USS Sea Robin (SS-407)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Sea Robin (SS-407) đang chạy thử máy ngoài khơi Portsmouth, ngày 4 tháng 9 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Sea Robin (SS-407)
Đặt tên theo một phân họ trong họ Cá chào mào[1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine [2]
Đặt lườn 1 tháng 3, 1944 [2]
Hạ thủy 25 tháng 5, 1944 [2]
Người đỡ đầu bà Homer Ambrose
Nhập biên chế 7 tháng 8, 1944 [2]
Xuất biên chế 1 tháng 10, 1970 [2]
Xóa đăng bạ 1 tháng 10, 1970 [2]
Danh hiệu và phong tặng 3 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 3 tháng 6, 1971
Đặc điểm khái quát(ban đầu)
Lớp tàu Balao
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.526 tấn Anh (1.550 t) (mặt nước)[3]
  • 2.414 tấn Anh (2.453 t) (lặn)[3]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [3]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [3]
Mớn nước 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[5]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar SD phòng không [6]
  • radar SJ dò tìm mặt biển [6]
Vũ khí
Đặc điểm khái quát(Guppy IA)
Trọng tải choán nước
  • 1.830 tấn Anh (1.860 t) (mặt nước) [8]
  • 2.440 tấn Anh (2.480 t) (lặn) [8]
Chiều dài 307 foot 7 inch (93,8 m) [9]
Sườn ngang 27 foot 4 inch (8,3 m) [9]
Mớn nước 17 foot (5,2 m) [9]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • Mặt nước:
  • 17,3 hải lý trên giờ (32,0 km/h) tối đa
  • 12,5 hải lý trên giờ (23,2 km/h) đường trường
  • Lặn:
  • 15 hải lý trên giờ (27,8 km/h) trong ½ giờ
  • 7,5 hải lý trên giờ (13,9 km/h) với ống hơi
  • 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) đường trường [8]
Tầm xa 17.000 hải lý (31.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 11 hải lý trên giờ (20 km/h)[9]
Tầm hoạt động 36 giờ lặn ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) [9]
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 10 sĩ quan
  • 5 chuẩn úy
  • 64-69 thủy thủ [9]
Vũ khí

USS Sea Robin (SS-407) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một phân họ trong họ Cá chào mào.[1] Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm được sáu tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 13.472 tấn.[10] Sau khi xung đột chấm dứt, nó tiếp tục hoạt động rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1970. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Sea Robin được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[11] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[6][12] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][4] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[5] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[5]

Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[13][14]

Sea Robin được đặt lườn tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine vào ngày 1 tháng 3, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà Homer Ambrose, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 8, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Paul Cecil Stimson.[1][15][16]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, và New London, Connecticut, Sea Robin lên đường đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó đi đến vùng kênh đào Panama vào ngày 12 tháng 10, 1944, và gặp phải sự cố bị một tàu buôn Scandinavia bắn nhầm khi cho rằng nó là một tàu ngầm U-boat Đức Quốc Xã; may mắn là chiếc tàu ngầm ở ngoài tầm bắn và không bị hư hại.[1] Nó đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 11.[16]

1945[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Sau sáu ngày ở lại cảng, Sea Robin lên đường hướng đến khu vực eo biển Luzon cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Vào ngày 6 tháng 1, 1945, ở vị trí khoảng 75 mi (121 km) về phía Đông Bắc đảo Hải Nam, trong một đợt tấn công ban đêm được radar hỗ trợ, nó đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở dầu Tarakan Maru (5.135 tấn) tại tọa độ 19°45′B 111°25′Đ / 19,75°B 111,417°Đ / 19.750; 111.417;[17][18] 12 thành viên thủy thủ đoàn đã mất tích cùng con tàu. Trong phần còn lại của chuyến tuần tra, chiếc tàu ngầm chỉ bắt gặp thủy lôi trôi nổi trên biển. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay về căn cứ tại Fremantle, Australia vào ngày 29 tháng 1.[1]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra tiếp theo, đang khi hoạt động trong biển Java ở phía Bắc Surabaya vào ngày 3 tháng 3, lúc 20 giờ 00, Sea Robin cơ động né tránh một tàu hộ tống Nhật Bản và phóng một loạt bốn quả ngư lôi. Một quả trúng đích đã đánh chìm tàu chở hàng Suiten Maru (2.500 tấn) tại tọa độ 06°29′N 112°48′Đ / 6,483°N 112,8°Đ / -6.483; 112.800; 32 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng con tàu.[17][19][20][1]

Sang ngày hôm sau, Sea Robin bắt gặp một đoàn tàu vận tải chuyển quân bao gồm hai tàu chở hàng, một pháo hạm được cải biến cùng nhiều tàu hộ tống. Một loạt ba quả ngư lôi phóng ra lúc 22 giờ 34 phút đã đánh trúng pháo hạm Manyo Maru (2.904 tấn) khiến nó đắm tại vị trí 62 nmi (115 km) về phía Đông đảo Bawean, tại tọa độ 05°50′N 113°46′Đ / 5,833°N 113,767°Đ / -5.833; 113.767.[17][19][21] Sau khi né tránh đợt phản công của các tàu hộ tống, nhiều giờ sau đó nó lại đi đến vị trí tấn công, phóng một loạt ba quả ngư lôi và tiếp tục đánh chìm Shoyu Maru (853 tấn) tại tọa độ 5°42′N 114°02′Đ / 5,7°N 114,033°Đ / -5.700; 114.033.[17][19] Chiếc tàu ngầm phóng tiếp một loạt ba quả ngư lôi vào các tàu còn lại, nhưng mục tiêu cơ động né tránh được. Trong nỗ lực tiếp theo, Sea Robin tấn công từ khoảng cách 900 yd (820 m), và một quả trúng đích đã khiến tàu rải lưới Nagara Maru (856 tấn) vỡ làm đôi và đắm ở vị trí 45 nmi (83 km) về phía Đông Bắc Borneo, tại tọa độ 5°41′N 114°01′Đ / 5,683°N 114,017°Đ / -5.683; 114.017.[17][22][19] Đợt phản công của các tàu hộ tống và máy bay tuần tra đối phương kéo dài trong suốt 24 giờ tiếp theo, nhưng chiếc tàu ngầm thoát được và đi đến căn cứ tại vịnh Subic, Philippines vào ngày 15 tháng 3 để bổ sung ngư lôi.[1]

Rời vịnh Subic vào ngày 19 tháng 3 để tiếp tục chuyến tuần tra, Sea Robin hướng sang biển Đông để hoạt động tại khu vực ngoài khơi đảo Hải Nam. Vào ngày 23 tháng 3, nó cứu vớt một phi công bị bắn rơi xuống biển. Đến ngày 30 tháng 3, nó lọt vào giữa đội hình sáu tàu khu trục Nhật Bản và đã phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công chiếc dẫn đầu, nhưng mục tiêu đổi hướng nên bị trượt. Một tàu khu trục thứ hai tiếp cận và phản công trong suốt 20 phút bằng mìn sâu, chiếc tàu ngầm lẫn tránh được và lại tấn công với loạt sáu quả ngư lôi nhưng không trúng đích. Đến ngày 8 tháng 4, nó đánh chìm hai tàu đánh cá nhỏ bằng hải pháo và bắt giữ ba tù binh chiến tranh. Sang ngày hôm sau nó vớt thêm mười người từ một tàu đánh cá khác bị máy bay Đồng Minh đánh chìm. Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra tại Trân Châu Cảng vào ngày 29 tháng 4.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]

Sea Robin rời Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 6 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh tại khu vực Hoàng Hảibiển Hoa Đông, nó chủ yếu làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ cho các chiến dịch không kích của máy bay ném bom B-29 Superfortress Không lực. Vào ngày 26 tháng 6, con tàu đang ở vị trí khoảng 105 nmi (194 km) về phía Tây Nam Aogashima thuộc quần đảo Nanpō, tại tọa độ 31°30′B 138°37′Đ / 31,5°B 138,617°Đ / 31.500; 138.617, khi một lô bom từ một chiếc B-29 bị phóng bỏ xuống biển chỉ cách con tàu 1.000 yd (900 m). Chiếc tàu ngầm không bị hư hại qua sự cố này.[23][1]

Vào ngày 9 tháng 7, Sea Robin đánh chìm một tàu tuần tra nhỏ và bắt giữ một tù binh chiến tranh. Sang ngày hôm sau, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở hàng Sakishima Maru (1.224 tấn) tại tọa độ 33°39′B 126°40′Đ / 33,65°B 126,667°Đ / 33.650; 126.667.[17][24] Không lâu sau đó, trong khi tìm cách tiêu diệt một thuyền buồm, nó bị máy bay tuần tra đối phương phát hiện, và hai quả bom đã ném xuống gần con tàu đã làm hư hại phần mũi tàu. Do không được phát hiện kịp thời, mũi tàu bị biến dạng đã khiến ngư lôi phóng ra đi chệch hướng trượt khỏi mục tiêu. Nó tiếp tục phá hủy nhiều tàu đánh cá nhỏ trước khi kết thúc chuyến tuần tra.[1]

Khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Sea Robin đang neo đậu tại căn cứ Midway. Nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Trân Châu Cảng, băng qua kênh đàp Panama vào ngày 20 tháng 9, và về đến Galveston, Texas bốn ngày sau đó.[1]

1945 – 1951[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chiến tranh Sea Robin phục vụ cùng Hải đội Tàu ngầm 6 đặt căn cứ tại Balboa, Panama. Vào ngày 15 tháng 5, 1947, nó thực hiện chuyến tuần tra mô phỏng vòng quanh lục địa Nam Mỹ kéo dài một tháng rưỡi, trở thành chiếc tàu ngầm Hoa Kỳ đầu tiên vòng qua mũi Horn. Trong năm 1948 nó tập trận và huấn luyện tại khu vực Balboa và Key West, Florida, rồi được đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia.[1]

Đến ngày 20 tháng 8, 1949, Sea Robin được điều sang Hải đội Tàu ngầm 8 và chuyển cảng nhà đến Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London. Nó khởi hành từ New London vào ngày 23 tháng 2, 1950 để tham gia cuộc Tập trận Portex phối hợp giữa Lục quân, Hải quân và Không quân tại vùng biển Caribe, cho đến ngày 23 tháng 3. Từ tháng 9 đến tháng 11, chiếc tàu ngầm được phái sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải.[1]

1951 – 1955[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1951, Sea Robin được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY IA), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Trong tháng 1tháng 2, 1952, nó tham gia cuộc Tập trận Micowex tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương nhằm thử nghiệm quy trình và thiết bị hoạt động trong điều kiện giá lạnh dưới sự giám sát của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân New London. Sau nó nó quay lại vùng biển ấm để tham gia cuộc Tập trận Pacex tại khu vực Caribe.[1]

Vào ngày 30 tháng 8, 1954, Sea Robin khởi hành cho một chuyến đi huấn luyện kéo dài sáu tuần vượt qua vòng Bắc Cực, có các chặng dừng tại Glasgow, ScotlandBelfast, Bắc Ireland. Đến ngày 4 tháng 1, 1955, nó lên đường tham gia cuộc Tập trận Springboard kéo dài sáu tuần tại vùng biển Caribe, rồi đến tháng 9 lại tham gia cuộc Tập trận New Broom IV trong khuôn khổ Khối NATO, viếng thăm Saint John, New Brunswick trên đường quay trở về New London.[1]

1956 – 1970[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Sea Robin được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][15] Nó được ghi công đã đánh chìm sáu tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 13.472 26.085 tấn.[10]

Bản mẫu:Ribbon devices/altBản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 3 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Naval Historical Center. Sea Robin (SS-407). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
  4. ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
  5. ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
  6. ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  7. ^ a b Lenton 1973, tr. 79
  8. ^ a b c d e f Friedman 1994, tr. 11-43
  9. ^ a b c d e f g Friedman 1994, tr. 242
  10. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  11. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  12. ^ Friedman 1995, tr. 208–209
  13. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  14. ^ Blair 2001, tr. 65
  15. ^ a b Yarnall, Paul R. “Sea Robin (SS-407)”. NavSource.org. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2024.
  16. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Sea Robin (SS-407)”. uboat.net. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2024.
  17. ^ a b c d e f The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
  18. ^ Hackett, Bob; Cundall, Peter (2020). “IJN TARAKAN MARU: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
  19. ^ a b c d Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard. “Seekrieg 1945, März”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
  20. ^ Casse, Gilbert; Cundall, Peter (2016). “IJN SUITEN MARU: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
  21. ^ Casse, Gilbert; van der Wal, Berend; Cundall, Peter (2023). “IJN MANYO MARU: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
  22. ^ Nagara Maru (4046820)”. Miramar Ship Index. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2013.
  23. ^ Hinman & Campbell 2019, tr. 245–246
  24. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard. “Seekrieg 1945, Juli”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]