USS Sea Owl (SS-405)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Sea Owl (SS-405) trong Thế Chiến II
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Sea Owl (SS-405)
Đặt tên theo họ Cá vây tròn [1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine [2]
Đặt lườn 7 tháng 2, 1944 [2]
Hạ thủy 7 tháng 5, 1944 [2]
Người đỡ đầu bà Thomas L. Gatch
Nhập biên chế 17 tháng 7, 1944 [2]
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1969 [2]
Xếp lớp lại AGSS-405, 30 tháng 6, 1969[3]
Xóa đăng bạ 15 tháng 11, 1969 [2]
Danh hiệu và phong tặng 5 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 3 tháng 6, 1971 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Balao
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.526 tấn Anh (1.550 t) (mặt nước)[4]
  • 2.414 tấn Anh (2.453 t) (lặn)[4]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [4]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [4]
Mớn nước 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [4]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[6]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m)[6]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[6]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar SD phòng không [7]
  • radar SJ dò tìm mặt biển [7]
Vũ khí

USS Sea Owl (SS-405/AGSS-405) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,[Ghi chú 1] theo tên họ Cá vây tròn.[1] Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 1.689 tấn.[9] Sau khi xung đột chấm dứt con tàu vẫn hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, được trang bị ống hơi trong Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY), và đã phục vụ cho đến năm 1969. Nó cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Sea Owl được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[10] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[7][11] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[4] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[4][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[4] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[6]

Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[6] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[12][13]

Sea Owl được đặt lườn tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine vào ngày 7 tháng 2, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà Thomas L. Gatch, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Carter Lowe Bennett.[1][3][14]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, và New London, Connecticut, Sea Owl lên đường đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó băng qua kênh đào Panama và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 10, 1944.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Lên đường vào ngày 19 tháng 11 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh tại khu vực biển Hoa Đông, Sea Owl hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn bao gồm các tàu ngầm Sea Poacher (SS-406)Piranha (SS-389). Nó mang theo các kiểu ngư lôi thử nghiệm Mark 18 vận hành bằng điện và Mark 27 dẫn đường bằng dò âm thụ động.[15] Sau ba tuần tìm kiếm mục tiêu, nó đánh chìm mục tiêu đầu tiên là một tàu hộ tống bằng một quả Mark 27, rồi tiếp theo theo dõi một tàu hộ tống thứ hai, đánh trúng một quả Mark 27 và kết liễu mục tiêu bằng một quả Mark 18 từ khoảng cách 1.000 yd (910 m).[15] Đây là thành tích đầu tiên trong tác chiến của cả hai kiểu vũ khí mới này, và chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Guam vào ngày 15 tháng 1, 1945.[1]

1945[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ hai, Sea Owl phối hợp hoạt động cùng "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm PiranhaPuffer (SS-268) để tuần tra tại khu vực eo biển Luzonbiển Đông. Vào sáng ngày 18 tháng 4, được thông tin tình báo vô tuyến từ Trân Châu Cảng chỉ dẫn, nó bắt gặp qua radar một tàu ngầm đối phương ở vị trí 7 mi (11 km) về phía Tây Bắc đảo Wake, và bắt đầu truy đuổi. Tàu ngầm đối phương cặp vào Wake để chất dỡ hàng tiếp liệu, và Sea Owl phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công từ khoảng cách 1.600 yd (1.500 m), một quả đánh trúng cầu tàu còn hai quả kia trượt mục tiêu. Sea Owl chính thức được ghi công đã đánh chìm một tàu ngầm, Ro-46[16] hoặc Ro-56.[17] Nhưng cả hai chiếc Ro-46Ro-56 đều đã bị đánh chìm tại vùng biển Okinawa vào nữa đầu tháng 4, 1945, và chúng chưa từng đi sang khu vực Wake.[18][19] Tàu ngầm bị Sea Owl tấn công vào ngày 18 tháng 4 là chiếc I-372, nhưng nó đã lặn xuống ẩn náu và sống sót qua đợt tấn công này.[20] Sea Owl kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Midway vào ngày 21 tháng 4.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]

Lên đường vào ngày 20 tháng 5 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh, Sea Owl phối hợp hoạt động cùng "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm PufferTirante (SS-420). Họ hoạt động trong cả hai vai trò tìm kiếm và giải cứu lẫn tuần tra trong khu vực Hoàng Hảibiển Hoa Đông. Trong eo biển Tsushima về phía Đông Nam Mokpo, Triều Tiên vào ngày 9 tháng 6, nó phóng một loạt sáu quả ngư lôi tấn công một tàu tuần tra Nhật lúc 04 giờ 55 phút. Một quả trúng vào hầm đạn đã khiến Tàu phòng vệ duyên hải số 41 (800 tấn) nổ tung và đắm tại tọa độ 34°18′B 127°18′Đ / 34,3°B 127,3°Đ / 34.300; 127.300;[16][21] toàn bộ 173 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều tử trận. Các tàu hộ tống khác phản công với 84 quả mìn sâu được thả xuống trong suốt 14 giờ tiếp theo, nhưng không gây hư hại cho chiếc tàu ngầm.[1]

Bốn ngày sau đó, Sea Owl dùng hải pháo tấn công và phá hủy một thuyền buồm bốn cột buồm chất đầy gạo, rồi bắt giữ hai tù binh chiến tranh. Đến ngày 2 tháng 7, sau khi di chuyển hết tốc độ một khoảng cách 135 hải lý (250 km) trong đêm tối, nó giải cứu sáu thành viên một đội bay bị bắn rơi trên biển. Nó kết thúc chuyến tuần tra và đang ở lại Trân Châu Cảng khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.[1]

1945 – 1951[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi quay trở về Hoa Kỳ vào tháng 9, Sea Owl được điều động gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương và đặt căn cứ tại Balboa thuộc vùng kênh đào Panama trong thành phần Hải đội Tàu ngầm 6. Từ tháng 10, 1946 đến tháng 3, 1947, nó thực hiện chuyến đi dọc bờ biển Nam Mỹ, và tham gia cùng đồng đội Hải đội Tàu ngầm 6 để tập trận ngoài khơi đảo Culebra tại Tây Ấn. Sau đó nó hỗ trợ cho việc huấn luyện chống tàu ngầm tại vịnh Guantánamo, CubaKey West, Florida.[1]

Sau một lượt đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia từ tháng 9, 1947 đến tháng 1, 1948, Sea Owl tiến hành huấn luyện ôn tập tại vùng biển Caribe trước khi tiếp tục nhiệm vụ tại căn cứ Balboa từ ngày 12 tháng 1. Chiếc tàu ngầm hoạt động tại khu vực kênh đào và vùng biển Caribe trong các hoạt động huấn luyện và tập trận hạm đội. Đi đến Xưởng hải quân Portsmouth vào ngày 27 tháng 6, 1949, con tàu được đại tu thường lệ cho đến tháng 10, rồi được điều sang Hải đội Tàu ngầm 8 đặt căn cứ tại New London, Connecticut. Trong hai năm tiếp theo, nó tiếp tục hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, tham gia huấn luyện và tập trận hạm đội.[1]

1951 – 1961[sửa | sửa mã nguồn]

Trong đợt hiện đại hóa GUPPY tiến hành tại Xưởng hải quân Philadelphia từ tháng 4 đến tháng 8, 1951, Sea Owl được trang bị ống hơi,[1][3] giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Vào đầu năm 1953, nó được đại tu tại Xưởng hải quân CharlestonSouth Carolina, và sau khi hoàn tất đã đi đến New London, và sau đó sang khu vực Caribe để tham gia cuộc Tập trận Springboard. Khi quay trở lại New London vào tháng 3, nó lên đường cho một lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Nó đã tham gia cuộc Tập trận Keystone và viếng thăm Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hy LạpThổ Nhĩ Kỳ trong chuyến đi kéo dài ba tháng này.[1]

Quay trở về New London vào tháng 8, 1954, trong hai năm tiếp theo Sea Owl tiếp tục vai trò huấn luyện cho học viên trường tàu ngầm và hải quân dự bị dọc bờ biển Đại Tây Dương và khu vực Caribe. Nó tham gia những nhiệm vụ đặc biệt vào năm 19561957, quay trở lại New London cho đến ngày 1 tháng 9, rồi tham gia các cuộc Tập trận Fishplay và Strikeback của Khối NATO tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Nó quay trở lại New London vào tháng 10. Đến tháng 4tháng 5, 1958, nó lại tham gia cuộc Tập trận New Broom của Khối NATO. Sang đầu năm 1959, sau đợt đại tu kéo dài năm tháng, chiếc tàu ngầm lại tham gia một cuộc Tập trận Fishplay khác của Khối NATO; rồi sang năm 1960 đã có một lượt phục vụ thứ hai cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Con tàu được bảo trì vào đầu năm 1961, rồi lên đường vào ngày 6 tháng 3 cho một lượt phục vụ thứ ba cùng Đệ Lục hạm đội tại khu vực Địa Trung Hải. Khi quay trở về, nó được đại tu tại Xưởng hải quân Portsmouth.[1]

1962 – 1969[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Sea Owl được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][3] Nó được ghi công đã đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 1.689 tấn.[9]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 5 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Trong Thế Chiến II, Hoa kỳ sử dụng cùng lúc hai con tàu mang tên Sea Owl: SS-405 của Hải quân và SS Sea Owl, một tàu vận tải tấn công lớp Bayfield. Lewis, Skip (25 tháng 7 năm 2019). “USMM Cargo Ship”. S.S. Steel Scientist. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2024.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Naval Historical Center. Sea Owl (SS-405). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d Yarnall, Paul R. “Sea Owl (SS-405) (AGSS-405)”. NavSource.org. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
  5. ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
  6. ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
  7. ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  8. ^ a b Lenton 1973, tr. 79
  9. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  10. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  11. ^ Friedman 1995, tr. 208–209
  12. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  13. ^ Blair 2001, tr. 65
  14. ^ Helgason, Guðmundur. “Sea Owl (SS-405)”. uboat.net. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2024.
  15. ^ a b Blair 2001, tr. 788
  16. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  17. ^ Blair 2001, tr. 834-835
  18. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine RO-46: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  19. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine RO-56: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  20. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-372: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  21. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander; Cundall, Peter (2016). “IJN Escort CD-41: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]