison, Kate (ngày 21 tháng 9 năm 2023). “How did Taylor Swift get so popular? She never goes out of style”. The Conversation. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2023.
  73. ^ Byelousouva, Anastasia (ngày 13 tháng 5 năm 2020). “Staying Fearless: A Text Analysis of Vulnerability & Connection Through Taylor Swift's Artistry” (PDF). University of Texas at Austin. tr. 56–57. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
  74. ^ Iasimone, Ashley (ngày 13 tháng 11 năm 2021). “Taylor Swift Breaks Spotify Single-Day Streaming Records With 'Red (Taylor's Version)'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2023.
  75. ^ a b Willman, Chris (ngày 20 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift's 'Fearless (Taylor's Version)' Debuts Huge: What It Means for Replicating Oldies, Weaponizing Fans”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2021.
  76. ^ Petrusich, Amanda (ngày 6 tháng 6 năm 2023). “The Startling Intimacy of Taylor Swift's Eras Tour”. The New Yorker. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  77. ^ Aroesti, Rachel (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) review – subtle bonus tracks add new depths to a classic”. The Guardian. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2023.
  78. ^ Mier, Tomás (ngày 23 tháng 5 năm 2023). “Filipino Taylor Swift Stans Packed a Mall to See an Eras Tour Drag Show”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2023.
  79. ^ Cain, Sian (ngày 10 tháng 5 năm 2023). “The Taylor Swift effect: why a mystery book is rocketing up US charts – despite no one knowing anything about it”. The Guardian. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2023.
  80. ^ “The Taylor Swift Effect Is Very Real and It's Now Taking the Sports World by Storm”. The Hollywood Reporter. ngày 29 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2023.
  81. ^ Florsheim, Lane (ngày 4 tháng 12 năm 2023). “No One Can Sell Out $695 Shorts Like Taylor Swift”. The Wall Street Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2023.
  82. ^ Canavan & McCamley 2020, tr. 222–230.
  83. ^ Brian, Donovan (ngày 27 tháng 6 năm 2023). “How Taylor Swift's Eras Tour transcended pop music”. MSNBC. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2023.
  84. ^ a b della Cava, Marco; Ryan, Patrick (ngày 31 tháng 8 năm 2023). “Taylor Swift is 'in a class of her own right now,' as Eras tour gives way to Eras movie”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2023.
  85. ^ #Zokovitch, Grace (ngày 16 tháng 5 năm 2023). 'A legend's coming:' Taylor Swift mania descends on Boston ahead of weekend concerts”. Boston Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
    1. “Taylor Swift mania explained”. CBS News. ngày 26 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
    2. O'Reagan, Ellen (ngày 14 tháng 7 năm 2023). “Swiftflation: star's pulling power likely to push up prices”. The Irish Times. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2023.
  86. ^ McMarlin, Shirley (ngày 13 tháng 6 năm 2023). “How popular is Taylor Swift? It's the 2023 version of Beatlemania”. Pittsburgh Tribune-Review. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2023.
  87. ^ Bream, Jon (ngày 24 tháng 6 năm 2023). “Taylor Swift delivers the most fan-fulfilling concert of all time in Minneapolis”. Star Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2023.
  88. ^ Roeloffs, Mary Whitfill. “Swifties Take NFL: Ratings Soared For Chiefs Game As Taylor Swift Cheered On Travis Kelce”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2023.
  89. ^ Grein, Paul (ngày 31 tháng 8 năm 2022). “Producers of 2022 VMAs on Why They Think the Ratings Ticked Up This Year: 'All the Stars Aligned'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2023.
  90. ^ Robidoux, Brandy; Curran, Amanda; Reece, Adrianne (ngày 20 tháng 3 năm 2023). “These 16 Celebrities Are Self-Proclaimed Taylor Swift Fans”. Elite Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023.
  91. ^ “Do You Know About These Celebrities Who Are Hardcore Swifties?”. Yahoo! News. ngày 25 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023.
  92. ^ Arnold, Gina (ngày 2 tháng 1 năm 2021). “I Don't Give a Damn About Your Bad Reputation: Taylor Swift, Beyoncé Knowles, and Performance”. Contemporary Music Review. 40 (1): 27–40. doi:10.1080/07494467.2021.1945224. ISSN 0749-4467. S2CID 238241113. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  93. ^ Sisario, Ben (ngày 21 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift Criticism Spurs Apple to Change Royalties Policy”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
  94. ^ Linshi, Jack (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Here's Why Taylor Swift Pulled Her Music From Spotify”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
  95. ^ Patel, Nilay (ngày 7 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift doesn't understand supply and demand”. Vox. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2023.
  96. ^ Sisario, Ben (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Sales of Taylor Swift's 1989 Intensify Streaming Debate”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2019.
  97. ^ Mansfield, Brian (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Officially Pop, Taylor Swift Embraces Being Unafraid”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2023.
  98. ^ Knopper, Steve (ngày 21 tháng 10 năm 2014). “Can Taylor Swift's 1989 Save Ailing Music Industry?”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2019.
  99. ^ a b Grady, Constance (ngày 9 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift puts all her music back on streaming, continues to be a PR genius”. Vox. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
  100. ^ Young, Alex (ngày 20 tháng 1 năm 2022). “Taylor Swift, the indisputable Queen of Vinyl, named 2022 Record Store Day Ambassador”. Consequence. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2022.
  101. ^ Kaufman, Gil (ngày 20 tháng 1 năm 2022). “Taylor Swift Tapped as First Record Store Day Global Ambassador”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  102. ^ Golsen, Tyler (ngày 20 tháng 1 năm 2022). “Why Taylor Swift is the perfect ambassador for Record Store Day”. Far Out Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2022.
  103. ^ “Taylor Swift fans share tips on how to make old 'Fearless' album disappear”. The Independent. ngày 9 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2021.
  104. ^ Kornhaber, Spencer (ngày 18 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift Is Waging Reputational Warfare”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
  105. ^ Brandle, Lars (ngày 14 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift Fans Launch Online Petition Against Scooter Braun, Scott Borchetta”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2022.
  106. ^ Bowenbank, Starr (ngày 29 tháng 4 năm 2022). “Scooter Braun Talks Taylor Swift Re-Recording Music, Says He Disagrees With Artists 'Weaponizing a Fanbase'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
  107. ^ Kelly, Kate; Coscarelli, Joe; Sisario, Ben (ngày 24 tháng 11 năm 2019). “How Taylor Swift Dragged Private Equity into Her Fight Over Music Rights”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.
  108. ^ “Taylor Swift sics fans on Scooter Braun, The Carlyle Group”. The A. V. Club. ngày 15 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.
  109. ^ Jagannathan, Meera. “Taylor Swift is squaring off with private-equity giant Carlyle Group – here's how the combatants stack up”. MarketWatch. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.
  110. ^ Psyllou, Maria (ngày 18 tháng 8 năm 2023). “Taylor Swift's Eras tour: A harmonious overture of the trickle-down effect on local economies”. University of Birmingham. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2023.
  111. ^ Pandey, Erica (ngày 12 tháng 5 năm 2023). “Inside the booming Taylor Swift economy”. Axios. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2023.
  112. ^ Kaplan, Juliana. “Welcome to Swift City: When Taylor Swift comes to town, businesses build new bars, prepare thousands of cookies, and welcome over 150,000 Swifties”. Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
  113. ^ Murray, Conor. “Taylor Swift's 'Eras Tour' Has Mayors Competing For Her Attention—Here's What They've Given Her So Far”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2023.
  114. ^ Jeffrey, Jeff (ngày 3 tháng 5 năm 2023). “How Taylor Swift's Eras Tour boosted Houston's hotels”. Houston Business Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2023.
  115. ^ Savaira, Augusta (ngày 23 tháng 11 năm 2022). “Welcome to 'Swiftonomics': What Taylor Swift reveals about the U.S. economy”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  116. ^ Pallotta, Frank (ngày 16 tháng 11 năm 2022). “Taylor Swift tickets listed for thousands on StubHub after millions flood Ticketmaster”. CNN Business. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2022.
  117. ^ Jones, C. T. (ngày 15 tháng 11 năm 2022). “Taylor Swift Tickets Are On Sale. Fans Say It's Their Hunger Games”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2022.
  118. ^ Sharf, Zack (ngày 17 tháng 11 năm 2022). “Ticketmaster Cancels Taylor Swift Tour's Public Tickets Sale Due to 'High Demand' and 'Insufficient Inventory'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022.
  119. ^ Timsit, Annabelle (ngày 14 tháng 12 năm 2022). “Ticketmaster to sell some fans more Taylor Swift tickets after presale fiasco”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2022.
  120. ^ DeVille, Chris (ngày 16 tháng 11 năm 2022). “Taylor Swift Ticket Debacle: Lawmakers Demand Breakup Of Ticketmaster "Monopoly". Stereogum. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2022.
  121. ^ McCabe, David; Sisario, Ben (ngày 18 tháng 11 năm 2022). “Justice Department Said to Investigate Ticketmaster's Parent Company”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2022.
  122. ^ Daly, Rhian (ngày 15 tháng 2 năm 2023). “Live Nation antitrust lawsuit thrown out because buyers waived right to sue”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2023.
  123. ^ Tucker-Smith, Owen (ngày 15 tháng 6 năm 2023). “How Biden and Taylor Swift beat Ticketmaster”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2023.
  124. ^ “The biggest pop culture moments of 2022”. Entertainment Weekly. ngày 22 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2022.
  125. ^ “2022's biggest pop culture news stories”. The A.V. Club. ngày 29 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2022.
  126. ^ Morrow, Allison (ngày 25 tháng 1 năm 2023). “One nation, under Swift”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2023.
  127. ^ Jennings, Rebecca (ngày 1 tháng 6 năm 2022). “Staring down 30 at the Taylor Swift dance party”. Vox. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2022.
  128. ^ Bensadoun, Emerald (ngày 26 tháng 11 năm 2022). “Taylor Swift dance parties are the benevolent alternative to clubbing you never knew you needed”. The Globe and Mail. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2022.
  129. ^ Mahdawi, Arwa (ngày 26 tháng 7 năm 2023). “Taylor Swift rules the airwaves! But that's bad news for music”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2023.
  130. ^ Solomon, Kate (ngày 9 tháng 8 năm 2023). 'I love being part of a collective female experience': inside the all-Taylor Swift club night sweeping the UK”. The Guardian. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2023.
  131. ^ Aniftos, Rania (ngày 4 tháng 10 năm 2023). 'Dancing With the Stars' Will Have a Taylor Swift Night This Season”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  132. ^ Pointer, Flisadam (ngày 9 tháng 12 năm 2023). 'The Voice' Is Ready To Pay Homage To Taylor Swift With A Special Night Dedicated To Her Chart-Topping Songs”. Uproxx. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  133. ^ Carr, Mary Kate (ngày 28 tháng 9 năm 2023). “Taylor Swift and the "ketchup and seemingly ranch" phenomenon”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2023.
  134. ^ Wickman, Kase (ngày 28 tháng 9 năm 2023). “Taylor Swift Has Ushered In the "Seemingly Ranch" Marketing Bonanza”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2023.
  135. ^ Treisman, Rachel (ngày 28 tháng 9 năm 2023). “The journey of 'seemingly ranch,' from meme to top of the Empire State Building”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  136. ^ Blancaflor, Saleah; Briggs, Ellyn (ngày 14 tháng 3 năm 2023). “The Taylor Swift Fandom Is White, Suburban and Leans Democratic”. Morning Consult. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2023.
  137. ^ Slanksy, Paul (ngày 10 tháng 6 năm 2023). “The Rise of the Senior Swiftie”. Air Mail. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  138. ^ Schultz, Brooke (ngày 22 tháng 11 năm 2022). “Taylor Swift ticket trouble could drive political engagement”. Associated Press News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  139. ^ Austin, Ellie (ngày 18 tháng 4 năm 2023). “Taylor Swift: the superstar who bridges America's political divide”. The Times. ISSN 0140-0460. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  140. ^ Garcia, Ariana (ngày 23 tháng 5 năm 2023). “Greg Abbott signs 'Save our Swifties' law to ban ticket-sale bots”. Houston Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2023.
  141. ^ Carver, Jayme Lozano (ngày 23 tháng 5 năm 2023). “Texas lawmakers ban bots that buy concert tickets after Taylor Swift Eras tour glitch”. The Texas Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2023.
  142. ^ Salcedo, Andrea; Mark, Julian (ngày 12 tháng 6 năm 2023). “Angry Taylor Swift fans push lawmakers to take on Ticketmaster”. The Washington Post. ISSN 0190-8286. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2023.
  143. ^ Knopper, Steve (ngày 15 tháng 6 năm 2023). “Hate Ticketmaster? Love Taylor Swift? Politicians Are Backing New Bills to Get Your Vote”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2023.
  144. ^ “Chile's new president (Taylor's version): Gabriel Boric is a Swiftie”. Los Angeles Times. ngày 21 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  145. ^ Singh, Surej (ngày 17 tháng 5 năm 2022). “Leni Robredo's fans are campaigning for a meeting with Taylor Swift”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  146. ^ “CH Awards: vote nos destaques da música nacional e internacional em 2020”. Capricho (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2020.
  147. ^ Blake, Emily (ngày 26 tháng 3 năm 2014). “Rihanna, Justin Timberlake Lead iHeartRadio Nominees: See The Full List”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2015.
  148. ^ Vain, Madison (ngày 29 tháng 3 năm 2015). “iHeart Radio Music Awards 2015: And the winners are...”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2015.
  149. ^ Blistein, Jon (ngày 9 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift, the Weeknd Lead iHeartRadio Music Awards Noms”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2016.
  150. ^ “Rihanna, Taylor Swift, Ed Sheeran Lead iHeartRadio Music Award Nominees”. Variety. ngày 10 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  151. ^ Sippell, Margeaux (ngày 27 tháng 2 năm 2019). “Taylor Swift to Be Honored at iHeart Radio Music Awards”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2019.
  152. ^ “2020 iHeartRadio Music Awards Nominees Revealed: See the Full List”. iHeartRadio. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2020.
  153. ^ Fields, Taylor (ngày 28 tháng 5 năm 2021). “2021 iHeartRadio Music Awards: See The Full List Of Winners”. iHeartRadio. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  154. ^ Fields, Taylor. “2022 iHeartRadio Music Awards: See The Full List of Nominees”. iHeartRadio. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2022.
  155. ^ Grein, Paul (ngày 11 tháng 1 năm 2023). “Jack Harlow Scores Two Song of the Year Nods for 2023 iHeart Radio Awards: Full Nominations List”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2023.
  156. ^ Fields, Taylor (ngày 18 tháng 1 năm 2024). “2024 iHeartRadio Music Awards Nominees Revealed”. iHeartRadio. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2024.
  157. ^ “MTV EMA 2015 Nominations”. MTV Europe Music Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2015.
  158. ^ “Breaking: The 2017 MTV EMA Nominations Are Here!”. MTV Europe Music Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  159. ^ “Camila Cabello, Ariana Grande, Post Malone Lead 2018 MTV EMA Nominees”. Billboard. ngày 4 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
  160. ^ Roth, Madeline (ngày 3 tháng 11 năm 2019). “2019 MTV EMA Winners: See The Full List”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2019.
  161. ^ “Lady Gaga, BTS, Justin Bieber Lead 2020 MTV EMA Nominations”. Variety. ngày 6 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2020.
  162. ^ Grein, Paul (ngày 20 tháng 10 năm 2021). “Justin Bieber Leads 2021 MTV EMA Nominations”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  163. ^ “2022 MTV EMA Winners: See The Full List”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.
  164. ^ “MTV Recognizes Artists with 2023 MTV EMA Awards”. MTV Europe Music Awards. ngày 4 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2023.
  165. ^ “MTV Fandom Awards: The nominees (and hosts!) are...”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2020.
  166. ^ “Nickelodeon Unveils 2013 Kids' Choice Award Nominees”. Foxtel. ngày 14 tháng 2 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  167. ^ “Vota para los KCA Mexico 2023”. Kids' Choice Awards México 2023 - Artista Global Fav. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2023.
  168. ^ “2015 Nickelodeon Kids' Choice Awards”. Nickelodeon. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2015.
  169. ^ “The Flaming Lips, Taylor Swift Lead O Music Awards Nominations”. Grammy Award. ngày 1 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  170. ^ Hochman, David (ngày 27 tháng 4 năm 2014). “Radio Disney Music Awards 2014: Full List Of Winners”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  171. ^ “Taylor Swift & Justin Bieber Lead Radio Disney Music Awards Nominations”. Billboard. ngày 4 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2016.
  172. ^ Nordyke, Kimberly (ngày 10 tháng 8 năm 2014). “Teen Choice Awards: The Complete Winners List”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  173. ^ Weatherby, Taylor (ngày 13 tháng 6 năm 2018). “Taylor Swift, Drake, Cardi B & More Among Teen Choice Awards 2018 Nominees: See the Full List”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2018.
  174. ^ Moreau, Jordan (ngày 19 tháng 6 năm 2019). 'Avengers: Endgame,' 'Riverdale,' 'Aladdin' Top 2019 Teen Choice Award Nominations”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2019.
  175. ^ Grisafi, Patricia (ngày 6 tháng 6 năm 2023). “Matty Healy exposed the dark side of the Taylor Swift parasocial fantasy”. MSNBC. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2023.
  176. ^ Rascoe, Ayesha (ngày 17 tháng 4 năm 2023). “Taylor Swift fans are upset over reports of her breakup. A psychologist explains why”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2023.
  177. ^ Carras, Christi (ngày 21 tháng 8 năm 2023). “Wedding Crashers (Taylor's Version): Swifties swarm Jack Antonoff and Margaret Qualley's nuptials”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2023.
  178. ^ “Fans Think Taylor Swift's Outfit Is a Message as "Leave Her Alone" Trends on Twitter”. Cosmopolitan. ngày 23 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
  179. ^ Panella, Chris. “Taylor Swift fans sent me death threats, doxxed my family, and accused me of being a pedophile after I criticized her Eras Tour”. Insider Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  180. ^ published, Zoe Guy (ngày 4 tháng 3 năm 2021). “Taylor Swift Fans are Attacking 'Ginny and Georgia' Star Antonia Gentry for the Show's Lame Joke”. Marie Claire. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  181. ^ Schwedel, Heather (ngày 16 tháng 11 năm 2021). “A Comprehensive Explanation of Why Taylor Swift Fans Seem Ready to Commit Homicide on Jake Gyllenhaal”. Slate. ISSN 1091-2339. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  182. ^ Arnold, Amanda; Fakuade, Melinda (ngày 22 tháng 11 năm 2019). “Untangling the Incredibly Complicated Taylor Swift–Scooter Braun Feud”. The Cut. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
  183. ^ Fenwick, Julie (ngày 28 tháng 6 năm 2023). “Australia Has No Idea How to Handle the Cult of Taylor Swift”. Vice. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2023.
  184. ^ Nguồn về Gaylor:
  185. ^ Lopez, Cristina; Chandra, Avneesh (ngày 12 tháng 4 năm 2023). “Now We Got Bad Blood”. Graphika. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
  186. ^ Sachdeva, Maanya (ngày 8 tháng 1 năm 2024). “Taylor Swift fans criticise New York Times over piece speculating about her sexuality”. The Independent. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2024.
  187. ^ Echarri, Miquel (ngày 20 tháng 7 năm 2023). “Civil war between Taylor Swift fans: Gaylors vs Hetlors”. El País. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  188. ^ Schillaci, Sophie (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift Addresses Bisexuality Rumors in '1989 (Taylor's Version)'. Entertainment Tonight. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  189. ^ Dailey, Hannah (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift Reflects on Rumors of Her Sexuality & Defends Her Squad in '1989 (Taylor's Version)' Prologue”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2023.
  190. ^ Darcy, Oliver (ngày 6 tháng 1 năm 2024). “Taylor Swift's associates dismayed by New York Times piece speculating on her sexuality: 'Invasive, untrue and inappropriate'. CNN Business. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  191. ^ Jones, C. T. (ngày 27 tháng 10 năm 2023). 'Gaylors' Respond to '1989 (Taylor's Version)' Intro Line About 'Sexualizing' Friendships”. Rolling Stone. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  192. ^ a b Guiterrez, Lisa (ngày 24 tháng 5 năm 2023). “Taylor Swift and her fans are such a phenomenon, this KU professor is studying them”. The Kansas City Star. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  193. ^ Canavan, Brendan; McCamley, Claire (ngày 1 tháng 2 năm 2020). “The passing of the postmodern in pop? Epochal consumption and marketing from Madonna, through Gaga, to Taylor”. Journal of Business Research. 107: 222–230. doi:10.1016/j.jbusres.2018.12.005. ISSN 0148-2963. S2CID 158595297.
  194. ^ a b Lopez, Cristina; Chandra, Avneesh (ngày 12 tháng 4 năm 2023). “Now We Got Bad Blood”. Graphika. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2023.
  195. ^ Woehrle, Hannah (ngày 4 tháng 11 năm 2022). “MSU students form 'Taylor Swift Club,' bonding over shared love for her music”. The State News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  196. ^ “How one student's pandemic listening kickstarted a Taylor Swift fan club”. The Peak. ngày 16 tháng 5 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  197. ^ Marshall, Cooper (ngày 20 tháng 10 năm 2022). “OU Taylor Swift Fan Club hosts trivia, song discussions, watch, listening parties, helps 'Swifties' build connections”. OU Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.