Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Viên Chiếu”
nKhông có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 13: | Dòng 13: | ||
{|valign=top |
{|valign=top |
||
| |
|Sư đáp: |
||
:Ly hạ trùng dương cúc, |
:Ly hạ trùng dương cúc, |
||
:Chi đầu thục khí oanh. |
:Chi đầu thục khí oanh. |
||
Dòng 23: | Dòng 23: | ||
Tăng thưa: ''Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?'' |
Tăng thưa: ''Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?'' |
||
{|valign=top |
{|valign=top |
||
| |
|Sư đáp: |
||
:Trú tắc kim ô chiếu |
:Trú tắc kim ô chiếu |
||
:Dạ lai ngọc thố minh. |
:Dạ lai ngọc thố minh. |
||
Dòng 33: | Dòng 33: | ||
Tăng hỏi: ''Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?'' |
Tăng hỏi: ''Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?'' |
||
{|valign=top |
{|valign=top |
||
| |
|Sư đáp: |
||
:Bất thận thủy bàn kình mãn khứ |
:Bất thận thủy bàn kình mãn khứ |
||
:Nhất tao tha điệt hối hà chi. |
:Nhất tao tha điệt hối hà chi. |
||
Dòng 43: | Dòng 43: | ||
Tăng hỏi: ''Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?'' |
Tăng hỏi: ''Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?'' |
||
{|valign=top |
{|valign=top |
||
| |
|Sư đáp: |
||
:Manh qui xuyên thạch bích |
:Manh qui xuyên thạch bích |
||
:Ba miết thướng cao sơn. |
:Ba miết thướng cao sơn. |
||
Dòng 53: | Dòng 53: | ||
Tăng hỏi: ''Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?'' |
Tăng hỏi: ''Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?'' |
||
{|valign=top |
{|valign=top |
||
| |
|Sư đáp: |
||
:Vũ trích nham hoa thần nữ lệ |
:Vũ trích nham hoa thần nữ lệ |
||
:Phong xao đình trúc Bá Nha cầm. |
:Phong xao đình trúc Bá Nha cầm. |
||
Dòng 71: | Dòng 71: | ||
{|valign=top |
{|valign=top |
||
| |
|Kệ rằng: |
||
:Thân như tường bích dĩ đồi thì |
:Thân như tường bích dĩ đồi thì |
||
:Cử thế thông thông thục bất bi. |
:Cử thế thông thông thục bất bi. |
Phiên bản lúc 05:44, ngày 25 tháng 12 năm 2005
Thiền sư Viên Chiếu tức Mai Trực (999- 1090) là một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông, sư tu tại chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long. Sư là người Long Đàm, Phúc Đường, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội và là con người anh thái hậu Linh Cảm (mẹ của vua Lý Thánh Tông).
Cơ duyên và hành trạng
Thuở nhỏ sư là người thông minh, hiếu học. Một hôm, nghe đồn vị trưởng lão tại chùa Mật Nghiêm xem tướng giỏi, nên đến xem thử cho biết. Vị trưởng lão nhìn kỹ rồi bảo: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn".
Sư cảm ngộ, giã từ cha mẹ, đến núi Ba Tiêu với thiền sư Định Hương, hầu hạ nhiều năm, nghiên cứu Thiền học, Sư thường trì kinh Viên giác, rõ thấy được phép Tam quán[1].
Một tối trong lúc thiền định, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy, những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết, sâu rõ ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát.
Về sau, Sư tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tìm đến tham vấn rất đông.
Có vị tăng hỏi: Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?
Sư đáp:
|
|
Tăng thưa: Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?
Sư đáp:
|
|
Tăng hỏi: Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?
Sư đáp:
|
|
Tăng hỏi: Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?
Sư đáp:
|
|
Tăng hỏi: Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?
Sư đáp:
|
|
Sư có soạn “Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn”, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoa dâng vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị Cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem.
Xem xong, các ngài tâu vua Tống rằng: Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chính trả lại cho vua ta. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư.
Vào một ngày tháng chín năm Canh Ngọ, Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:
Kệ rằng:
|
|
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ.
Nguyên bản chữ Hán
Tác phẩm
- Tán Viên Giác Kinh.
- Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
- Tham Đồ Hiển Quyết.
- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Chú thích
- ^ Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna).
Tham khảo
- Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, NXB TP HCM 1999.
- Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
- Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên | pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán |