Tàu địa ngục
Tàu địa ngục (tiếng Anh: Hell ship, tiếng Nhật: ヘルシップ) là từ chỉ tàu thủy và tàu chiến được Nhật Bản dùng để vận chuyển tù binh phe Đồng minh trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Tàu cũng chở cả tù nhân dân sự, lao động cưỡng bức rōmusha và những phụ nữ mua vui.
Biệt danh này phản ánh điều kiện vô nhân đạo dành cho tù nhân trên tàu. Tù nhân bị nhồi nhét trong hầm tàu thiếu thông gió và không đủ vệ sinh. Họ không được phát đủ thức ăn nước uống và bị quân Nhật đối xử tàn tệ. Thương bệnh binh không nhận được hỗ trợ y tế. Hậu quả là có vô số người đã chết vì đói khát, kiệt sức, bệnh tật và thiếu dưỡng khí. Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất cho tính mạng tù nhân lại chính là các cuộc tấn công của tàu ngầm và máy bay Đồng minh. Trong khoảng thời gian 1942-1945, ít nhất hàng chục tàu địa ngục đã bị Anh Mỹ đánh chìm. Số lượng nạn nhân có thể lên đến hàng nghìn người.
Các nguồn Nhật Bản tiết lộ con số khoảng 50.000 tù nhân được chuyên chở trên các tàu địa ngục, gần 10.800 người chết trên đường đi. Theo một số nhà nghiên cứu thì số nạn nhân có thể lên tới 21-22.000 người. Tàu địa ngục là nguyên nhân gây tử vong lớn thứ nhì cho tù binh Đồng minh bị Nhật Bản giam giữ, sau các trại lao động phục vụ xây dựng Đường sắt Miến Điện.
Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Đế quốc Nhật Bản đã bắt giữ khoảng 320.000 tù nhân là lính Đồng minh, trong đó khoảng 140.000–144.000 người gốc Âu (Mỹ, Úc, Anh, Hà Lan, Canada và New Zealand). Phần lớn tù binh bị bắt trong sáu tháng đầu tiên của cuộc chiến, khi Nhật chủ động tấn công.[1][2]
Nhật thường dùng tàu thủy để vận chuyển tù nhân. Gavan Daws ước tính rằng cứ ba tù binh Đồng minh thì ít nhất một người được chở bằng đường biển từ một lần trở lên.[3]
Những tàu này cũng chở cả những người lao động cưỡng bức (rōmusha), chủ yếu là từ Trung Quốc, Triều Tiên hoặc Đông Ấn Hà Lan. Ngoài ra, trên tàu còn có phụ nữ mua vui châu Á bị ép làm gái mại dâm trong các nhà thổ quân đội.[4]
Tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]Tên gọi tiếng Anh Hell ship là do các tù binh sống sót trên những tàu này đặt ra về sau. Theo đó, cái tên này thường xuất hiện nhiều nhất trong sử sách.[5][6][7]
Một số sử gia và cựu chiến binh so sánh tàu địa ngục với những con tàu buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương thời cận đại.[5][8] Jean-Louis Margolin và Van Waterford lại liên tưởng chúng với những tàu giam (prison ship) thời Cách mạng Mỹ, Cách mạng Pháp và Nội chiến Hoa Kỳ.[6][9] Thuật ngữ Prison Ship cũng được Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông sử dụng trong phán quyết.[10]
Tù nhân cũng đặt tên riêng cho từng con tàu, thường thể hiện nỗi mỉa mai phản ánh điều kiện thực trạng trên đó. Trong hồi ký và lời tường thuật có nêu các tên như: Banana Maru,[a] Benjo Maru,[b] Byōki Maru,[c] Diarrhea Maru,[d] Dysentery Maru,[e] Horror Maru,[f] Hotsy Maru,[g] Mati Mati Maru,[h] Mucky Maru[i] hoặc Stinko Maru.[j][k][11][13]
Tổ chức vận chuyển tù nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Theo quy định, Hải quân Đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm vận chuyển tù nhân bằng đường biển.[14] Các sĩ quan Tokkeita thường giám sát khi tàu địa ngục đổ bộ.[15] Nhưng Lục quân Đế quốc Nhật Bản cũng tham gia, đặc biệt là Phòng 3 thuộc Bộ Tổng tham mưu chịu trách nhiệm vận chuyển và thông tin liên lạc. Tại mọi cảng lớn ở Nhật và các quốc gia bị chiếm đóng, lục quân đều có văn phòng hợp tác với hải quân, chịu trách nhiệm cung cấp, bốc dỡ và lập biểu đồ tuyến hàng hải phục vụ chiến tranh. Lục quân thậm chí còn có tàu riêng với mục đích chở tù nhân, lao động cưỡng bức và "phụ nữ mua vui".[16]
Hai cảng đóng vai trò then chốt trong quá trình vận chuyển tù binh bằng đường biển:
- Manila - Căn cứ hải quân đặc biệt số 31 của Nhật Bản. Tù binh Mỹ bị bắt trong Chiến dịch Philippines thường bị lùa lên tàu khởi hành từ đây. Tuyến hàng hải chính thường dẫn qua Formosa hướng tới Quần đảo Nhật Bản.[17]
- Singapore - Căn cứ hải quân đặc biệt số 10 của Nhật Bản. Điểm đến hoặc đi cho những tàu chở tù binh bị bắt ở Đông Nam Á (Anh, Úc, Mỹ, Hà Lan). Từ Singapore, tuyến đường biển dẫn đến các cảng ở Miến Điện, Borneo và Đông Ấn Hà Lan, Quần đảo Bismarck, hay qua Sài Gòn, Formosa hướng tới quần đảo Nhật Bản.[17]
Tại Quần đảo Nhật Bản, tàu địa ngục thường cập cảng Moji trên đảo Kyushu.[18]
Với hành trình dài, quân Nhật chở tù binh bằng những con tàu lớn vốn chở hàng và chở khách. Ngược lại, các tàu nhỏ hơn được dùng khi khoảng cách vận chuyển ngắn như phà, tàu chở hàng nhỏ, thậm chí cả thuyền và thuyền buồm.[19]
Lịch trình và điểm đến
[sửa | sửa mã nguồn]1942
[sửa | sửa mã nguồn]Tàu chở khách Argentina Maru và Nitta Maru là những tàu chuyên chở tù binh đầu tiên.[20] Ngày 10 tháng 1 năm 1942, Argentina Maru khởi hành mang theo dưới hầm 800 lính và thường dân Mỹ bị bắt trên đảo Guam.[21] Chiếc thứ hai lên đường hai ngày sau đó, hầm chứa khoảng 1.222 tù binh và thường dân Mỹ bị bắt trong Trận đảo Wake.[22]
Những hành trình đầu tiên chủ yếu chở tù binh ra khỏi vùng chiến sự trực tiếp.[23] Tuy nhiên, bộ chỉ huy Nhật Bản sớm thấy rằng nó có thể phục vụ cho lao động cưỡng bức.[24][25] Từ tháng 4 năm 1942, tàu địa ngục bắt đầu vận chuyển tù nhân đến những cảng Miến Điện để phục vụ cho kế hoạch xây dựng đường sắt.[26] Các tàu này thường khởi hành từ Singapore và Java, nơi có các trại tù binh chiến tranh là nguồn cung cấp nhân lực chính cho "đường sắt tử thần".[27]
Đồng thời, hàng loạt tàu chở tù binh chạy về phía bắc, từ các cảng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương tới Quần đảo Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và ít thường xuyên hơn tới Trung Quốc đại lục.[28] Nhật không chỉ có toan tính về kinh tế mà cả chính trị. Tháng 8, gần 1.500 tù binh được chuyển từ Singapore đến Triều Tiên để "giúp xóa đi lòng tôn trọng và ngưỡng mộ mà dân Hàn dành cho Anh và Mỹ, đồng thời củng cố niềm tin vào chiến thắng của Nhật Bản."[29]
Dù vào năm 1942, đa số là các hành trình theo trục nam-bắc, vẫn có những chuyến chuyên chở ngắn hơn, như từ Singapore đến Borneo, giữa các đảo thuộc Philippines và Đông Ấn Hà Lan. Ngoài ra, ba tàu địa ngục nữa đã khởi hành từ Wake đến Nhật Bản, khoảng 600 tù nhân Anh được chở từ Singapore đến Rabaul rồi đi tiếp đến Balalae ở Quần đảo Shortland.[30] Một nhóm lao động cưỡng bức người Hoa cũng được gửi đến Chuuk.[31]
Nhà nghiên cứu Gregory F. Michno phát hiện ra rằng cho đến cuối năm 1942, Nhật đã dùng 54 tàu để vận chuyển 49.459 tù nhân.[32] Số lượng tàu địa ngục lớn nhất, ít nhất là 18 chiếc, rời bến vào tháng 10 (số lượng tàu địa ngục lớn nhất trong các hải trình hàng tháng trong chiến tranh).[27] Mỗi hải trình kéo dài trung bình 10 ngày, 2.240 tù binh bị giết hoặc tử vong, chiếm 4,5% tổng số chuyên chở.[32]
1943
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1943, tàu địa ngục rời bến không thường xuyên như trước, do số đông tù nhân đã được chuyên chở trong năm 1942 để phục vụ cho các công trình xây dựng khác nhau hoặc hầm mỏ và nhà máy tại Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á.[33]
Nếu năm 1942 chủ yếu là các hành trình dọc theo trục nam-bắc chiếm ưu thế thì các hành trình trong 1943 cũng diễn ra theo trục đông-tây với tần suất tương tự, tức là giữa các đảo thuộc Đông Ấn Hà Lan hoặc giữa Singapore và Borneo.[34]
Theo Michno, trong năm 1943, Nhật dùng 41 tàu địa ngục vận chuyển cả thảy 23.343 tù nhân. Hành trình trung bình mất 9,8 ngày, 964 tù binh bị giết hoặc tử vong, chiếm 4,1% tổng số.[35]
1944–1945
[sửa | sửa mã nguồn]Vào giai đoạn cuối chiến tranh, xu hướng chủ yếu là chuyển tù binh, sĩ quan và binh lính Đồng minh có khả năng kỹ thuật đến Quần đảo Nhật Bản hoặc những vùng lân cận.[36][37]
Năm 1944, ba nhóm tù binh lớn được chở từ Singapore đến Nhật Bản, mỗi lần huy động từ hai đến năm tàu. Nhiều tàu địa ngục cũng khởi hành từ Philippines đi quần đảo Nhật Bản hoặc Đài Loan,[38] chuyên sơ tán đại đa số tù nhân còn lại trên đảo. Vì vậy, quân của Douglas MacArthur chỉ giải thoát được khoảng 1.300 tù binh khỏi các trại giam trên đảo.[39] Bên cạnh đó, các tuyến khác vẫn được duy trì, như giữa các đảo Philippines hoặc Đông Ấn Hà Lan.[38]
Theo Michno, trong năm 1944, Nhật dùng 53 tàu địa ngục vận chuyển 47.057 tù nhân. Hành trình trung bình dài 11,7 ngày. 17.383 tù binh bị giết hoặc tử vong, chiếm 37%.[40]
Năm 1945 chỉ có 8 chuyến tàu địa ngục. 4 chuyến từ Formosa tới Quần đảo Nhật Bản, 1 chuyến từ Singapore tới Sài Gòn, 1 chuyến từ Java tới Singapore, còn 2 chuyến là nội tuyến Đông Ấn Hà Lan. Tổng cộng chở 6.655 tù binh, 452 người chết, chiếm 6,8%.[41]
Điều kiện trên tàu
[sửa | sửa mã nguồn]Vệ sinh, ăn uống, điều trị
[sửa | sửa mã nguồn]Trong các phiên tòa hậu chiến, những bị cáo người Nhật khẳng định rằng điều kiện vận chuyển tù binh Đồng minh cũng khó khăn giống như chuyên chở chính quân binh Nhật. Ý kiến này hoàn toàn có cơ sở.[42] Khi chuyển quân qua các vùng biển nhiệt đới trong Chiến tranh Thái Bình Dương, lính Nhật cũng phải ngồi trong hầm chứa nóng nực bít bùng, chỉ được khẩu phần ăn tối thiểu.[3][43][44] Thậm chí có trường hợp binh lính và tù binh ngồi chung hầm, đồ ăn phát ra là như nhau.[45] Ngoài ra, trong chiến tranh với Nga, bộ chỉ huy Nhật áp dụng quy định vận chuyển quân đội bằng đường biển, mật độ đưa ra là một người lính trên mỗi tsubo (坪 bình, đơn vị đo lường tương ứng với 3,3 m²), nói cách khác là một binh sĩ trên 3 tấn giãn nước. Tiêu chuẩn tương tự cũng được áp dụng khi chở tù nhân.[46][47]
Tuy nhiên, do tình hình thời chiến, giới hạn về mật độ dần được nâng lên. Năm 1941, cứ 2/3 tsubo hay 2 tấn giãn nước thì thêm một người lính. Giới hạn năm 1944 là một lính trên 1/3 tsubo hoặc 2 người trên 1 tấn giãn nước.[46][47] Khi tình hình chiến sự xấu đi, Nhật áp dụng khẩu hiệu chōmansai tạm dịch là "cực kỳ đầy tải".[48] Hậu quả là tù binh bị nhồi nhét trong hầm tàu đến mức phải ngồi xếp bằng suốt hành trình.[49] Với các hải trình dài ngày, tù nhân chỉ có thể ngủ hoặc đi vệ sinh theo ca.[47] Thông thường, tù nhân phải ở dưới hầm tàu suốt hành trình.[50] Nhưng cũng có khi hầm tàu dùng để chứa vật liệu khí cụ chiến tranh hoặc nguyên liệu, nên buộc tù nhân phải ở trên boong không được che chắn bảo vệ khỏi các yếu tố thời tiết.[51]
Về cơ bản, tù nhân bị coi là hạng thấp nhất,[47] bị đối xử như hàng hóa.[16] Trên tàu địa ngục, cabin ở boong trên thường dành cho dân sự Nhật, còn lính Nhật và "hầu nữ" ở boong dưới.[43] Tù nhân bị nhồi vào những hầm chứa thấp nhất hoặc hầm than, không có hệ thống thông gió hoặc thiết bị vệ sinh. Những nơi này thường đầy bụi gạo hay bụi đường, bụi than hay phân ngựa.[47][52] Đi trong vùng nhiệt đới, nhiệt độ dưới hầm có thể lên tới gần 50°C.[53][54] Tù nhân nhiều khi chỉ còn cách đi vệ sinh vào xô, hộp, rồi về sau được giòng dây kéo lên.[55][l] Trong hồi tưởng của các cựu tù nhân, vệ sinh là khía cạnh tồi tệ nhất trong hành trình "địa ngục".[57] Cũng có khi tù nhân bị chở chung với thuốc nổ, đạn pháo hoặc các vật liệu nguy hiểm khác.[16]
Để không lãng phí không gian bổ sung dụng cụ nhà bếp, tù nhân chỉ được phát đồ ăn nguội, đôi khi chỉ là hoa quả trái cây.[58] Do đó, có tàu được đặt biệt danh là Banana Maru (tàu chuối).[43] Khẩu phần thức ăn và nước uống thường là không đủ.[49] Tù nhân bị thương hay ốm bệnh thường không có thuốc hay chăm sóc y tế.[52] Ngoài ra, các lính canh và thủy thủ Nhật đối xử với tù nhân rất tàn bạo. Lời kể sau này cho biết thuyền trưởng hay thủy thủ trên các thương thuyền Nhật còn đối xử tương đối tốt, chứ lính Hải quân Đế quốc Nhật Bản thì tàn bạo và tàn nhẫn hơn rất nhiều.[46]
Khi đến Moji hoặc các cảng khác tại Nhật, trước tiên tù nhân bị dồn lên bờ, những ai mắc kiết lỵ cũng không được dùng nhà vệ sinh. Sau đó, họ bị xịt dung dịch tẩy uế, tiếp theo là các thủ tục kiểm tra "hải quan", "nhập cư" và "y tế", tịch thu nốt đồ đạc còn sót lại. Người bệnh nặng được chuyển đến bệnh viện quân đội, còn lại bị đưa đến trại tù binh chiến tranh. Lính Nhật khuyến khích thường dân kể cả học sinh hãy khạc nhổ, đánh đập hoặc chửi rủa tù nhân.[18]
Tuy điều kiện trên tàu địa ngục thường rất tồi tệ nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Điều này phụ thuộc vào tình trạng kỹ thuật, số lượng tù nhân, thời gian hành trình hoặc thái độ của lính Nhật.[59] Trong những năm chiến tranh đầu tiên, có những tàu vẫn đủ không gian cho tù binh, thậm chí họ còn được tự do lên boong.[60] Tháng 1 năm 1943, trên tàu Tatsuta Maru từ Hồng Kông đi Nagasaki, một số tù nhân bị nhét dưới hầm nhưng những người khác được ở trên khoang hành khách.[61] Cũng có khi khẩu phần ăn đầy đủ, thậm chí còn tốt hơn nếu so với trại tù thời chiến.[57][62]
Thời gian hành trình
[sửa | sửa mã nguồn]Lên lịch và tổ chức hành trình thường bị gián đoạn do thời tiết xấu và quản lý yếu kém, có thể kể cả việc cho tù nhân xuống tàu lộn xộn.[63] Một số tác giả chung quan điểm rằng khi chiến tranh càng kéo dài thì điều kiện vận chuyển tù nhân bằng đường biển càng xấu đi, chủ yếu do hành trình cũng bị mất thêm nhiều thời gian. Khi tình hình chiến sự không tốt, hải quân Nhật không thể bảo vệ các tuyến hành trình một cách hiệu quả. Thuyền trưởng buộc phải áp dụng nhiều biện pháp thiểu nguy cơ bị tấn công: đi gần bờ, qua đêm ở cảng hoặc vịnh, lưu lại lâu ngày ở cảng quá cảnh trung gian. Do đó, thời gian giam giữ trên tàu lâu hơn và số người chết gia tăng.[11][64]
Bốn chuyến hải trình dài nhất của các tàu địa ngục đều rơi vào năm 1944: Canadian Inventor (62 ngày), Maros Maru (67 ngày), Rashin Maru (70 ngày) và Hōfuku Maru (79 ngày). Trong các năm 1944-1945, số tù nhân chết do bị ngược đãi hoặc điều kiện tồi tệ trên tàu cũng tăng hơn so với thời kỳ đầu chiến tranh. Michno lại cho rằng điều kiện trên các tàu địa ngục vốn đã tồi tệ ngay từ đầu (tuy có nhiều dấu hiệu tồi tệ hơn trong năm 1944). Về thời gian hành trình, ông nhấn mạnh rằng nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, và cũng lưu ý khi đến các điểm quá cảnh, không phải lúc nào tù nhân cũng luôn bị nhốt dưới hầm. Nếu so sánh thời gian tất cả hành trình thì các chuyến đi năm 1944 dài hơn không đáng bao nhiêu, thậm chí có chuyến còn ngắn hơn các năm trước. Những chuyến ngắn nhất là vào năm 1945 do chạy thực tế trên các tuyến đường ngắn.[65]
Phản ứng của tù nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Điều kiện hết sức tồi tệ trên tàu đẩy tù nhân vượt ngưỡng chịu đựng cả về thể xác lẫn tinh thần. Bầu không khí ngột ngạt, nóng bức và khát nước khiến họ phát điên, tự tử hay thậm chí giết chóc lẫn nhau. Nhưng Gavan Daws lại đưa ra luận điểm rằng việc này chỉ xảy ra với tù binh Mỹ và cũng chủ yếu trên tàu Ōryoku Maru tháng 12 năm 1944.[66]
Ngược lại, Michno ít nhiều chỉ ra rằng sự cố nghiêm trọng tương tự cũng xảy ra với các tù binh quốc tịch khác, chủ yếu trên tàu Dainichi Maru (mùa thu năm 1942) và Maros Maru (mùa thu năm 1944). Nhưng ông không phủ nhận số lượng các vụ sụp đổ tinh thần dẫn đến giết hại nhau nhiều nhất vẫn là các tù binh Mỹ, đặc biệt là trên những hành trình nửa cuối năm 1944. Tuy vậy, ông cũng đưa ra ý kiến không thể hoàn toàn loại trừ khả năng người Mỹ đã mô tả trung thực trải nghiệm trên tàu địa ngục hơn các nhóm khác.[67]
Quan điểm nhà nghiên cứu Van Waterford lại nhấn mạnh rằng bất chấp điều kiện vô nhân đạo phổ biến trên tàu địa ngục, nhiều tù nhân vẫn giữ vững tinh thần và chia sẻ tình đồng lao cho đến cùng.[68]
Lịch sử không ghi nhận bất kỳ cuộc bạo loạn nào trên tàu địa ngục, các nguyên nhân khả dĩ đưa ra là: tình trạng sức khỏe tồi tệ trải qua nhiều ngày giam giữ, niềm tin về cơ hội sống sót cao hơn bằng cách chờ đợi Nhật bại trận và đồng minh đến giải thoát, nỗi lo sợ bị lính canh Nhật sát hại khi nổi loạn hoặc Nhật có thể đánh chìm luôn tàu.[69] Tình huống cao điểm nhất có lẽ chỉ xảy ra với tàu Kachidoki Maru và Rakuyō Maru khi một số tù nhân không chịu lên tàu chở dầu và đã bị chuyển sang tàu khác đưa về Nhật tháng 9 năm 1944.[70]
Mệnh lệnh phía Nhật
[sửa | sửa mã nguồn]Cuối tháng 11 năm 1942, các tàu Singapore Maru và Dainichi Maru đến Nhật Bản mang theo khoảng 2.300 tù binh Đồng minh. Khoảng 140 tù nhân chết trên đường đi và khoảng 300 người không thể tự lên bờ khi cập bến. Ngày 10 tháng 12 năm 1942, Bộ Chiến tranh Nhật Bản ban hành mật lệnh số 1504 nhấn mạnh phải đảm bảo tù binh "trong tình trạng hoạt động" khi cập cảng, theo đó:[71]
Gần đây, nhiều tù binh đã ngã bệnh hoặc chết trong hành trình đến Nhật Bản. Ngoài ra, nhiều tù binh không thể lao động vì bị đối xử tồi tệ trên chuyến đi.
Ngày 3 tháng 3 năm 1944, Thứ trưởng Bộ Chiến tranh tướng Tominaga Kyoji ban lệnh liên quan đến việc đối xử với tù binh chiến tranh, trong đó nhấn mạnh phải cải thiện điều kiện cho tù binh, vì đó là nguồn lực cần thiết cho Nhật trong chiến tranh, đồng thời tỷ lệ tử vong cao có thể bị kẻ thù lợi dụng tuyên truyền. Lệnh có đoạn viết:[72]
Dù vẫn phải nỗ lực tận dụng tối đa không gian trên tàu chở tù nhân nhưng trong tình hình hiện tại, tất cả đều cần phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của Mật lệnh số 1504 năm 1942 liên quan đến việc đối xử với tù binh.
Nhưng cơ quan chịu trách nhiệm vận chuyển tù nhân bằng đường biển là Hải quân lại không nằm dưới Bộ Chiến tranh nên các mệnh lệnh này không có tác động chính.[73]
Đồng minh tấn công
[sửa | sửa mã nguồn]Theo luật pháp quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều sử gia phương Tây nhấn mạnh rằng các tàu chở tù nhân của Nhật không mang các dấu hiệu thích hợp nên đã bị quân Đồng minh tấn công.[6][74][75] Hơn nữa, từ năm 1942, các tàu địa ngục thường được ghép vào những đoàn tàu vận tải.[51]
Trên thực tế, luật nhân đạo cũng không yêu cầu các bên tham chiến phải đánh dấu tàu chở tù nhân. Hơn nữa Công ước Geneva năm 1929 chỉ cấm tấn công tàu bệnh viện hay những tàu mà các bên tham chiến đã đồng ý cho đi qua tự do.[76] Chính các tàu chở tù nhân của quân Đồng minh cũng không có dấu hiệu nhận diện và thường bị đối phương tấn công. Tiêu biểu nhất vụ Laconia tháng 9 năm 1942.[77]
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hội Chữ thập đỏ Quốc tế đã hai lần đưa ý kiến để đảm bảo an toàn cho các tàu chở tù nhân vào năm 1940 và 1942. Đề xuất bao gồm: cấm tấn công tàu chở tù nhân, thông báo cho các bên tham chiến về lộ trình của tàu, đặt các dấu hiệu nhận diện thích hợp cho tàu, trang bị đủ số lượng xuồng cứu sinh và áo phao. Đồng thời cấm dùng tàu chở tù binh cùng lúc với binh lính hay nguyên vật liệu chiến tranh. Tuy nhiên, cả phe Trục lẫn Đồng minh đều từ chối đề xuất của Hội. Đức đề xuất ý tưởng dùng tàu bệnh viện vốn được luật pháp quốc tế bảo vệ để vận chuyển tù nhân đã không được Đồng minh cũng như cả các nước phe Trục khác chuẩn y. Các bên tham chiến sợ bị lộ các tuyến hải vận của mình. Hơn nữa, hai bên đều không muốn mạo hiểm để đối phương lợi dụng những tàu này để chuyển quân hay hàng hóa phục vụ chiến tranh.[76][78]
Niên biểu tấn công
[sửa | sửa mã nguồn]Thời đầu chiến tranh, nguy cơ tử vong do quân ta bắn quân mình không cao lắm.[79] Đến năm 1942, hai tàu chở tù nhân của Nhật Bản đã bị đánh chìm.[m] Đầu tiên là Montevideo Maru bị tàu ngầm USS Sturgeon đánh chìm ngày 1 tháng 7. Ngày 2 tháng 10, tàu ngầm USS Grouper đánh chìm Lisbon Maru.[81] Tổng gần 1.900 tù binh thiệt mạng.[82]
Năm 1943, tàu ngầm Hoa Kỳ tiếp tục đánh chìm Buyō Maru và Suez Maru, còn Nichimei Maru bị không quân hạ gục.[35][83] Nhóm tàu địa ngục bị chìm còn bao gồm tàu sân bay hộ tống Chūyō bị trúng ngư lôi của tàu ngầm USS Sailfish ngày 4 tháng 12 năm 1943.[84] Những cuộc tấn công này khiến khoảng 800 tù binh thiệt mạng.[83][85]
Năm 1944 ghi nhận số vụ tấn công các tàu địa ngục nhiều nhất.[86] Một báo cáo tổng hợp của Mỹ trước khi chiến tranh kết thúc ước tính rằng ít nhất 8 tàu đã bị máy bay và tàu ngầm đánh chìm. Tổng số tù binh khoảng 9.242 người, trong đó 5.879 người mất tích.[87] Nhưng theo như Michno, nếu bao gồm cả các tàu chở tù binh lẫn quân lính thuộc địa cũng như lao động rōmusha, số lượng tàu địa ngục bị chìm sẽ tăng lên 13 chiếc và tổng số khoảng 17.000 người thiệt mạng.[40] Theo thống kê hàng tháng, cao điểm nhất là tháng 9, năm tàu địa ngục bị Đồng minh đánh chìm là Shin'yō Maru, Rakuyō Maru, Kachidoki Maru, Jun'yō Maru và Hōfuku Maru. Ước tính 4.478 tù binh chết trên tàu.[87] Nếu tính cả lượng rōmusha, số nạn nhân trong tháng 9 lên tới gần 9.000 người.[88]
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng, Anh ra báo cáo tổng cộng 14 tàu địa ngục bị tàu ngầm và máy bay Đồng minh đánh chìm trong khoảng thời gian từ 1942 đến 1945. Nhưng danh sách này chưa đầy đủ vì không bao gồm các tàu chở tù binh châu Á và lao động cưỡng bức. Ngoài ra, trong Chiến tranh Thái Bình Dương, quân Đồng minh đã đánh chìm một số lượng chưa rõ bao nhiêu tàu chiến và tàu chở các nhóm tù binh ít người cỡ chỉ từ vài đến vài chục người.[89] Michno và Van Waterford tính rằng quân Đồng minh đã đánh chìm 19 tàu địa ngục.[90][91] Daws thì ước tính khoảng 25 tàu địa ngục bị đánh chìm.[92]
Michael Sturma cho rằng hoạt động tàu ngầm Đồng minh cũng gián tiếp ảnh hưởng đến số phận tù binh. Trước hết, do Đồng minh phong tỏa nên Nhật bị thiếu lương thực, buộc phải sơ tán tù binh bằng tàu địa ngục khỏi các trại gần mặt trận.[93] Đó là một trong những lý do khiến 1.054 tù binh Úc phải rời Rabaul trên chuyến hải hành bi thảm của tàu Montevideo Maru.[94] Mặt khác, do tàu ngầm đe dọa tấn công làm cho tàu địa ngục cũng phải tìm cách lẩn tránh khiến hành trình dài hơn, tù binh phải chịu đựng nhiều hơn và nhiều người kiệt quệ hơn.[64]
Phản ứng phía Nhật
[sửa | sửa mã nguồn]Tàu địa ngục bị chìm đã kéo theo hàng trăm, hàng nghìn tù binh, lao động khổ sai chết theo. Số nạn nhân đông như vậy thường là do người Nhật không quan tâm đến việc cứu hộ, trong nhiều trường hợp còn quyết định sát hại luôn tù nhân.[95] Ngày 22 tháng 9 năm 1944, ngay sau khi Jun'yō Maru bị chìm, Nhật ra thông cáo nêu rõ: "Chúng tôi không tính đến việc phải nỗ lực giải cứu những người này [tù nhân] trong tương lai."[96]
Daws ước tính rằng khi bị trúng ngư lôi, chỉ dưới 50% khả năng là lính canh hoặc thủy thủ sẽ mở cửa sập cho tù nhân lên boong. Khả năng còn thấp hơn nhiều về chuyện họ được cấp áo phao hoặc lên xuồng cứu sinh. Cuối cùng, cơ hội tù nhân được các tàu Nhật khác kéo lên khỏi mặt nước gần như là không có. Thậm chí còn có việc nổ súng vào tù binh đang trôi nổi trên mặt nước. Những trường hợp khác có thể gặp phải là việc thủy thủ có kéo tù nhân lên nhưng rồi đẩy trở lại biển hoặc ra tay sát hại.[97]
Quân Nhật cũng gần như làm ngơ trong việc báo cáo việc tù nhân chết trên các tàu chìm với Hội Chữ Thập Đỏ.[98] Số phận hơn một nghìn tù binh Úc chìm cùng tàu Montevideo Maru chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi Nhật đầu hàng.[99] Mãi đến tháng 11 năm 1947, danh sách tù binh tử vong hoặc bị giết trên các tàu Ōryoku Maru, Brazil Maru và Enoura Maru mới được hoàn thành.[98]
Bộ phận tuyên truyền của Nhật đôi khi cũng khai thác việc tàu ngầm Mỹ đánh chìm tàu địa ngục chở tù binh. Sau vụ chìm tàu Lisbon Maru, Đài phát thanh Tokyo thực hiện loạt phỏng vấn ngắn với những tù binh sống sót. Còn với Rakuyō Maru, Nhật Bản tuyên truyền rằng tàu Nhật đã cứu sống 136 tù binh, trong khi một số người Nhật lại chịu mất mạng, có cả phụ nữ và trẻ em. Ngược lại, phía Úc và Anh cũng công khai thực tế rằng thủy thủ đoàn tàu ngầm Mỹ đã bất chấp nguy hiểm tính mạng để cứu sống các tù binh.[100]
Phản ứng phía Đồng minh
[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều sử gia vẫn tin rằng nhờ bẻ khóa được mật mã của Nhật cũng như báo cáo từ phong trào kháng Nhật,[n] tình báo Đồng minh biết rõ về một số tàu chở tù nhân mà không mang dấu hiệu phù hợp.[103][104][105] Theo Michno, thông tin giải mã cho biết tù binh được HO-02 vận chuyển rời Singapore vào tháng 6 năm 1944. Kết quả này vẫn không ngăn được cuộc truy đuổi trên biển, kết quả là Tamahoko Maru bị chìm cùng 772 tù nhân.[106] Đến tháng 9 năm 1944, tình báo Mỹ nắm được thông tin đoàn tàu HI-72 có chuyên chở tù binh. Thông tin này đã không được chuyển đến các chỉ huy tàu ngầm và chiến thuật bầy sói vẫn được thực thi, cả đoàn tàu bao gồm hai tàu địa ngục Kachidoki Maru và Rakuyō Maru bị hạ.[107] Ông cũng chỉ ra dù tình báo vô tuyến Mỹ xác định được tuyến đường của từng tàu vận tải riêng lẻ, thì thông tin giải mật lại không bao gồm tàu nào trong một đoàn tàu vận tải.[108]
Một số nhà nghiên cứu lại cho rằng không nên quá đề cao việc bẻ khóa được mật mã của Nhật. Các chuyên gia giải mật Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng đọc được chính xác và kịp thời. Ngoài ra, Lee A. Galdwin chỉ ra rằng Mỹ đã thành công trong việc bẻ mã 2468 mà Hải quân Nhật sử dụng, nhưng các thông điệp thu được và giải mã lại không có thông tin về việc chuyên chở tù nhân.[109] Lamont-Brown đề cập đến tình báo vô tuyến Mỹ có thể xác định đúng lộ trình từng đoàn tàu Nhật, nhưng trên tàu chở gì thì lại không có thông tin.[110]
Sự thật là quân Đồng minh liên tục dùng tàu ngầm tiến hành chiến tranh không hạn chế với Nhật trên biển.[111] Hải quân Hoa Kỳ nói chung không coi việc tù binh có mặt trên tàu là lý do hạn chế tấn công các đoàn tàu vận tải Nhật Bản. Theo Max Hastings, bộ chỉ huy Mỹ sợ rằng việc không tấn công tàu chở tù binh sẽ khuyến khích Nhật tiếp tục dùng con tin làm bình phong an toàn.[112] Vấn đề khác là thủy thủ đoàn tàu ngầm không thể xác định được tàu nào ngụy trang, tàu nào chở tù nhân.[113] Michno thêm rằng việc cảnh báo có tàu chở tù nhân trong đoàn có thể làm giảm quyết tâm tấn công của lực lượng tàu ngầm.[114]
Quân Đồng minh cũng không cố bắt sống tàu địa ngục, e rằng có thể kích động quân Nhật ra tay sát hại tù nhân.[115]
Cũng nhận ra tổn thất khi tấn công tàu chở tù nhân, bộ chỉ huy Mỹ lệnh cho thuyền trưởng tàu ngầm rà soát khu vực tàu Nhật bị chìm để tìm kiếm người sống sót.[87]
Số liệu thống kê
[sửa | sửa mã nguồn]Số lượng tàu và tù nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Khó xác định chính xác số lượng tàu Nhật Bản được dùng để chuyên chở tù binh một cách chắc chắn.[116][117]
Theo các nguồn tư liệu Nhật được một số học giả phương Tây như Gavan Daws, Brian MacArthur trích dẫn, trong cuộc chiến Thái Bình Dương có khoảng 50.000 tù binh được vận chuyển trên tàu địa ngục.[118][119]
Van Waterford ước tính Nhật sử dụng 56 tàu địa ngục chuyên chở 68.068 tù binh Đồng minh.[120]
Lamont-Brown liệt kê 158 tàu nên được xếp vào loại "tàu địa ngục",[121] đồng thời ước tính chuyên chở 127.000 tù binh.[122]
Michno tính rằng có 134 tàu địa ngục, thực hiện 156 hải trình, mang theo 126.064 tù binh; nhưng cũng lưu ý số liệu chỉ dựa trên các tài liệu đáng tin cậy còn lưu giữ được.[41] Tư liệu phía Nhật, lời khai của những tù binh sống sót hay các nguồn khác cũng có đề cập đến các trường hợp vận chuyển tù binh bằng đường biển khác. Tuy nhiên, thông tin lẻ tẻ hoặc không chính xác để xác định chi tiết về tàu và hành trình, hay sau khi đào sâu phân tích lại phát hiện hóa ra một tàu địa ngục lại xuất hiện trong các nguồn với các tên khác nhau.[123] Đồng thời, Michno nhấn mạnh các tính toán của mình chủ yếu gồm các tàu chở tù binh da trắng, trong khi trên thực tế, tàu địa ngục còn được chuyển tù nhân châu Á, lao động cưỡng bức rōmusha và phụ nữ mua vui. Việc dựng lại hành trình các chuyến tàu phi quân sự này gặp nhiều khó khăn.[124] Về con số 126.064 tù binh thì đa số được chở nhiều lần trên các hành trình khác nhau, nên tổng số thực tế có thể tương đương 50.000 dẫn ra từ các nguồn khác.[125]
Số lượng tử vong
[sửa | sửa mã nguồn]Có nhiều con số ước tính được đưa ra về tổng số tử vong, nguyên nhân là các nhà nghiên cứu áp dụng phương pháp luận khác biệt ở mức độ nào đó. Một số chỉ bao gồm tù binh da trắng trong khi số khác có cả người châu Á và rōmusha.[126]
Cũng theo nguồn tư liệu Nhật Bản được một số tác giả phương Tây trích dẫn, trong số khoảng 50.000 tù binh trên tàu, khoảng 10.800 chết trên đường đi, chiếm 21%.[118][119] Hugh V. Clarke viết rằng trong 10.853 nạn nhân có 1.515 người Úc.[127]
Trích dẫn phát hiện của tòa án quân sự Đồng minh, Lamont-Brown tuyên bố trong số khoảng 127.000 tù binh trên tàu địa ngục, 21.000 tử vong, chiếm 16,5%.[122]
Michno ước tính 21.039 người chết trên tàu địa ngục[41] (gồm hơn 8.000 rōmusha).[127]
Waterford ước tính con số tử vong là hơn 22.000 người, chiếm 35% tổng số tù binh vận chuyển bằng đường biển.[128] Michno phê phán ước tính của Waterford bị vượt quá thực tế do số nạn nhân trên tàu trong vài trường hợp bị tính đúp.[125]
Con số tử vong lớn nhất gây ra do tàu ngầm và máy bay Đồng minh nhưng cũng khác nhau giữa các nguồn. Là nước điều tra ngay sau khi Nhật đầu hàng, Anh ước tính 14 tàu địa ngục bị đánh chìm từ năm 1942 đến 1945, kéo theo cái chết của 12.163 tù binh Anh, Úc, Hà Lan và Mỹ.[129] Chuyên khảo của Michno ước tính rằng chỉ có 1.540 trên 21.039 tù binh chết vì đói khát bệnh tật, thiếu dưỡng khí, tự tử hoặc bị lính Nhật sát hại.[130][o] Hơn 19.000 người tương đương 93% chết do chính tàu ngầm và máy bay Đồng minh tấn công đánh chìm tàu chuyên chở.[131] Brian McArthur lại có quan điểm khác khi cho rằng các cuộc tấn công của Đồng minh chỉ gây ra cái chết cho 1/3 số nạn nhân trên tàu địa ngục thôi.[119]
Nếu chỉ tính các nạn nhân da trắng, tàu địa ngục là nguyên nhân tử vong đứng thứ nhì dành cho tù binh Đồng minh bị Nhật Bản bắt giữ, sau các trại lao động cưỡng bức xây dựng Đường sắt Miến Điện. Daws chỉ ra rằng số lính Mỹ chết trên tàu Arisan Maru còn nhiều hơn cả trong cuộc hành quân chết chóc Bataan.[118] Nhiều tù binh còn sống nhớ đến con tàu địa ngục này như trải nghiệm cùng cực nhất trong khoảng thời gian bị Nhật giam cầm.[77][132][133]
Xét xử hậu chiến
[sửa | sửa mã nguồn]Phiên tòa Tokyo
[sửa | sửa mã nguồn]Vấn đề đối xử với tù binh Đồng minh trên tàu địa ngục được nêu ra trong phiên tòa xét xử các lãnh đạo Nhật Bản tại Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông ở Tokyo. Một trong những phán quyết cho thấy sự thừa nhận việc vận chuyển tù nhân trên tàu địa ngục là "bất hợp pháp và vô nhân đạo"; đồng thời nêu rõ trách nhiệm chính quyền Nhật Bản lẽ ra không được phép tổ chức hành trình nếu biết không thể cung cấp các điều kiện vận chuyển phù hợp công ước quốc tế. Bản án lưu ý rằng nhiều thành viên chính phủ và quan chức cao cấp Nhật Bản biết về điều kiện chuyên chở tù binh nhưng không hành động đủ để cải thiện. Ngoài ra, các biện pháp để cải thiện cũng không nhằm tuân thủ công ước chiến tranh mà chỉ để tù binh còn sức lực để tiếp tục lao động.[10][134]
Tòa án Viễn Đông Tokyo đã kết án một số nhân vật phải chịu trách nhiệm về việc ngược đãi tù binh Đồng minh. Cao nhất là Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Tōjō Hideki bị kết án tử hình. Trưởng văn phòng sự vụ Hải quân Phó đô đốc Oka Takasumi bị kết án chung thân. Ông là người đề xuất vận chuyển tù binh bằng đường biển và ra lệnh bắn bỏ những người dưới nước bị chìm cùng tàu địa ngục.[135]
Nhân vật cấp dưới
[sửa | sửa mã nguồn]Tòa án Đồng minh cũng xét xử một số binh lính và thủy thủ Nhật Bản bị buộc tội ngược đãi tù nhân trên tàu địa ngục.[136] Những sĩ quan cấp dưới này không bị cáo buộc về tội ác cụ thể, nhưng liên quan đến điều kiện sống và vệ sinh tồi tệ phổ biến trên tàu. Họ giữ chức vụ quá thấp để có thể ảnh hưởng đến điều kiện sinh hoạt trên tàu nên phán quyết thường kết luận: bị cáo thiếu quan tâm đến số phận của tù nhân, không có hành động tạo ra điều kiện sinh tồn tối thiểu cho tù nhân, không báo cáo với cấp trên về việc thiếu lương thực cũng như điều kiện sống tồi tệ trên tàu, không giám sát đúng mức binh lính dưới quyền ngược đãi tù nhân.[136][137]
Phiên tòa đầu tiên sau chiến tranh có nêu vấn đề vận chuyển tù nhân trên tàu địa ngục được tòa án quân sự Anh ở Singapore tổ chức vào tháng 1 và tháng 2 năm 1946.[138] Mặc dù cáo buộc chủ yếu liên quan đến việc ngược đãi và sát hại lính Ấn Độ trong trại tù trên đảo Babeldaob thuộc quần đảo Palau, điều kiện sống tệ hại trên tàu Thames Maru cũng được nêu ra.[139] Ngày 1 tháng 2 năm 1946, đại úy Nakamura Kaniyuki bị tuyên án tử hình bằng treo cổ và được thực thi sau đó. Cấp trên là thuyền trưởng Gozawa Sadaichi bị kết án 12 năm tù. Sáu bị cáo khác chịu án từ 2 đến 7 năm tù, hai bị cáo được tha bổng.[140]
Tháng 2 năm 1946, tướng Kō Shiyoku (Hong Sa-ik) phải ra trước tòa án quân sự Mỹ tại Manila. Kể từ tháng 3 năm 1944, Kō đứng đầu toàn bộ trại tù ở Philippines.[141] Ông bị cáo buộc đã ra lệnh vận chuyển 1.619 tù binh Mỹ trên Ōryoku Maru mà không bảo vệ họ khỏi bị lạm dụng và ngược đãi.[142] Kō bị kết án tử hình bằng cách treo cổ, thực thi vào tháng 9 năm 1946.[143]
Tháng 7 năm 1946, mười ba người Nhật Bản và Triều Tiên bị tòa án quân sự Đồng minh ở Singapore xét xử về tội ngược đãi tù binh trong một số trại tù trên khu vực Đông Ấn Hà Lan, bao gồm Maluku. Một trong những cáo buộc cũng liên quan đến việc ngược đãi tù nhân trên tàu Maros Maru. Sáu bị cáo bị tuyên có tội, dính đến chính cáo buộc này. Trưởng toàn bộ trại tù Maluku Trung tá Sanso Anami chịu tử hình, chỉ huy nhiệm chức trại tù Haruku Đại úy Kurashima Hideichi - tử hình, bác sĩ quân y Đại úy Shimada Kuranosuke - tử hình, chỉ huy thực tế trại Haruk Thượng sĩ Mori Masao - tử hình, Hạ sĩ Kawai Kichijiro - tử hình, phiên dịch tiếng Triều Tiên Kasiyama Yoshikichi cánh tay phải của Thượng sĩ Mori – chung thân.[144]
Tháng 8 năm 1946, tòa án quân sự Anh ở Hồng Kông xét xử phiên dịch viên Niimori Genichiro bị buộc tội ngược đãi tù binh trên các tàu Lisbon Maru và Tozan Maru. Ngày 1 tháng 10 năm 1946, tòa phán quyết ông có tội với hầu hết các tội danh cáo buộc, chịu án 15 năm tù.[145]
Tháng 10 năm 1946, tòa án quân sự Anh ở Singapore xét xử lính canh người Triều Tiên Kaneoka Kioshi ("Cyclops"). Trong số các cáo buộc có việc đánh chết một tù nhân trên tàu Maros Maru. Án tử hình treo cổ được thi hành.[146][147]
Cùng tháng đó, thuyền trưởng Lisbon Maru là Kyoda Shigeru ra trước Tòa án Anh ở Hồng Kông. Ông bị buộc tội đóng cửa hầm sau khi tàu trúng ngư lôi và không cung cấp đủ số lượng xuồng cứu sinh và áo phao cho tù binh. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, cùng với các tội danh khác, ông bị kết án 7 năm tù giam.[148]
Tháng 3 năm 1947, thượng sĩ Jotani Kitaichi phải chịu trách nhiệm về cái chết của 98 tù binh trên tàu Hōfuku Maru và bị kết án tử hình treo cổ.[149]
Cùng tháng đó, tòa án quân sự Hoa Kỳ ở Yokohama xét xử 9 quân nhân và dân sự Nhật Bản với tội danh giết người và ngược đãi tù binh trên các tàu Ōryoku Maru, Brazil Maru và Enoura Maru.[150] Thuyền trưởng Brazil Maru là Kajiyama Shin được bác án trước khi kết thúc phiên tòa. Trong khi 6 bị cáo khác bị kết án ngày 9 tháng 5 năm 1947: Trung úy Toshino Junsaburo và hạ sĩ Aihara Kazutane bị tử hình, phiên dịch viên Wada Shusuke ngồi tù chung thân, 3 người lĩnh án 10 đến 25 năm tù giam. Hai cai ngục được tha bổng.[151]
Tháng 4 năm 1947, tòa án quân sự Úc ở Singapore xét xử hai sĩ quan Nhật bị buộc tội ngược đãi tù nhân trên tàu Raishin Maru: Chỉ huy vận chuyển Trung úy Uchiyama Kishio và Phó chỉ huy Hạ sĩ Fukuda Mitsugu.[152] Uchiyama bị kết án 6 năm tù còn Fukuda chịu 3,5 năm tù.[153]
Tháng 5 năm 1947, Thượng sĩ Nakanishi Haruyoshi bị kết án 2 năm tù vì tội ngược đãi tù binh trên tàu Taian Maru (Takan Maru).[154][155]
Tháng 9 năm 1947, tòa án quân sự Anh ở Singapore xét xử hai sĩ quan chỉ huy tàu Asaka Maru. Thuyền trưởng Odake Bunji bị kết án 6 tháng tù, còn giám quản Trung úy Ino Takeo bị 3 tháng tù giam. Tuy nhiên, Anh đã không phê chuẩn lệnh thi hành án.[156]
Trong cùng tháng, bốn quân nhân và dân sự Nhật bị tòa án quân sự Anh ở Singapore kết tội ngược đãi tù binh trên tàu Singapore Maru: Thuyền trưởng Nishimi Yoshinori 2 năm tù, sĩ quan cao nhất trên tàu Trung úy Ogasawara Makoto 3 năm tù, giám quản Thiếu úy Maruyama Naosuke 2 năm tù, Thượng sĩ Uchida Yoichi 6 tháng tù.[157]
Tháng 6 năm 1948, tòa án quân sự Úc ở Hồng Kông kết án hạ sĩ quan Yamasaka Tatsuo 5 năm tù giam với tội danh tra tấn và ngược đãi 6 tù binh Anh và New Zealand trên thủy phi cơ tiếp liệu Sanuki Maru hành trình từ Surabaya đến Ōsaka tháng 6 năm 1944.[158]
Nhiều sĩ quan Hải quân Nhật đã không bao giờ bị truy tố về tội giết hại và ngược đãi tù nhân trên tàu địa ngục.[159]
Tưởng niệm
[sửa | sửa mã nguồn]Một số nạn nhân trên tàu địa ngục được chôn cất tại Nghĩa trang Tưởng niệm Quốc gia Thái Bình Dương ở Honolulu, Hawaii và khả năng là tại Nghĩa trang Chiến tranh Đồng minh ở Yokohama nữa.[160] Trong số 24.000 tên những người lính Đồng minh hy sinh khắc trên bức tường tưởng niệm tại Đài tưởng niệm Chiến tranh Kranji ở Singapore, có nhiều người đã chết trên tàu địa ngục.[161] Tên các tù nhân thiệt mạng trên tàu Lisbon Maru được khắc trên những tấm bảng đặt tại cổng Nghĩa trang Chiến tranh Tây Hoàn ở Hồng Kông.[162]
Năm 1990, tàu ngầm USS Pampanito trở thành tàu bảo tàng đặt tại cảng San Francisco trưng ra tấm bảng tưởng niệm vụ giải cứu tù nhân trên tàu địa ngục Rakuyō Maru.[163]
Nạn nhân tử nạn trên tàu Montevideo Maru được ghi lại bên đài tưởng niệm tại khu phức hợp Vườn bách thảo ở Ballarat (khánh thành năm 2004)[164] và tác phẩm điêu khắc của James Parrett tại Đài tưởng niệm chiến tranh Úc ở Canberra (ra mắt năm 2012).[165] Các bảng và tượng đài dành riêng cho thảm kịch này cũng được đặt ở New Britain: tại Cảng Simpson[166] và trong nghĩa trang chiến tranh ở Bita Paka.[167]
Năm 2006, đài tưởng niệm The Hellships Memorial được khánh thành ở Olongapo, Philippines, trên bờ Vịnh Subic. Nổi bật là bốn tảng đá nguyên khối khắc chữ mô tả lịch sử những con tàu địa ngục và tưởng niệm nạn nhân trên tàu. Trong các tấm biển do nhiều tổ chức và cá nhân treo bên trong, có hai biển tưởng niệm những người Úc hy sinh trên tàu Montevideo Maru.[168]
Năm 2006, Đài tưởng niệm Tàu địa ngục Đài Loan được khánh thành trong Công viên Tưởng niệm Chiến tranh và Hòa bình (tiếng Trung: 戰爭與和平紀念公園主題館) trên đảo Kỳ Tân ở lối vào cảng Cao Hùng, nhằm tưởng nhớ những nạn nhân trên tàu địa ngục bị ngược đãi và chết trong vùng biển Đài Loan. Năm 2011, cuộc triển lãm tại Bảo tàng Cựu chiến binh Đài Loan nằm trong công viên này cũng được bổ sung thêm thông tin lịch sử về tàu địa ngục.[169]
Năm 2014, tại bờ vịnh Sindangan trên đảo Mindanao, tấm bảng kỷ niệm được dựng lên dành tặng cho cư dân những thị trấn xung quanh đã giúp đỡ giải cứu 81 tù nhân bị trôi dạt khỏi tàu Shin'yō Maru tháng 9 năm 1944.[170]
Năm 2018, tảng đá kỷ niệm được đặt tại Nghĩa trang Tưởng niệm Quốc gia Thái Bình Dương ở Honolulu dành riêng cho tù nhân thiệt mạng trên tàu Enoura Maru.[160][171]
Tại Alrewas (Anh) có khu tưởng niệm riêng Tù nhân chiến tranh Viễn Đông trong National Memorial Arboretum với nét nổi bật là Vườn tưởng niệm Tàu giam Nhật Bản (Japanese Prison Ships Memorial Garden) ghi nhớ những con tàu địa ngục cùng các nạn nhân.[172][173] Ngoài ra, hai tàu địa ngục Lisbon Maru và Suez Maru có lượng lớn tù binh Anh tử nạn cũng được tưởng niệm riêng trong khuôn viên Arboretum.[174]
Dấu ấn văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Số phận tù binh Mỹ trên tàu địa ngục nằm trong cốt truyện phim tài liệu Never the same: The Prisoner of War Experience năm 2013 của đạo diễn John Thompson.[133] Trước đó vào năm 2005, đạo diễn Graham Shirley làm phim tài liệu Úc Road to Tokyo, một chủ đề chính trong đó là vụ chìm tàu Rakuyō Maru.[175]
Vụ chìm tàu Kachidoki Maru và Rakuyō Maru được nhắc đến trong phim chiến tranh Anh Return from the River Kwai năm 1989 của đạo diễn Andrew V. McLaglen.[176][177]
Ban nhạc rock Úc Midnight Oil sáng tác ca khúc In the Valley nhắc đến vụ chìm tàu Montevideo Maru.[178]
Lisbon Maru là tên một bài hát của nhóm nhạc nhạc điện tử Anh Fuck Buttons.[179]
Danh sách tàu tiêu biểu
[sửa | sửa mã nguồn]Ảnh | Tên | Hành trình | Kết quả | Chi tiết |
---|---|---|---|---|
Nitta Maru | 12–23 tháng 1 năm 1942 | Đến đích | Một trong những tàu địa ngục đầu tiên. Khởi hành từ đảo Wake, mang theo 1.222 tù nhân Mỹ[22] (hoặc 1.187 tùy nguồn).[180] Trong hành trình kéo dài 11 ngày, tù nhân Mỹ bị nhồi nhét trong hầm, phải chịu đựng nóng bức, ngột ngạt, bệnh tật và đói khát. Khẩu phần nước ít đến mức họ phải liếm nước đọng trên vách hầm. Khi gần đến bờ Nhật Bản, sức nóng chuyển thành mùa đông lạnh giá. Lính canh và thủy thủ Nhật đối xử tàn bạo với tù nhân, như dùng họ làm "bao cát" tập judo.[181] Người bị thương tích bệnh tật không được chăm sóc y tế, người bị kiết lỵ phải nằm trên phân của mình.[182] Ngày 18 tháng 1, tàu dừng lại 2 ngày ở Yokohama, 20 tù nhân được đưa lên bờ.[183] Sau khi tiếp tục hành trình, hạ sĩ quan chặt đầu 5 tù binh (3 thủy thủ và 2 phi công thủy quân lục chiến). Quân Nhật dùng những xác không đầu này để luyện đâm lê và kiếm.[184][185] Ban đầu Nhật định đưa tù nhân đến Thượng Hải để tuyên truyền nhưng do thời tiết xấu nên chuyển họ về trại Ngô Tùng.[186] | |
Montevideo Maru | 22 tháng 6 – 1 tháng 7 năm 1942 | Bị chìm | Tàu khởi hành từ Rabaul đi Hải Nam, mang theo 845 tù binh và 209 thường dân bị bắt sau khi đánh bại New Britain và New Ireland.[187] Đa phần tù nhân là người Úc, ngoài ra còn có 31 thủy thủ Na Uy từ chiếc tàu đắm Herstein. Ngày 1 tháng 7 năm 1942, Montevideo Maru bị tàu ngầm Mỹ USS Sturgeon đánh chìm trên Biển Đông phía tây bắc Luzon. Không tù nhân nào sống sót.[188] Vụ chìm tàu Montevideo Maru được coi là thảm họa hàng hải tồi tệ nhất trong lịch sử Úc.[189] | |
Lisbon Maru | 27 tháng 9 – 2 tháng 10 năm 1942 | Bị chìm | Tàu chở 1.816 tù binh Anh và 778 lính Nhật khởi hành từ Hồng Kông. Tuy đông nhưng lượng thức ăn nước uống đầy đủ. Ngày 1 tháng 10, tàu trúng ngư lôi của tàu ngầm Mỹ USS Grouper. Vì tàu không chìm ngay nên lính Nhật được sơ tán, và căng vải bạt che cửa hầm tàu. Nước và thức ăn nhanh chóng cạn kiệt, các tù nhân bắt đầu chết ngạt dưới cái nóng nhiệt đới. Nhiều người bị kiết lỵ nhưng quân Nhật không cho lên boong đi vệ sinh. Sáng hôm sau, hai sĩ quan Anh leo lên định nói chuyện với thuyền trưởng nhưng lính canh nổ sung khiến một người bị thương nặng. Tiếp đến, lính canh bắn bừa vào hầm giết chết hai tù nhân. Tàu bắt đầu chìm ngay sau đó. Chỉ một số tù nhân tìm cách thoát ra nhưng cũng bị lính canh bắn chết. Khi tàu Nhật tiếp ứng đến, thủy thủ đẩy những tù nhân nào định trèo sang. Chỉ khi có những tàu đánh cá Trung Quốc xuất hiện gần đó thì Nhật mới bắt đầu giải cứu tù nhân.[190][191] Cuối cùng, quân Nhật cứu được 971 tù nhân, ngư dân Trung Quốc vớt và giúp 3 người khác trốn thoát. 842 tù nhân thiệt mạng.[192][p] | |
Tottori Maru | 8 tháng 10 – 11 tháng 11 năm 1942 | Đến đích | Tàu chở 1.961 tù binh Mỹ và khoảng 1.000 lính Nhật khởi hành từ Manila. Tù binh Mỹ bị nhồi nhét vào hai khoang hầm chật kín nên số còn lại phải lên boong. Trong thời gian ngắn, sức nóng và ngột ngạt khiến 20 người chết, những người còn lại đều trong trạng thái cực độ. Lính Nhật phải dọa nổ súng để kiểm soát tình hình.[194] Ngày thứ hai, tàu bị tàu ngầm Mỹ USS Spearfish tấn công nhưng ngư lôi trượt mục tiêu. Ngày 12 tháng 10, tàu dừng chân bốn ngày tại Takao đảo Formosa, lính Nhật và bốn tù nhân bị bệnh xuống tàu. Sau khi tiếp tục hành trình, không rõ vì sao tàu quay lại Takao, ở tiếp 3 ngày, rồi đến cảng Mako ở Pescadores, neo tại cảng 8 ngày do thời tiết xấu. Tàu lại về Takao, tù binh tạm thời lên bờ để công nhân Triều Tiên khử trùng và làm sạch tàu. Ngày 30 tháng 10, tàu rời bến. Ngày 7 tháng 11, tàu đến Busan của Triều Tiên, cho 1.302 tù binh lên bờ. Sau đó, tàu lại tiếp tục hành trình và cập cảng Ōsaka ngày 11 tháng 11, chuyển hết tù nhân còn lại lên bờ.[195][196] Khoảng 30 người Mỹ đã chết trong chuyến đi dài 32 ngày, 50 người khác phải nằm viện ở Busan và Takao.[197] | |
Kenkon Maru | 8–11 tháng 10 năm 1942 | Đến đích | Tù nhân gọi tàu này là "King Kong Maru", khởi hành từ Batavia, chở khoảng 800[198] (hoặc 1500)[119][199][200] tù nhân Úc, Hà Lan và Mỹ, gồm cả những người sống sót từ các tuần dương hạm HMAS Perth và USS Houston.[198][199] Tù nhân bị nhốt dưới hầm, chật đến nỗi một số người không thể ngồi xuống.[200] Không có thiết bị vệ sinh thích hợp, nóng và ngột ngạt vượt quá sức chịu đựng.[119][201] Tù nhân được lên boong hai lần một ngày để hít thở không khí.[198] Mỗi tù nhân được khẩu phần 0,85 lít trà Nhật mỗi ngày.[200] Sau 96 giờ, tàu cập cảng Singapore. Một tù nhân chết trên hành trình.[198] | |
Maebashi Maru | 16–22 tháng 10 năm 1942 | Đến đích | Ngày 14 tháng 10, tàu cập cảng Singapore để vận chuyển 1.700 tù nhân (gồm cả những người do Kenkon Maru đưa đến vài ngày trước đó).[202] Sau hai ngày, tàu lên đường đi Miến Điện. Hầm chứa kín người.[203] Tù nhân phải cởi trần dưới cái nóng hầm hập. Rạng sáng và chập tối, họ được lên boong khoảng 20–30 phút để hít thở không khí. Số lượng nhà tiêu không đủ.[204] Binh lính và thủy thủ Nhật thường đánh đập tù nhân, tịch thu thuốc men quần áo của họ. Chỉ có nước uống là không bị gây khó khăn.[205] Lương thực cũng đủ dùng[206] nhưng nhanh chóng hết thịt.[205] Mười bốn tù nhân chết trong hành trình.[202] | |
Singapore Maru | 30 tháng 10 – 25 tháng 11 năm 1942 | Đến đích | Tàu chở khoảng 1.100 tù nhân Đồng minh cùng với tàu Dainichi Maru trong đoàn đi Singapore.[207] Hầm chứa quá đông, nên ngay khi rời cảng đã có tù nhân bắt đầu thiệt mạng.[208] Thuyền trưởng không có bất kỳ hành động nào để cải thiện điều kiện vệ sinh trong hầm hoặc cung cấp hỗ trợ y tế cho tù nhân. Chỉ đến khi dừng ở Takao, 20 tù nhân tình trạng nặng nhất mới được chuyển lên.[209] Tuy nhiên, hàng trăm lính Nhật Bản lên tàu khiến tù nhân bị ép vào nơi thấp nhất.[210] Ước tính 60 tù binh Đồng minh chết trên đường đi và bị ném xác xuống biển.[211][212] Khi con tàu đến Moji, hàng trăm tù nhân trên Singapore Maru và Dainichi Maru không thể tự lên bờ được.[71] Trong sáu tuần sau đó, 127 tù binh đã chết vì bệnh tật hoặc suy dinh dưỡng.[212] | |
Dainichi Maru | 30 tháng 10 – 25 tháng 11 1942 | Đến đích | Tàu được dùng để chở tù binh nhiều lần.[213] Ngày 30 tháng 10, cùng với Singapore Maru, tàu rời bến mang theo khoảng 1.200 tù nhân.[207] Điều kiện vệ sinh đặc biệt tệ hại, thậm chí tệ hơn các tàu địa ngục khác rất nhiều.[214] Hầm chứa đầy phân ngựa chưa được dọn sạch. Nạn đói và bệnh tật hoành hành. Một số tù nhân bị kiết lị, yếu đến nỗi buộc phải nằm trên phân của chính mình. Giữa tháng 11, tàu đến Takao, tù nhân được đưa lên bờ 3 ngày, khoảng 100 người được Nhật cho phép nhập viện. Đến Formosa, hàng trăm tù nhân khỏe mạnh được ở lại, thế chỗ là 286 người Mỹ từ Philippines đến một tháng trước đó, cũng như 200 tù nhân thuộc nhiều quốc tịch khác nhau từ Singapore. Trong giai đoạn cuối hành trình, điều kiện còn tồi tệ hơn. Khẩu phần ăn bị cắt giảm, tù nhân phải chịu khát dữ dội đến mức một số người uống nước tiểu hoặc máu cắt từ tĩnh mạch. Ngày 25 tháng 11, Dainichi Maru và Singapore Maru cập cảng Moji.[215] 80 tù binh chết trên đường đi.[11][211] | |
Nagato Maru | 7–24 tháng 11 năm 1942 | Đến đích | Tàu khởi hành từ Manila mang theo khoảng 1.500 tù binh Mỹ dưới ba hầm. Nóng bức dữ dội khiến tù nhân bắt đầu la hét tuyệt vọng, đòi nước và không khí để thở. Quân Nhật dọa bắn vào hầm làm gia tăng hoảng loạn. Nước được chuyển đến hầm để ngăn bạo loạn nhưng vẫn không đủ. Điều kiện vệ sinh tệ hại làm nhiều người mắc kiết lị và bệnh đường tiêu hóa. Vài ngày sau khi rời cảng, bị tàu ngầm tấn công, quân Nhật đóng cửa hầm trong vài giờ. Một số tù nhân chết ngạt, nhiều người khác ngất xỉu. Ngày 11 tháng 11, tàu dừng chân ở Takao trong ba ngày. Sau đó, tàu đến Pescadores, dừng lại vài ngày do thời tiết xấu. Tàu trở lại Formosa tạm ghé Đài Bắc. Khi tiếp tục về phía bắc, tù nhân từ nóng bức chuyển sang lạnh giá. Ngày 24 tháng 11, tàu cập cảng Moji.[216] 20 người Mỹ chết trong chuyến đi.[217] | |
Nichimei Maru | 11–15 tháng 1 năm 1943 | Bị chìm | Tàu chở 965 tù binh Hà Lan và khoảng 1.500 lính Nhật khởi hành từ Singapore đi Moulmein, Miến Điện. Ngày 15 tháng 1, tàu bị máy bay Mỹ B-24 Liberator tấn công, bị hai bom rơi trúng đánh chìm. Khoảng 40 người Hà Lan cùng khoảng 100 lính và thủy thủ Nhật thiệt mạng.[218] | |
Buyō Maru | Tháng 1 năm 1943 | Bị chìm | Tàu chở 491 tù binh Ấn Độ bị tàu ngầm Mỹ USS Wahoo đánh chìm cách New Guinea khoảng 250 hải lý. Sau khi phóng ngư lôi, tàu Mỹ còn bắn vào những người sống sót trôi nổi trên mặt nước.[219] 195 tù nhân thiệt mạng.[83] | |
Thames Maru | 5 tháng 5 – 8 tháng 6 năm 1943 | Đến đích | Tàu chở 522 tù binh Ấn Độ và khoảng 1.500 rōmusha khởi hành từ Singapore. Hành trình kéo dài 34 ngày.[220] Tù nhân chỉ được phát một lượng nhỏ đồ ăn và nước uống, thực phẩm trong giai đoạn sau thường bị hỏng và nhiễm khuẩn. Hầm chứa đông đến nỗi tù nhân khó ngồi được. Chỉ có hai nhà tiêu cho hơn 2.000 người này. Dịch bệnh kiết lị nhanh chóng bùng phát và tù nhân cũng không được chữa trị.[221] Tàu đến được Babeldaob thuộc quần đảo Palau. Khoảng 200 tù nhân và rōmusha chết trong hành trình.[220] | |
Taga Maru | 20 tháng 9 – 5 tháng 10 năm 1943 | Đến đích | Tàu chở khoảng 850 tù binh Mỹ khởi hành từ Manila. Sau nhiều tháng vốn đã kiệt quệ tại trại Cabanatuan, tù nhân bị nhồi nhét vào hầm, thiếu thức ăn và chăm sóc y tế. Một số tù nhân bị dồn vào góc hầm đã chết vì nóng và ngột ngạt. Nhiều tù nhân khát quá phải uống nước tiểu chính mình. Taga Maru dừng tại Takao một thời gian ngắn, rồi tiếp tục hành trình cập cảng Moji. Khoảng 70 tù nhân chết trong hành trình.[222] | |
Suez Maru | 25–29 tháng 11 năm 1943 | Bị chìm | Tàu chở khoảng 550 tù binh (546[223] hoặc 549[224]) hầu hết là người Anh, được sơ tán khỏi trại đảo Haruku do sức khỏe yếu. Tàu ra khơi từ cảng Ambona. Ngày thứ tư, tàu bị trúng ngư lôi của tàu ngầm Mỹ USS Bonefish. Đạn trúng trực tiếp vào một trong hai hầm chứa tù binh, khiến gần như hoặc tất cả người bên trong chết ngay. Gần 250 tù nhân tìm cách rời tàu. Tàu hộ tống Missweeper W-12 vớt tất cả người Nhật sống sót trên mặt biển và thuyền trưởng quyết định không còn chỗ cho tù binh. Họ bắn vào những tù nhân còn sót lại trên mặt nước, không một tù nhân nào sống sót.[225][226] | |
Ikoma Maru | 20–21 tháng 1 năm 1944 | Bị chìm | Tàu chở 611 tù binh Ấn Độ, nhiên liệu và đạn dược, thuộc đoàn tàu vận tải Wewak 8 khởi hành từ quần đảo Palau đi Hollandia ở New Guinea. Vào ngày thứ hai, tàu bị tàu ngầm Mỹ USS Seahorse đánh chìm. Một ngư lôi đánh vào hầm chứa nhiên liệu làm nổ lớn. 418 tù binh và 43 thủy thủ đoàn đã chết. Thủy thủ Nhật trút hận bằng cách đánh đập hành hạ những tù binh sống sót.[227] | |
Tango Maru | 24–25 tháng 2 năm 1944 | Bị chìm | Tàu chở khoảng 3.500 người, chủ yếu là rōmusha người Java cùng với vài trăm tù binh,[228] khởi hành từ Surabaya trong đoàn tàu vận tải hướng về cảng Ambon. Vào ngày thứ hai, cách Bali vài chục dặm về phía bắc, tàu ngầm Mỹ USS Rasher tấn công. Tango Maru bị đánh chìm, hơn 3.000 rōmusha và tù binh thiệt mạng. Tối cùng ngày, Rasher tiếp tục đánh chìm tàu Ryūsei Maru giết chết khoảng 5.000 người Nhật. Đây là cuộc tấn công chết chóc nhất trong lịch sử chiến tranh hải quân.[229] | |
Tamahoko Maru | 3–24 tháng 6 năm 1944 | Bị chìm | Ngày 3 tháng 6, đoàn tàu vận tải HO-02 khởi hành từ Singapore gồm 4 tàu chở tù binh. Trên đường đi, đoàn bị tàu ngầm Đồng minh tấn công. Ngày 11 tháng 6, đoàn đến Manila, dừng lại ba ngày. Ngay sau khi tiếp tục, Miyo Maru bị bão làm hư hại, sóng cuốn trôi hết thực phẩm, tù nhân nhịn đói trong 4 ngày. Khi đến Takao, tù nhân từ Miyo Maru được chuyển sang Tamahoko Maru vào ngày 18 tháng 6, họ được đối xử tử tế và có nhiều chỗ trống trong hầm tù. Hai ngày sau, đoàn tàu tiếp tục hành trình. Ngày 24 tháng 6, ngoài khơi Nagasaki, tàu Tamahoko Maru bị tàu ngầm Mỹ USS Tang đánh chìm, một ngư lôi đánh trúng hầm chứa tù nhân. Sáng hôm sau, tàu Nhật đến cứu đón những người sống sót, kéo lính Nhật ra trước, rồi đến phụ nữ và trẻ em Nhật, cuối cùng là tù binh. 560 trong số 772 tù binh đã chết.[106] | |
Yashu Maru 824 |
12–24 tháng 6 năm 1944 | Đến đích | Khoảng 1.240 tù binh Mỹ được đưa lên tàu tại Lasang gần Davao. Họ bị nhốt trong hầm đông đúc, nóng bức, ngột ngạt. Nhiều tù nhân mắc bệnh đường tiêu hóa nhưng số lượng nhà tiêu không đủ. Tù nhân đã phải ở trong hầm 6 ngày trước khi nhổ neo. Do quá đông, tù nhân phải ngủ theo ca, 1/3 số đó luân phiên lên boong. Đêm 15 tháng 6, một sĩ quan Mỹ nhảy xuống bơi vào bờ Mindanao. Lính canh dồn tù nhân xuống hầm và đóng cửa sập suốt đêm. Hôm sau, phần boong cho tù nhân lên được rào lại, nhưng một người khác vẫn trốn được. Để trừng phạt, tù nhân bị giảm khẩu phần ăn uống và bị đánh thường xuyên hơn. Ngày 17 tháng 6, tàu cập cảng Cebu. Tù nhân lên bờ 3 ngày rồi được chuyển sang tàu số 824. Điều kiện trên "824" còn tồi tệ hơn Yashu Maru: không có nhà vệ sinh, tù nhân không được phép lên boong và khẩu phần cắt giảm. Ngày 21 tháng 6, tàu rời bến, đến Manila bốn ngày sau đó. Chỉ tính từ Mindanao, 56 tù binh đã chết.[230] | |
Harugiku Maru | 25–26 tháng 6 năm 1944 | Bị chìm | Tàu khởi hành từ Belawan, Sumatra, đến Pekanbaru trong một đoàn tàu vận tải. Tàu chở 1.190 tù nhân (Úc, Hà Lan và Anh) phục vụ việc xây dựng đường sắt.[231] Có hai hầm chứa tù nhân, một rất chật.[232] Tù nhân đi vệ sinh vào xô (chỉ có 1 xô theo một số nguồn).[233][234] Đến ngày thứ hai, tàu bị tàu ngầm Anh HMS Truculent đánh chìm.[235] Sau vài giờ giải cứu xong quân Nhật và Triều Tiên, đoàn tàu vớt tiếp những tù nhân còn sống sót.[236] Về sau, các sĩ quan Nhật bị cáo buộc không cung cấp đủ áo phao và giúp đỡ những người bị thương.[237] 176 đến 178 tù binh và 30 người Nhật chết cùng tàu.[238][239] Trong tháng sau đó, 22 tù binh sống sót bị thương và bệnh tật đã chết trong các trại tù ở Singapore.[240] | |
Raishin Maru | 4 tháng 7 – 8 tháng 9 năm 1944 | Đến đích | Tàu chở 605 người Úc, 310 người Anh và 150 người Hà Lan[241][q] thuộc đoàn tàu vận tải SHIMI-05 khởi hành từ Singapore, bên cạnh 3 tàu chở tù binh nữa, gồm cả Hōfuku Maru.[242] Raishin Maru là một trong những tàu địa ngục hoạt động lâu nhất.[241] Điều kiện và vệ sinh cũng đặc biệt tồi tệ, so sánh với các tàu địa ngục khác. Hầm chứa đông đến nỗi tù nhân khó tìm chỗ ngồi. Khẩu phần là cơm giòi với một ít thịt cá thối. Dịch kiết lị nhanh chóng bùng phát.[243] Nhân viên dân sự đối xử với tù nhân đúng mực, thậm chí khá thân thiện, nhưng lính Triểu Tiên thì ngược đãi tàn tệ hơn.[244] Ngày 8 tháng 7, SHIMI-05 đến Miri ở Borneo. Hai ngày sau, Raishin Maru nhập vào đoàn MI-08 để khởi hành. Ngày 16 tháng 7, tàu đến Manila và neo đậu trong 3 tuần. Tù nhân được đưa lên bờ và phải lao động nhiều việc khác nhau. Khi tiếp tục hành trình, tàu nằm trong đoàn vận tải mới MATA-26. Tàu ngầm Mỹ tấn công MATA-26,[245] khiến cho tù nhân bị nhốt trong hầm nhiều ngày, không được lên boong kể cả đi vệ sinh.[241] Tàu gặp bão và bị tách khỏi đoàn vận tải.[246] Cuối cùng tàu cũng cập cảng Moji, hầu hết tù binh đều kiệt quệ về thể xác lẫn tinh thần. Theo Sturma, 3 tù nhân chết trên hành trình, và thêm 4 người tử vong ngay sau khi lên bờ.[247] Theo các nguồn khác, số người thiệt mạng đã lên tới 15.[248] | |
Hōfuku Maru | 4 tháng 7 – 21 tháng 9 năm 1944 | Bị chìm | Tàu chở 1.076 tù binh Anh và 213 Hà Lan[249][r] thuộc đoàn vận tải SHIMI-05 khởi hành từ Singapore. Trong đoàn còn có bốn tàu chở tù binh khác, gồm cả Raishin Maru.[242] Đây là hành trình dài nhất của một tàu địa ngục. Tàu trải qua 10 ngày ở Miri, Borneo, rồi hơn 60 ngày ở Manila.[249] Tàu cập cảng Manila vì thuyền trưởng nghi ngờ dịch tả bùng phát giữa đám tù nhân.[97] Trước khi đến cũng như trong thời gian lưu lại Manila, từ 94 đến 184 tù binh đã chết, chủ yếu là do đói khát bệnh tật. Mãi đến ngày 24 tháng 8, Nhật mới đồng ý chuyển 71 tù nhân bị bệnh đến Nhà tù Bilibid (9 người cũng không qua khỏi ngay). Đổi lại cũng chừng ấy tù nhân từ Manila chuyển ra thay thế.[250] Ngày 20 tháng 9, tàu nhập vào đoàn tàu vận tải MATA-27 rời bến, nhưng bị máy bay ném ngư lôi của Mỹ đánh chìm ngày hôm sau. Trong số 1.289 tù nhân trên tàu, chỉ có 42 người được đoàn hộ tống giải cứu và đưa đến Takao. Hai trăm người khác đến được bờ biển Luzon hoặc được các tàu Nhật khác giải cứu. Sau đó, họ bị đưa đến trại Cabanatuan hoặc nhà tù Bilibid.[88] 1047 tù binh chìm cùng tàu.[251] | |
Koshu Maru | 29 tháng 7 – 4 tháng 8 năm 1944 | Bị chìm | Tàu chở 1.513 rōmusha người Java và khoảng 540 người Nhật, trong một đoàn tàu khởi hành từ Batavia đi Sulawesi. Tàu bị tàu ngầm Hoa Kỳ USS Ray đánh chìm tại eo biển Makassar. 1.239 rōmusha cùng 301 người Nhật thiệt mạng.[252] | |
Kenzan Maru Sugi Maru |
31 tháng 8 – 29 tháng 9 năm 1944 | Đến đích | Cả hai tàu khởi hành trong một đoàn vận tải nhỏ từ cảng Ambon. Tàu Kenzan Maru chở khoảng 300 còn Sugi Maru chở 200 tù nhân. Các tàu đi dọc theo bờ biển Sulawesi để đến Makassar ngày 12 tháng 9. Ba ngày sau, các tàu vượt qua eo biển Makassar và thả neo tại bờ đảo Laut. Hai tàu được lệnh phải dừng ở đây do không có tàu hộ tống. Nguồn thực phẩm sớm cạn kiệt, số lượng lớn tù nhân ốm bệnh và kiệt sức sau nhiều tháng giam cầm bắt đầu không qua khỏi. Mãi đến ngày 27 tháng 9, hai tàu mới được lệnh khởi hành riêng rẽ đi Surabaya, rồi cập bến hai ngày sau. Trong chuyến hành trình, 55 tù nhân chết trên Sugi Maru và 25 người chết trên Kenzan Maru.[253]. | |
Shin’yō Maru | 7 tháng 9 năm 1944 | Bị chìm | Ngày 4 tháng 9, sau gần hai tuần trên tàu Tateishi Maru, khoảng 750 tù binh Mỹ được chuyển sang tàu chở hàng Shin'yō Maru.[254] Điều trong kho chứa rất tồi tệ.[255][256] Trước khi lên đường, người Nhật tuyên bố sẽ xử bắn tất cả tù nhân nếu tàu bị tấn công.[257] Sau khi Shin'yō Maru cùng đoàn tàu rời cảng vào buổi sáng thì đến cuối chiều đã bị tàu ngầm Mỹ USS Paddle đánh chìm. Ngay khi tàu trúng ngư lôi, lính canh ném lựu đạn và xả súng máy vào hầm để sát hại tù binh.[258][259] Một số tù binh Mỹ chạy lên boong và nhảy xuống biển.[257] Tàu và thủy phi cơ Nhật nã đạn vào tù binh đang cố gắng bơi thoát.[260] Tàu chở dầu Eiyo Maru kéo lên khỏi mặt nước từ 15[257] và 30[261] Nhưng đến cuối buổi tối cùng ngày, ngoại trừ một người trốn bơi thoát, tất cả đều bị bắn. Chỉ có 82 tù nhân vào được bờ, một người cũng tử vong ngay lập tức.[260] Người Philippines địa phương giúp đỡ họ và quân kháng chiến báo cho tình báo Mỹ. Cùng với Shin'yō Maru, 667 tù binh đã chết.[251][262] | |
Rakuyō Maru | 6–12 tháng 9 năm 1944 | Bị chìm | Ngày 4 tháng 9, 1.318 tù nhân lên tàu ở Singapore. Ngoại trừ một người Mỹ, còn lại đều người Úc và Anh.[263] Hầm chứa nhồi nhét đầy người còn rất ít không gian để di chuyển, bố trí sáu hố xí tạm bợ bên cạnh. Tình hình vệ sinh trở nên tồi tệ hơn do 90% tù nhân mắc kiết lị hoặc các bệnh tiêu hóa khác. Khẩu phần nước và thức ăn không đủ. Nhật cho tù nhân lên boong. Hai ngày sau, tàu cùng một tàu địa ngục khác là Kachidoki Maru rời bến trong đoàn tàu vận tải HI-72.[264] Sáng ngày 12 tháng 9, Rakuyō Maru bị tàu ngầm Mỹ USS Sealion đánh chìm ở Biển Đông.[265] Các tàu hộ tống giải cứu người Nhật Bản sống sót nhưng bỏ mặc tù nhân trên biển.[266] Ba ngày sau, tàu ngầm Mỹ USS Pampanito tình cờ tìm thấy một người sống sót và tiếp tục tìm kiếm cứu được 73 người nữa, đồng thời huy động Sealion cứu được 54 người.[267] Ngày 17 tháng 9, các tàu ngầm USS Barb và USS Queenfish đến nơi chìm tàu, cứu thêm được 32 người.[268][s] Ngoài ra, ngày 14 tháng 9, tàu hộ tống CD-11 của Nhật cũng cứu được 136 tù binh.[270] Số này cùng với 520 tù binh sống sót sau vụ chìm tàu Kachidoki Maru được Kibitsu Maru đưa về Nhật, dịch kiết lị bùng phát trên tàu giết chết thêm 8 người.[271] Vụ chìm tàu Rakuyō Maru dẫn đến cái chết của 1.051 (hoặc 1159[251][272] hay 997[273]) lính Đồng minh.[274] | |
Kachidoki Maru | 6–12 tháng 9 năm 1944 | Bị chìm | Ngày 4 tháng 9, khoảng 950 tù nhân lên tàu ở Singapore. Hầm chứa bị nhồi nhét, chỉ có hai nhà vệ sinh. Theo yêu cầu của một bác sĩ Anh, người Nhật đồng ý để mở cửa sập và đưa những bệnh binh nặng nhất lên boong. Sau hai ngày, tàu cùng Rakuyō Maru khởi hành trong đoàn HI-72.[275] Tối muộn 12 tháng 9, tàu bị tàu ngầm Mỹ USS Pampanito đánh chìm gần đảo Hải Nam.[276] Sáng hôm sau, các đơn vị Nhật Bản tiến hành cứu những người sống sót; đầu tiên chỉ là người Nhật và Triều Tiên, sau rồi mới đến tù nhân,[277] cả thảy được 520 tù nhân.[278] 431 (hoặc 460,[279] 476[280] hay khoảng 400[281][282]) tù binh Anh chết đuối.[283] | |
Jun’yō Maru | 16–18 tháng 9 năm 1944 | Bị chìm | Tàu khởi hành từ Tanjung Priok ở Java, chở tù nhân và công nhân xây dựng đường sắt Sumatra. Trong số đó có khoảng 1.700 tù nhân gốc Âu (chủ yếu là Hà Lan), khoảng 500-600 quân kháng chiến thuộc địa (Ambon và Manadonese) và khoảng 4.200-4.300 rōmusha người Java.[284][285][286] Hầm chứa đông đến nỗi tù nhân khó ngồi được, chỉ mở vài cửa sập, bên trong nóng bức ngột ngạt thiếu không khí. Thức ăn đủ nhưng lại thiếu nước.[287][288] Đến ngày thứ ba, ngoài khơi bờ biển Sumatra, tàu bị tàu ngầm Anh HMS Tradewind đánh chìm. Tù nhân và rōmusha cố gắng thoát ra hầm giam nhưng cũng không được quân Nhật cho lên bè cứu sinh.[289][290] Một hạ sĩ quan Nhật còn cầm rìu đập vỡ sọ hoặc chặt tay những ai định bám lên bè.[291][292] Việc giải cứu kéo dài ba ngày, tàu hộ tống cứu người Nhật trước, xong rồi mới bắt đầu đến tù binh. Những tù nhân yếu nhất bị ném trở lại biển.[293] Khi đến Sumatra, những người sống sót bị giam ở Padang, 30[294] đến 42[295] người chết tiếp trong thời gian ngắn. Cùng với Jun'yō Maru, 5.620 đến 5.640 người bị chìm, bao gồm 1.520 đến 1.626 tù binh người Âu và Indonesia[t] và khoảng 4.000 rōmusha.[261][294][298] Xét về số lượng nạn nhân, đây là thảm họa lớn nhất cho một con tàu trong chiến tranh Thái Bình Dương,[299] đồng thời là một trong những thảm họa lớn nhất lịch sử vận tải biển.[298] | |
Maros Maru | 17 tháng 9 – 23 tháng 11 năm 1944 | Đến đích | Tàu chở khoảng 500 tù nhân Anh và Hà Lan khởi hành từ cảng Ambon. Tù nhân chen chúc trên boong gom lại trong khoảng 9 x 13,7 mét, không được che chắn khỏi nắng và sóng biển. Nước nhiều đến nỗi lính Triều Tiên lấy ra tắm nhưng mỗi ngày chỉ phát 1/4 lít cho mỗi tù nhân. Mãi đến khi 30 tù nhân chết khát hoặc say nắng, Nhật mới cho cuộn mái bạt trên boong.[300] Ngày 21 tháng 9, tàu ghé vào đảo Muna gần Sulawesi, lấy thêm 128 (150[300]) tù nhân.[301] Máy hỏng nên tàu dừng lại giữa biển, tù nhân phải sửa chữa. Ngày 9 tháng 10, tàu đến Makassar, neo đậu trong gần 40 ngày.[302] Vốn đã kiệt sức trong trại Haruku từ trước, tù nhân chết hàng loạt vì nóng, khát và bệnh tật; có ngày lên tới 20 người chết.[303] Lính canh không làm gì để giúp tù nhân mà vẫn ngược đãi dã man.[300] Tàu đến Surabaya vào ngày 22[299] hoặc 23 tháng 11.[304] Chỉ có 325 tù nhân (chưa đến một nửa) sống sót sau chuyến đi gần 70 ngày.[284][299] | |
Hokusen Maru | 1 tháng 10 – 8 tháng 11 năm 1944 | Đến đích | Tàu chở khoảng 800-900 tù binh Mỹ, 250 tù binh Anh và Hà Lan khởi hành từ Manila. Có hai hầm nhốt tù nhân đến chật chội, một hầm đầy bụi than, hầm kia đầy bụi than. Không có thông gió, nhiệt độ hàm ít nhất là 42°C. Không có nước và phải đi vệ sinh vào xô rồi dùng dây thừng kéo lên. Cái nóng, cơn khát, thiếu không khí và mùi hôi thối khiến nhiều tù nhân sớm phát điên. Người Nhật đe dọa nếu không ngừng la hét và làm loạn, họ sẽ nổ súng vào hầm vào đóng cửa sập để tất cả chết ngạt. Tinh thần căng đến cực độ, tù nhân bắt đầu giết đồng lao bị mất kiểm soát. Đoàn tàu vận tải bị tàu ngầm Đồng minh tấn công phải phân tán ra, nhưng Hokusen Maru không bị dính ngư lôi.[305] Ngày 11 tháng 10, Hokusen Maru và ba tàu khác ghé Hồng Kông.[306] Trong thời gian dừng chân, hàng ngày mỗi tù nhân chỉ được một bữa ăn và nửa lon nước.[307] Một số tù nhân khát đến nỗi nổi điên định giết bạn tù để uống máu, số khác thì tự sát.[308] Ngày 21 tháng 10, tàu tiếp tục lên đường, ghé Takao ba ngày sau đó. Tù binh không được xuống tàu cho đến ngày 8 tháng 11, tuy đồ ăn nước uống cũng được cải thiện. Theo hồ sơ chính thức, 39 tù binh đã chết hoặc bị giết trong cả hành trình.[309] Những người sống sót gọi tàu là "Benjo Maru" hoặc "Horror Maru".[310] | |
Arisan Maru | 11–24 tháng 10 năm 1944 | Bị chìm | Tàu khởi hành từ cảng Manila, mang theo khoảng 1.800 người,[u] chủ yếu là tù binh Mỹ và khoảng 100 thường dân thuộc nhiều quốc tịch khác nhau phải đi lao động cưỡng bức. Lo ngại bị Mỹ tấn công, tàu đi về phía nam rồi thả neo ngoài khơi bờ biển Palawan trong vài ngày; bốn tù nhân đã chết vì bệnh tật; một sĩ quan tìm cách trốn nhưng bị bắt và bắn chết. Ngày 20 tháng 10, tàu quay lại Manila. Hôm sau, tàu nhập vào đoàn tàu vận tải MATA-30 tiếp tục lên đường. Cuối cùng thì tàu trúng ngư lôi của tàu ngầm Mỹ trên Biển Đông.[v] Lính canh Nhật đóng cửa sập, cắt dây thừng và đứng ngay trước cửa ngăn tù nhân không thoát ra. Chỉ khi hầu hết người Nhật rời tàu, tù nhân mới bắt đầu chạy ra được.[318][319] Tù nhân phải xếp xác đồng đội chết vì ngư lôi nổ thành đống đủ cao để trèo lên boong.[320] Tàu Nhật không tìm cách cứu tù nhân, thủy thủ còn hất những người bám lên xuống biển.[321][322] Cuối cùng, chỉ có chín tù nhân sống sót, bốn người được Nhật vớt lên và đưa về Formosa, năm người khác tìm thấy xuồng cứu sinh và bơi được về bờ Trung Quốc.[323] | |
Ōryoku Maru | 13–15 tháng 12 năm 1944 | Bị chìm | Ōryoku Maru "khét tiếng nhất" trong tất cả các tàu địa ngục.[324] Tàu chứa 1.619 tù nhân từ cảng Manila. Ngoại trừ khoảng 30 người, tất cả đều là người Mỹ.[325] Tàu rời cảng vào buổi tối nhưng thả neo ngay trong vịnh Manila. Tù nhân bị nhồi nhét trong ba hầm bắt đầu chết khát và thiếu không khí. Người Nhật nghe tiếng kêu của tù nhân liền đóng sập cửa hầm.[326] Sáng 14 tháng 12, khi nhấc neo khởi hành, khoảng 30[327] hay 50[328] tù nhân đã chết. Tàu liên tục bị máy bay ném bom bổ nhào của Hoa Kỳ tấn công, buộc phải dừng lại ở vịnh Subic.[329] Đêm ấy, hoảng loạn bùng phát, tù nhân tranh giành nước, uống nước tiểu của mình, gây thương tích hoặc giết hại đồng lao để uống máu. Nhiều người bị dẫm đạp. Để kiểm soát tình hình, các sĩ quan ra lệnh giết những tù nhân đe dọa đến người khác, cho bắn loạn xạ và khoang hầm.[330] Sáng 15 tháng 12, sau khi bị Hoa Kỳ không kích, tàu bắt đầu chìm. Tù nhân nhảy xuống nước liền bị lính Nhật từ boong tàu bắn xuống. Có 1.333 người sống sót vào được bờ,[331] bị vây bắt lại, và giữ dưới ánh nắng chói chang không che chắn trong ba ngày, không hề có thức ăn hay chăm sóc y tế.[332] Ngày 20 và 21 tháng 12, quân Nhật đưa những người sống sót đến San Fernando Pampanga, rồi ngầm giết 15 người bị thương nặng nhất. Vài ngày sau, tù nhân còn lại được đưa đến San Fernando trên vịnh Lingayen, rồi bị chất lên tàu Enoura Maru và Brazil Maru vào ngày 27 tháng 12.[333] | |
Enoura Maru | 27 tháng 12 năm 1944 – 9 tháng 1 năm 1945 | Bị hỏng | Một trong hai tàu địa ngục cuối cùng rời Philippines. Tàu khởi hành từ San Fernando trên vịnh Lingayen, chở khoảng 1.070 tù binh Mỹ còn lại sau vụ chìm tàu Ōryoku Maru (số còn lại lên tàu Brazil Maru).[327] Trong giai đoạn đầu của chuyến đi, 16 tù nhân đã chết.[334] Ngày 31 tháng 12 năm 1944, hai tàu đến Takao, dừng lại trong vài ngày.[335] Ngày 6 tháng 1, tù nhân trên Brazil Maru được chuyển sang Enoura Maru.[40] Ba ngày sau, máy bay Mỹ không kích làm tàu bị hỏng nặng, khoảng 200 đến 300 tù binh đã chết.[92][336][337] Ba ngày sau nữa, quân Nhật mới cho chuyển xác ra khỏi hầm và giúp người bị thương. Ngày 13 tháng 1, toàn bộ tù binh sống sót chuyển sang Brazil Maru.[336] | |
Brazil Maru | 27 tháng 12 năm 1944 – 29 tháng 1 năm 1945 | Đến đích | Cùng với Enoura Maru, đây là một trong hai tàu địa ngục cuối cùng rời Philippines, chở 236 tù binh Mỹ từ Ōryoku Maru bị đắm trước đó.[327] Trong giai đoạn đầu hành trình, 5 tù nhân đã chết.[334] Ngày 31 tháng 12 năm 1944, hai tàu đến Takao, dừng lại vài ngày.[335] Ngày 6 tháng 1 năm 1945, tù nhân được chuyển sang Enoura Maru. Nhưng ba ngày sau, Enoura Maru bị máy bay Mỹ đánh hỏng.[338] Ngày 13 tháng 1, khoảng 900-1.000 tù binh sống sót được chuyển sang Brazil.[92][339] Hôm sau, tàu lại tiếp tục hành trình đến Nhật Bản, sức nóng sớm thay bằng lạnh giá mùa đông. Tù binh Mỹ chết hàng loạt vì bệnh tật, đói khát; có ngày lên tới 30 người chết. Ngày 30 tháng 1 năm 1945, trong số 1.619 tù binh lên tàu Ōryoku Maru ở Manila, chỉ còn khoảng 450-500 người xuống cảng Moji.[214][339] |
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tiếng Anh banana nghĩa là chuối; biệt danh này là vì các tù nhân chỉ được ăn trái cây chứ không được ăn đồ nấu.
- ^ Tiếng Nhật benjo (便所(べんじょ)) nghĩa là nhà xí. Biệt danh này có thể dịch là nhà xí trôi nổi.[11]
- ^ Tiếng Nhật byōki (病気 (びょうき)) nghĩa là bệnh.
- ^ Tiếng Anh diarrhea nghĩa là tiêu chảy.
- ^ Tiếng Anh dysentery nghĩa là kiết lỵ.
- ^ Tiếng Anh horror nghĩa là kinh dị.
- ^ Tiếng Anh đọc chệch từ hot nghĩa là nóng.
- ^ Tiếng Nhật đọc chệch từ matte (待って (まって)) nghĩa là đợi đấy.
- ^ Tiếng Anh mucky nghĩa là bẩn thỉu.
- ^ Tiếng Anh stink nghĩa là hôi thối.
- ^ Tiếng Nhật maru (まる) nghĩa là tròn (hoàn), thường dùng đặt sau phía tên tàu thuyền.[12] Xem thêm Maru (mèo).
- ^ Năm 1942, trên tàu chở tù binh đến Triều Tiên, cứ 200 người thì có 3 nhà vệ sinh. Năm 1943, trên các tàu địa ngục, trung bình cứ 700 tù binh thì có 3 nhà vệ sinh.[56]
- ^ Tàu địa ngục "đầu tiên" bị quân Đồng minh đánh chìm là Toyohashi Maru vào ngày 4 tháng 6 năm 1942, do tàu ngầm HMS Trusty của Anh thực hiện. Khi ấy, Toyohashi Maru đang trên đường về sau khi hoàn thành nhiệm vụ chở 2.000 tù binh từ Singapore đến Miến Điện thuộc Anh. Do đó, không có tù nhân nào trên tàu khi chìm.[80]
- ^ Có ít nhất một trường hợp được biết là quân kháng chiến cố gắng cảnh báo Hải quân Hoa Kỳ rằng các tù nhân Đồng minh đang được vận chuyển trên tàu Nhật. Đó là tàu Noto Maru mang theo 1.035 tù binh Mỹ khởi hành từ Manila ngày 27 tháng 8 năm 1944. Rất có thể tình báo Mỹ không nhận được thông tin hoặc bỏ qua vì thực tế tàu ngầm vẫn tấn công đoàn tàu vận tải. Cuối cùng, Noto Maru cập cảng Moji an toàn.[101][102]
- ^ Sturma coi con số này là quá thấp. Xem Sturma 2021, tr. 112, 115.
- ^ Các tư liệu cũ hơn ghi nhận 970 tù nhân được quân Nhật cứu, 6 người được ngư dân Trung Quốc cứu còn 840 người chết.[193]
- ^ Theo Michno, có 600 người Úc, 300 người Hà Lan và 165 người Anh.[242]
- ^ Theo Michno, có 1.287 tù binh trên tàu.[242]
- ^ Trong số tù nhân được giải cứu, 7 người đã chết vì thương tích và kiệt sức trên đường chuyển về Saipan.[269]
- ^ Theo Daws, có 1.377 người Hà Lan và Indonesia, 64 người Anh và Úc cùng một số ít người Mỹ.[296] Hackett và Muehlthaler lại cho rằng có 1.382 người Hà Lan và Indonesia, 56 người Anh, 8 người Mỹ và 3 người Úc thiệt mạng.[297]
- ^ Số liệu tùy theo nguồn: 1782, 1783, 1800 hoặc 1802 người.[311][312][313]
- ^ Giới nghiên cứu chưa đồng thuận tàu ngầm nào đã đánh đắm Arisan Maru: USS Shark,[314][315][316] USS Snook[83][234] hay khẳng định không có thông tin xác thực.[317]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Daws 1996, tr. 17–18.
- ^ Margolin 2007, tr. 288.
- ^ a b Daws 1996, tr. 283.
- ^ Michno 2016, tr. 276–280.
- ^ a b Daws 1996, tr. 19.
- ^ a b c Margolin 2007, tr. 311.
- ^ Waterford 1994, tr. 149-150.
- ^ Michno 2016, tr. 296–298.
- ^ Waterford 1994, tr. 149-151.
- ^ a b Judgment 1948, tr. 521–523.
- ^ a b c d Daws 1996, tr. 285.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 3.
- ^ Michno 2016, tr. 111, 180, 245.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 1.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 13.
- ^ a b c Lamont-Brown 2002, tr. 14.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 17.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 19.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 20-21.
- ^ Daws 1996, tr. 284-285.
- ^ Michno 2016, tr. 2–3, 309.
- ^ a b Felton 2007, tr. 66.
- ^ Michno 2016, tr. 2.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 31.
- ^ Michno 2016, tr. 17, 42.
- ^ Michno 2016, tr. 17–20.
- ^ a b Michno 2016, tr. 42.
- ^ Michno 2016, tr. 42, 73, 309–312.
- ^ Michno 2016, tr. 23–26.
- ^ Michno 2016, tr. 309–312.
- ^ Michno 2016, tr. 84, 312.
- ^ a b Michno 2016, tr. 86.
- ^ Michno 2016, tr. 117, 150.
- ^ Michno 2016, tr. 123, 150.
- ^ a b Michno 2016, tr. 150.
- ^ Margolin 2007, tr. 289.
- ^ Daws 1996, tr. 18–19.
- ^ a b Michno 2016, tr. 314–317.
- ^ Michno 2016, tr. 265–266.
- ^ a b c Michno 2016, tr. 263.
- ^ a b c Michno 2016, tr. 317.
- ^ Michno 2016, tr. 284.
- ^ a b c Lamont-Brown 2002, tr. 21.
- ^ Gamble 2014, tr. 71–73, 236.
- ^ Michno 2016, tr. 92, 125, 285.
- ^ a b c Lamont-Brown 2002, tr. 23.
- ^ a b c d e Daws 1996, tr. 284.
- ^ Daws 1996, tr. 283-284.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 2.
- ^ Russel 2008, tr. 118.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 39.
- ^ a b Russel 2008, tr. 117-118.
- ^ Daws 1996, tr. 290.
- ^ MacArthur 2006, tr. 332.
- ^ Russel 2008, tr. 119.
- ^ Sturma 2021, tr. 14.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 168.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 2, 21.
- ^ Sturma 2021, tr. 166–167.
- ^ Michno 2016, tr. 48, 73–74, 95, 124.
- ^ Sturma 2021, tr. 167.
- ^ Michno 2016, tr. 55, 74, 95, 124, 237, 267.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 38.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 172.
- ^ Michno 2016, tr. 286–288.
- ^ Daws 1996, tr. 297–299.
- ^ Michno 2016, tr. 288–289.
- ^ Waterford 1994, tr. 152.
- ^ Michno 2016, tr. 298–300.
- ^ Michno 2016, tr. 299.
- ^ a b Michno 2016, tr. 72.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 42–43.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 42.
- ^ Russel 2008, tr. 117-118; Daws 1994, tr. 295 .
- ^ Waterford 1994, tr. 150.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 1, 108.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 1.
- ^ Michno 2016, tr. 87–88.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 24.
- ^ Michno 2016, tr. 18–20.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. x, 24–28.
- ^ Michno 2016, tr. 309–310.
- ^ a b c d Sturma 2021, tr. 115.
- ^ Michno 2016, tr. 140-148.
- ^ Michno 2016, tr. 312–314.
- ^ Sturma 2021, tr. 169.
- ^ a b c Sturma 2021, tr. 55.
- ^ a b Michno 2016, tr. 244.
- ^ Sturma 2021, tr. 113–115.
- ^ Michno 2016, tr. 296.
- ^ Waterford 1994, tr. 151.
- ^ a b c Daws 1996, tr. 295.
- ^ Sturma 2021, tr. 170.
- ^ Gamble 2014, tr. 233.
- ^ Sturma 2021, tr. 108-109, 115.
- ^ Michno 2016, tr. 241.
- ^ a b Daws 1996, tr. 287.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 109.
- ^ Gamble 2014, tr. 248, 269-270.
- ^ Sturma 2021, tr. 104–105.
- ^ Michno 2016, tr. 190-193.
- ^ Sturma 2021, tr. 110.
- ^ Michno 2016, tr. 293–296; Hastings 2008, tr. 276.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 14–15.
- ^ Daws 1996, tr. 296–297.
- ^ a b Michno 2016, tr. 165–171.
- ^ Michno 2016, tr. 210–211, 294–295.
- ^ Michno 2016, tr. 293–296.
- ^ Sturma 2021, tr. 109–110.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 58.
- ^ Michno 2016, tr. 88.
- ^ Hastings 2008, tr. 276–277.
- ^ Hastings 2008, tr. 276.
- ^ Michno 2016, tr. 295.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 15.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 118.
- ^ Michno 2016, tr. 276.
- ^ a b c Daws 1996, tr. 297.
- ^ a b c d e MacArthur 2006, tr. 325.
- ^ Waterford 1994, tr. 167-168.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 149–155.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. xii, 118.
- ^ Michno 2016, tr. 276–279.
- ^ Michno 2016, tr. 276, 279–280.
- ^ a b Michno 2016, tr. 282.
- ^ Sturma 2021, tr. 112, 114.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 112.
- ^ Waterford 1994, tr. 151, 168.
- ^ Sturma 2021, tr. 113–114.
- ^ Michno 2016, tr. 292.
- ^ Michno 2016, tr. viii, 292.
- ^ Michno 2016, tr. 305–307.
- ^ a b Brotman, Barbara (1 tháng 4 năm 2013). “From Death March to Hell Ships” [Từ hành quân tử thần đến tàu địa ngục]. Chicago Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2022.
- ^ Cheah 2010, tr. 2.
- ^ Michno 2016, tr. 301.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 146.
- ^ Cheah 2010, tr. 3, 14–15, 23–24.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 39–41.
- ^ Sturma 2021, tr. 134.
- ^ “Gozawa Sadaichi and others”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Yu-Jose 2012, tr. 333–334.
- ^ Takizawa 2015, tr. 83.
- ^ Yu-Jose 2012, tr. 335.
- ^ “Anami Sanso and others”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Niimori Genichiro, Case No. WO/235/892”. Hong Kong's War Crimes Trials Collection (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Sturma 2021, tr. 118.
- ^ “Kaneoka Kiko”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Kyoda Shigeru, Case no. WO235/1114”. Hong Kong's War Crimes Trials Collection (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Jotani Kitaichi”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Takizawa 2015, tr. 52–56.
- ^ Takizawa 2015, tr. 82–83.
- ^ Sturma 2021, tr. 139.
- ^ Sturma 2021, tr. 144.
- ^ “Nakanishi Haruyoshi”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Cheah 2010, tr. 9.
- ^ “Odake Bunji and Another”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Ogasawara Makoto and others”. Singapore War Crimes Trials (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Sturma 2021, tr. 147–152.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 147.
- ^ a b Olson, Wyatt (16 tháng 8 năm 2018). “Memorial honors POWs who died on infamous Japanese 'hellships' of WWII” [Đài tưởng niệm vinh danh các tù binh đã chết trên 'tàu địa ngục' khét tiếng của Nhật Bản trong Thế chiến II]. Stars and Stripes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Sturma 2021, tr. 173.
- ^ “The Lisbon Maru”. The Royal Scots Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Sturma 2021, tr. 107.
- ^ “Places – Memorials – Montevideo Maru Memorial at Ballarat POW Memorial” [Tưởng niệm Montevideo Maru tại Đài tưởng niệm tù binh chiến tranh Ballarat]. Joanne and Jenny Evans (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Rabaul and Montevideo Maru memorial” [Tưởng niệm Rabaul và Montevideo Maru]. Australian War Memorial (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Places – New Britain – Montevideo Maru”. Joanne and Jenny Evans (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Gamble 2014, tr. 262.
- ^ “The Hellships Memorial”. The Historical Marker Database (bằng tiếng Anh). 22 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “The Taiwan Hellships Memorial”. Taiwan POW Camps Memorial Society (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Kara Santos (9 tháng 9 năm 2014). “70th Shinyo Maru Commemoration in Sindangan” [Tưởng niệm Shinyo Maru lần thứ 70 tại Sindangan]. Travel Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “The Enoura Maru Hellship Memorial Saga”. Taiwan POW Camps Memorial Society (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Japanese Prison Ships Memorial Garden”. War Memorials Online (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “FEPOW Memorial Building Virtual Tour”. COFEPOW (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “List of Memorials”. The National Memorial Arboretum (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Sturma 2021, tr. 177–178.
- ^ Sturma 2021, tr. 176–177.
- ^ Michno 2016, tr. 305.
- ^ “In the Valley”. Midnight-Oil (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Fuck Buttons – Tarot Sport”. Discogs (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Michno 2016, tr. 4.
- ^ Daws 1996, tr. 47–48.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 34.
- ^ Michno 2016, tr. 5–6.
- ^ Felton 2007, tr. 81–82.
- ^ Daws 1996, tr. 48–49.
- ^ Daws 1996, tr. 49–50.
- ^ “About the list”. National Archives of Australia (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ Gamble 2014, tr. 233–242.
- ^ Gamble 2014, tr. 59, 263.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 25–27.
- ^ Michno 2016, tr. 42–47.
- ^ Michno 2016, tr. 47.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 27.
- ^ Michno 2016, tr. 48–50.
- ^ Combined Fleet, IJA/IJN Tottori Maru: Tabular Record of Movement.
- ^ Michno 2016, tr. 52–54.
- ^ Michno 2016, tr. 54.
- ^ a b c d Sturma 2021, tr. 9.
- ^ a b Michno 2016, tr. 60.
- ^ a b c Lamont-Brown 2002, tr. 51.
- ^ Michno 2016, tr. 60-61.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 10.
- ^ Michno 2016, tr. 64.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 51–52.
- ^ a b MacArthur 2006, tr. 326.
- ^ Michno 2016, tr. 65.
- ^ a b Michno 2016, tr. 69–70.
- ^ Russel 2008, tr. 127.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 43.
- ^ Russel 2008, tr. 128.
- ^ a b Michno 2016, tr. 311.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 45.
- ^ Michno 2016, tr. 310–312.
- ^ a b Sturma 2021, tr. 117.
- ^ Michno 2016, tr. 70–72.
- ^ Michno 2016, tr. 78–82.
- ^ Michno 2016, tr. 312.
- ^ Michno 2016, tr. 95–97.
- ^ Blair 1975, tr. 382–385.
- ^ a b Michno 2016, tr. 113.
- ^ Sturma 2021, tr. 133–134.
- ^ Michno 2016, tr. 118–119, 313.
- ^ Michno 2016, tr. 134.
- ^ Edwards 2006, tr. 180.
- ^ Michno 2016, tr. 133–139.
- ^ Edwards 2006, tr. 180–184.
- ^ Michno 2016, tr. 151–152.
- ^ Michno 2016, tr. 153.
- ^ Michno 2016, tr. 153–156.
- ^ Michno 2016, tr. 173–176.
- ^ Hovinga 2010, tr. 32–34.
- ^ Hovinga 2010, tr. 34.
- ^ Michno 2016, tr. 171.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 116.
- ^ Hovinga 2010, tr. 35–38.
- ^ Hovinga 2010, tr. 38.
- ^ Michno 2016, tr. 172.
- ^ Hovinga 2010, tr. 40, 42.
- ^ Michno 2016, tr. 172, 315.
- ^ Hovinga 2010, tr. 41–42.
- ^ a b c Sturma 2021, tr. 137.
- ^ a b c d Michno 2016, tr. 194.
- ^ Michno 2016, tr. 195–196.
- ^ Michno 2016, tr. 200.
- ^ Michno 2016, tr. 196–198.
- ^ Michno 2016, tr. 198–199.
- ^ Sturma 2021, tr. 138–139.
- ^ Michno 2016, tr. 315.
- ^ a b Combined Fleet, Hofuku Maru: Tabular Record of Movement.
- ^ Michno 2016, tr. 242–243.
- ^ a b c Michno 2016, tr. 316.
- ^ Michno 2016, tr. 193–194.
- ^ Michno 2016, tr. 232–233, 316.
- ^ Cross 2015, tr. 175.
- ^ Michno 2016, tr. 226.
- ^ Cross 2015, tr. 181–182.
- ^ a b c Blair 1975, tr. 622.
- ^ Michno 2016, tr. 228.
- ^ Cross 2015, tr. 188–189.
- ^ a b Michno 2016, tr. 230.
- ^ a b Michno 2016, tr. 240.
- ^ Sturma 2021, tr. 15.
- ^ Sturma 2021, tr. 12, 32.
- ^ Sturma 2021, tr. 12–15.
- ^ Sturma 2021, tr. 19–21.
- ^ Sturma 2021, tr. 26–27.
- ^ Sturma 2021, tr. 40–44.
- ^ Sturma 2021, tr. 49–50.
- ^ Michno 2016, tr. 221.
- ^ Sturma 2021, tr. 35–36.
- ^ Sturma 2021, tr. 48–49, 93.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 153.
- ^ MacArthur 2006, tr. 341.
- ^ Sturma 2021, tr. 20.
- ^ Sturma 2021, tr. 14–15, 29.
- ^ Sturma 2021, tr. 27–30.
- ^ Sturma 2021, tr. 33–34.
- ^ Sturma 2021, tr. 37.
- ^ MacArthur 2006, tr. 342.
- ^ Michno 2016, tr. 208.
- ^ Lamont-Brown 2002, tr. 63, 151.
- ^ Waterford 1994, tr. 159, 168.
- ^ Sturma 2021, tr. 30.
- ^ a b Russel 2008, tr. 134.
- ^ Hovinga 2010, tr. 44–46.
- ^ Michno 2016, tr. 235–236.
- ^ Hovinga 2010, tr. 46–48.
- ^ Michno 2015, tr. 236–237.
- ^ Michno 2016, tr. 237–239.
- ^ Hovinga 2010, tr. 50–53.
- ^ Russel 2008, tr. 134–135.
- ^ Michno 2016, tr. 239.
- ^ Hovinga 2010, tr. 54–64.
- ^ a b Hovinga 2010, tr. 68.
- ^ Russel 2008, tr. 135.
- ^ Daws 1996, tr. 286.
- ^ Combined Fleet, Junyo Maru: Tabular Record of Movement.
- ^ a b Waterford 1994, tr. 159.
- ^ a b c Michno 2016, tr. 235.
- ^ a b c Russel 2008, tr. 131.
- ^ MacArthur 2006, tr. 371.
- ^ Michno 2016, tr. 234.
- ^ MacArthur 2006, tr. 371–372.
- ^ MacArthur 2006, tr. 373.
- ^ Shively 2011, tr. 460–463.
- ^ Michno 2016, tr. 248.
- ^ Daws 1996, tr. 292.
- ^ Michno 2016, tr. 248–249.
- ^ Shively 2011, tr. 466.
- ^ Shively 2011, tr. 460.
- ^ Michno 2016, tr. 249.
- ^ Glusman 2006, tr. 354.
- ^ Sturma 2021, tr. 109; Daws 1996, tr. 293.
- ^ Blair 1975, tr. 770.
- ^ Glusman 2006, tr. 359.
- ^ Michno 2016, tr. 251–252.
- ^ Waterford 1994, tr. 155.
- ^ Michno 2016, tr. 249–252.
- ^ Glusman 2006, tr. 354–360.
- ^ Daws 1996, tr. 293.
- ^ Michno 2016, tr. 253, 255.
- ^ Glusman 2006, tr. 360.
- ^ Michno 2016, tr. 254–258.
- ^ Sturma 2021, tr. 166.
- ^ Michno 2016, tr. 258.
- ^ Michno 2016, tr. 258–259.
- ^ a b c Sturma 2021, tr. 116.
- ^ Michno 2016, tr. 260.
- ^ Michno 2016, tr. 260–261.
- ^ MacArthur 2006, tr. 331–333.
- ^ Michno 2016, tr. 261.
- ^ Russel 2008, tr. 190.
- ^ Michno 2016, tr. 261–262.
- ^ a b Michno 2016, tr. 262.
- ^ a b Lamont-Brown 2002, tr. 117.
- ^ a b Michno 2016, tr. 264.
- ^ Sturma 2021, tr. 116–117.
- ^ Michno 2016, tr. 263–264.
- ^ a b Michno 2016, tr. 265.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Blair, Clay (1975). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan [Chiến công thầm lặng: Chiến tranh tàu ngầm Hoa Kỳ đánh Nhật] (bằng tiếng Anh). Philadelphia, Lippincott. ISBN 0397007531.
- Cheah, Wui Ling (2010). “Post-WWII British „hell-ship" trials in Singapore: Omissions and the distribution of mid-ranking criminal responsibility” [Các phiên tòa của Anh ở Singapore xét xử "tàu địa ngục" sau Thế chiến II: Thiếu sót và phân bổ trách nhiệm hình sự cấp trung]. Journal of International Criminal Justice (bằng tiếng Anh). 8.
- Cross, Russell (2015). In the Rays of the Rising Sun. The True Story of Private Glen E. Kuskie's Survival (bằng tiếng Anh). Lulu.com. ISBN 9781312881464.
- Daws, Gavan (1996). Prisoners of the Japanese. POWs of World War II in the Pacific [Tù nhân của Nhật. Tù binh Thế chiến II tại Thái Bình Dương] (bằng tiếng Anh). New York: Harper Perennial. ISBN 0-688-14370-9.
- Edwards, Bernard (2006). Japan's Blitzkrieg. The Allied Collapse in the East 1941–42 (bằng tiếng Anh). Barnsley: Pen and Sword Books. ISBN 9781844154425.
- Felton, Mark (2007). Slaughter at Sea: The Story of Japan's Naval War Crimes [Tàn sát trên biển: Câu chuyện tội ác chiến tranh hải quân Nhật Bản] (bằng tiếng Anh). Casemate Publishers. ISBN 978-18-4468-858-6.
- Gamble, Bruce (2014). Invasion Rabaul: The Epic Story of Lark Force, the Forgotten Garrison, January–July 1942 [Cuộc xâm lược Rabaul: Câu chuyện hào hùng về lực lượng Lark, đơn vị đồn trú bị lãng quên, tháng 1–tháng 7 năm 1942] (bằng tiếng Anh). Minneapolis: Zenith Press. ISBN 978-0-7603-4591-7.
- Glusman, John A. (2006). Conduct Under Fire. Four American Doctors and Their Fight for Life as Prisoners of the Japanese, 1941–1945 [Dưới làn lửa đạn: Bốn bác sĩ Mỹ và cuộc đấu tranh vì sự sống khi là tù nhân của Nhật, 1941–1945] (bằng tiếng Anh). New York: Penguin Books. ISBN 0142002224.
- Hastings, Max (2008). Retribution: The Battle for Japan 1944–45 [Trừng phạt: Trận chiến cho Nhật Bản 1944–45] (bằng tiếng Anh). New York: Alfred A. Knopf. ISBN 978-0-307-27536-3.
- Hovinga, Henk (2010). The Sumatra Railroad: Final Destination Pakan Baroe, 1943-1945 [Đường sắt Sumatra: Ga cuối Pakan Baroe, 1943-1945] (bằng tiếng Anh). Leiden: KITLV Press. ISBN 9789067183406.
- Lamont-Brown, Raymond (2002). Ships from Hell: Japanese War Crimes on the High Seas [Tàu từ địa ngục: Tội ác chiến tránh Nhật Bản trên biển lớn] (bằng tiếng Anh). Stroud: Sutton Publishing. ISBN 0-7509-2719-4.
- MacArthur, Brian (2006). Surviving the Sword. Prisoners of the Japanese 1942–45 [Thoát khỏi lưỡi gươm. Tù nhân của Nhật Bản 1942–45] (bằng tiếng Anh). London: Abacus. ISBN 0349119376.
- Margolin, Jean-Luis (2007). L'Armée de l'Empereur: Violences et crimes du Japon en guerre - 1937-1945 [Quân đội Hoàng đế: Bạo lực và tội ác Nhật Bản trong chiến tranh 1937-1945] (bằng tiếng Pháp). Armand Colin. ISBN 978-22-00356-61-3.
- Michno, Gregory F. (2016). Death on the Hellships. Prisoners at Sea in the Pacific War [Chết trên tàu địa ngục. Tù nhân trên biển trong Chiến tranh Thái Bình Dương] (bằng tiếng Anh). Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1-59114-632-2.
- Russel, Edward Frederick Langley (2008). The Knights of Bushido: A Short History of Japanese War Crimes [Võ sĩ đạo: Đoản sử về tội ác chiến tranh của Nhật Bản]. New York: Skyhorse. ISBN 978-1-602-39145-1.
- Shively, John C. (2011). Profiles in Survival. The Experiences of American POWs in the Philippines During World War II [Hồ sơ sống sót. Trải nghiệm của tù binh Mỹ ở Philippines trong Thế chiến II] (bằng tiếng Anh). Indianapolis: Indiana Historical Society. ISBN 978-0-87195-294-3.
- Sturma, Michael (2021). Hellships Down. Allied POWs and the Sinking of the Rakuyo Maru and Kachidoki Maru [Tàu địa ngục bị hạ. Tù binh đồng minh và vụ chìm tàu Rakuyo Maru cùng Kachidoki Maru] (bằng tiếng Anh). Jefferson, North Carolina: McFarland&Company. ISBN 978-1-4766-8242-6.
- Takizawa, Karen Ann (tháng 7 năm 2015). “War Stories (5) Judgment at Yokohama (March 10 – May 9, 1947)” [Câu chuyện chiến tranh (5) Phán quyết tại Yokohama (10 tháng 3 – 9 tháng 5 năm 1947)] (PDF). 社会志林 (bằng tiếng Anh). Hosei University. 62 (1).
- Waterford, Van (1994). Prisoners of the Japanese in World War II [Tù binh của Nhật trong Thế chiến II] (bằng tiếng Anh). Jefferson, N.C., and London: McFarland & Company, Inc., Publishers. ISBN 0-89950-893-6.
- Yu-Jose, Lydia N. (tháng 6 năm 2012). “The Koreans in Second World War Philippines: Rumour and history” [Người Triểu Tiên tại Philippines trong Thế chiến II: Lời đồn và lịch sử]. Journal of Southeast Asian Studies (bằng tiếng Anh). 43 (2).
- International Military Tribunal for the Far East, Judgment of 4 November 1948 [Phán quyết ngày 4 tháng 11 năm 1948] (PDF) (bằng tiếng Anh), Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2022, truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2023
- “Imperial Japanese Navy Page” [Trang Hải quân Đế quốc Nhật Bản]. Combined Fleet (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2023.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- VnExpress - Thảm cảnh của tù binh trên 'tàu địa ngục' phát xít Nhật (tiếng Việt)
- Britain at War - Hell Ships (tiếng Anh)