USS Sabalo (SS-302)

Tàu ngầm USS Sabalo (SS-302) sau khi cải biến sang kiểu "Ống hơi Hạm đội" sau năm 1952.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Sabalo
Đặt tên theo cá cháo lớn Đại Tây Dương [1]
Xưởng đóng tàu Cramp Shipbuilding Co., Philadelphia[2]
Đặt lườn 5 tháng 6, 1943 [2]
Hạ thủy 4 tháng 6, 1944 [2]
Người đỡ đầu bà Martha C. Oman
Nhập biên chế 19 tháng 6, 1945 [2]
Tái biên chế tháng 6, 1951 [2]
Xuất biên chế
Xóa đăng bạ 1 tháng 7, 1971 [2]
Số phận Đánh chìm như mục tiêu ngoài khơi Nam California, 15 tháng 2, 1973 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Balao
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.526 tấn Anh (1.550 t) (mặt nước)[3]
  • 2.414 tấn Anh (2.453 t) (lặn)[3]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [3]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [3]
Mớn nước 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[6]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m)[6]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[6]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar SD phòng không [7]
  • radar SJ dò tìm mặt biển [7]
Vũ khí

USS Sabalo (SS-302) là một tàu ngầm lớp Balao từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá cháo lớn Đại Tây Dương.[1] Hoàn tất quá trễ để có thể tham gia phục vụ trong Thế Chiến II, nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1946, rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Ống hơi Hạm đội để tiếp tục phục vụ trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ năm 1951 đến năm 1971. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi Nam California, vào năm 1973.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[9] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[7][10] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[4] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[4][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[4] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[6]

Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[6] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[11][12]

Sabalo được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Cramp Shipbuilding Co.Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 5 tháng 6, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 6, 1944, được đỡ đầu bởi bà Martha C. Oman, phu nhân Chuẩn đô đốc Charles M. Oman, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 19 tháng 6, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân James Gold Andrews.[1][13][14]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy trên sông Delaware, Sabalo đi đến Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut để tiếp tục chạy thử máy và huấn luyện. Nó hoạt động tại chỗ từ căn cứ New London cho đến tháng 6, 1946, khi nó bắt đầu được chuẩn bị để ngừng hoạt động. Con tàu được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine vào ngày 7 tháng 8, 1946, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương.[1][13][14]

Sau khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6, 1950, Sabalo được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 6, 1951.[1][13][14] Nó rời New London vào tháng 8 để đi sang cảng nhà mới tại Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii, đến nơi vào tháng 9, nơi nó hoạt động tại chỗ cho đến tháng 2, 1952. Chiếc tàu ngầm trải qua đợt hiện đại hóa theo khuôn khổ Chương trình Ống hơi Hạm đội tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng từ ngày 18 tháng 2 đến ngày 28 tháng 9, 1952. Đây là một phương án nâng cấp ít tốn kém hơn các đề án GUPPY áp dụng cho nhiều tàu ngầm hạm đội thời Thế Chiến II. Tháp chỉ huy của nó cũng được làm suôn gọn hơn, nhưng hình dạng thân tàu không thay đổi.[1]

Sau đó Sabalo luân phiên các hoạt động thường lệ từ cảng nhà với những chuyến tuần tra đến các vùng biển Viễn Đông. Đợt thứ nhất diễn ra từ ngày 26 tháng 12, 1952 đến ngày 26 tháng 6, 1953; rồi tiếp nối bởi đợt thứ hai diễn ra từ giữa tháng 11, 1954 đến ngày 10 tháng 5, 1955. Chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 17 tháng 9 đến ngày 4 tháng 11, 1955 được thực hiện tại lãnh thổ Alaska và vùng phía Đông quần đảo Aleut. Đến tháng 9, 1966, nó chuyển cảng nhà đến San Diego, California, và tiếp tục hoạt động huấn luyện dọc theo vùng bờ Tây, chủ yếu phục vụ cho hoạt động huấn luyện chống tàu ngầm cho các hạm tàu nổi của hạm đội.[1]

Sabalo phục vụ cùng Đệ Nhất hạm đội cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 7, 1971,[1][13][14] và được cho rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân cùng vào ngày hôm đó.[1][13][14] Cuối cùng con tàu bị đánh chìm như một mục tiêu trong Dự án Thurber ngoài khơi San Diego vào ngày 21 tháng 2, 1973.[1][13][14]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: Navsource Naval History[13]
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j Naval Historical Center. Sabalo II (SS-302). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g h i Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d e Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
  4. ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 271-280
  5. ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
  6. ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
  7. ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  8. ^ a b Lenton 1973, tr. 79
  9. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  10. ^ Friedman 1995, tr. 208–209
  11. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  12. ^ Blair 2001, tr. 65
  13. ^ a b c d e f g Yarnall, Paul R. “Sabalo (SS-302)”. NavSource.org. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  14. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “Sabalo (SS-302)”. uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]