Aleksandar Dragović

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Aleksandar Dragović
Dragović với Áo năm 2016
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Aleksandar Dragović
Ngày sinh 6 tháng 3, 1991 (33 tuổi)
Nơi sinh Viên, Áo
Chiều cao 1,86 m (6 ft 1 in)
Vị trí Trung vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
Red Star Belgrade
Số áo 15
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1997–2009 Austria Wien
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2008 Austria Wien II 8 (2)
2009–2011 Austria Wien 66 (1)
2011–2013 FC Basel 77 (4)
2013–2016 Dynamo Kyiv 66 (0)
2016–2021 Bayer Leverkusen 71 (3)
2017–2018Leicester City (mượn) 11 (0)
2021– Red Star Belgrade 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2007–2008 U-17 Áo 11 (2)
2008–2009 U-19 Áo 6 (2)
2009–2022 Áo 100 (2)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22 tháng 5 năm 2021

Aleksandar Dragović (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1991 tại Viên) là cầu thủ bóng đá người Áo thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Red Star Belgrade.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

FK Austria Wien[sửa | sửa mã nguồn]

Dragović trưởng thành từ học viện đào tạo trẻ của câu lạc bộ FK Austria Wien. Ngày 6 tháng 5 năm 2008, anh có trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên khi được vào sân trong trận đấu với FC GratkornGiải hạng nhất nước Áo (Erste Liga).

Mùa hè năm 2008, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên và được đưa lên đội hình chính của Austria Wien. Anh có trận đấu đầu tiên tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo (Österreichische Fußball-Bundesliga) vào ngày 13 tháng 5 năm 2008. Trong mùa giải đầu tiên, anh có tổng cộng 17 lần ra sân và có được danh hiệu đầu tiên trong sự nghiệp là Cúp bóng đá Áo sau chiến thắng FC Admira Wacker Mödling 3-1 trong trận chung kết.

Ở mùa giải 2009-10, Dragović bắt đầu có được vị trí chính thức, thi đấu 32 trận tại giải vô địch quốc gia và giúp Austria Wien cán đích ở vị trí thứ hai, với chỉ 1 điểm sau FC Red Bull Salzburg. Trong mùa giải sau cùng tại Áo, anh có thêm 18 lần ra sân nữa cho Austria Wien.

Basel[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 2011, Dragović chuyển đến Thụy Sĩ thi đấu cho FC Basel với giá chuyển nhượng ước tính 775.000 euro.[1] Anh có trận đấu ra mắt vào ngày 12 tháng 2 năm 2011 trong chiến thắng 3-0 trước FC St. Gallen. Dragović kết thúc mùa giải 2010/2011 với chức vô địch tại Giải bóng đá quốc gia Thụy Sĩ (Swiss Super League).

Ngày 1 tháng 10 năm 2011, anh có bàn thắng đầu tiên cho Basel tại Swiss Super League trong trận thắng Servette FC 3-0. Basel giành được cú đúp danh hiệu mùa giải 2011-12 với Swiss Super League và Cúp bóng đá Thụy Sĩ, còn cá nhân Dragović được bình chọn là Hậu vệ Xuất sắc nhất Swiss Super League năm 2012.[2] Trong năm 2012, anh cũng được chọn vào Đội hình xuất sắc nhất vòng đấu bảng của UEFA Europa League.[3]

Ngày 11 tháng 4 năm 2013, trong trận tứ kết lượt về UEFA Europa League với Tottenham Hotspur, Dragović mắc lỗi dẫn đến bàn mở tỉ số của đội bóng Anh nhưng chính anh cũng là người ghi bàn nâng tỉ số lên 2-1 sau đó.[4] Anh chính thức có được danh hiệu vô địch Swiss Super League lần thứ ba liên tiếp cùng Basel sau khi mùa giải 2012-13 khép lại. Trong mùa giải này, Basel cũng lọt vào đến bán kết UEFA Europa League và á quân Cúp bóng đá Thụy Sĩ. Trong mùa giải cuối cùng với Basel, anh có tổng cộng 51 lần được ra sân, bao gồm 32 trận tại Swiss Super League và 19 trận trên đấu trường châu Âu.

Dynamo Kyiv[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 26 tháng 7 năm 2013, Dragović ký hợp đồng có thời hạn năm năm với Dynamo Kyiv, phí chuyển nhượng là 9 triệu euro, giúp anh trở thành cầu thủ Áo có giá trị chuyển nhượng cao nhất trong lịch sử.[5] Anh có trận ra mắt đội bóng mới vào ngày 11 tháng 8 trong trận gặp FC Chornomorets Odesa. Mùa giải đầu tiên anh thi đấu 26 trận cho đội bóng Ukraine và giành được Cúp bóng đá Ukraine. Đến mùa giải thứ hai thì anh cùng Dynamo Kyiv giành cú đúp danh hiệu quốc nội.

Ngày 4 tháng 11 năm 2015, Dragović ghi bàn thắng đầu tiên của mình tại UEFA Champions League trong trận đấu với Chelsea ở phút 78, khi mà trước đó anh là người đá phản lưới nhà ở phút 34. Chung cuộc Dynamo thua 1-2.[6]

Bayer Leverkusen[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 8 năm 2016, Dragović chính thức ký hợp đồng 5 năm với đội bóng Đức Bayer Leverkusen.[7]

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Dragović từng là thành viên của các đội U-16, U-17 và U-19 Áo. Anh từng có ý định muốn thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia vì thần tượng trung vệ Nemanja Vidić từ nhỏ nhưng đã quyết định chọn khoác áo Đội tuyển Áo khi mà Liên đoàn bóng đá Serbia không có động thái liên lạc với anh.[8]

Tháng 4 năm 2009, anh được triệu tập lần đầu tiên vào đội tuyển Áo cho trận đấu với Romania trong khuôn khổ Vòng loại World Cup 2010 nhưng đã bị chấn thương trong buổi tập trước trận. Đến ngày 6 tháng 6 năm 2009 anh mới có trận ra mắt đội tuyển trong trận đấu với Serbia.[9] Ngày 18 tháng 11 năm 2014, anh có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển quốc gia, từ chấm phạt đền trong trận giao hữu thua Brasil 2-1.[10]

Dragović là một trong 23 cầu thủ Áo được triệu tập tham dự Euro 2016 tại Pháp.[11] Trong trận mở màn của đội tuyển Áo tại giải đấu với Hungary, trong hoàn cảnh Áo đang bị dẫn trước 1-0, Dragović đã bị truất quyền thi đấu sau thẻ vàng thứ hai ở phút 66 và Áo đã để thua thêm một bàn nữa trong thời gian còn lại của trận đấu.[12] Đến trận đấu cuối cùng của vòng bảng với Iceland, anh đá hỏng phạt đền khi tỉ số đang là 1-0 thuộc về Iceland. Chung cuộc Áo thua Iceland 2-1 và đội tuyển Áo đã rời giải với chỉ vỏn vẹn 1 điểm, đứng cuối bảng F.[13]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 26 tháng 5 năm 2021[14]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Khác Tổng cộng
Hạng Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Austria Wien II 2008–09 Austrian First League 8 2 8 2
Austria Wien 2008–09 Austrian Bundesliga 16 0 0 0 1 0 17 0
2009–10 Austrian Bundesliga 32 0 1 0 9 0 42 0
2010–11 Austrian Bundesliga 18 1 2 0 6 0 26 1
Tổng cộng 66 1 3 0 16 0 85 1
FC Basel 2010–11 Swiss Super League 16 0 1 0 0 0 17 0
2011–12 Swiss Super League 28 1 3 0 8 0 39 1
2012–13 Swiss Super League 32 3 3 0 6 0 41 3
2013–14 Swiss Super League 1 0 0 0 0 0 1 0
Tổng cộng 77 4 7 0 14 0 98 4
Dynamo Kyiv 2013–14 Ukrainian Premier League 21 0 5 0 9 0 35 0
2014–15 Ukrainian Premier League 24 0 6 1 11 0 41 1
2015–16 Ukrainian Premier League 17 0 4 0 9 1 30 1
2016–17 Ukrainian Premier League 4 0 0 0 1 0 5 0
Tổng cộng 66 0 15 1 30 1 111 2
Bayer Leverkusen 2016–17 Bundesliga 19 0 1 0 3 0 23 0
2017–18 Bundesliga 1 0 0 0 0 0 1 0
2018–19 Bundesliga 18 2 2 0 8 0 28 2
2019–20 Bundesliga 15 0 4 0 6 0 25 0
2020–21 Bundesliga 18 1 3 0 8 1 29 2
Tổng cộng 71 3 10 0 25 1 106 4
Leicester City (mượn) 2017–18 Premier League 11 0 2 0 3 0 16 0
Tổng cộng sự nghiệp 299 10 37 1 3 0 95 2 438 13

Bàn thắng quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2021.[15]
# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1 18 tháng 11 năm 2014 Sân vận động Ernst Happel, Viên, Áo  Brasil 1–1 1–2 Giao hữu
2 28 tháng 3 năm 2021  Quần đảo Faroe 1–1 3–1 Vòng loại World Cup 2022

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Austria Wien
Basel
Dynamo Kyiv

Cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

  • Hậu vệ Xuất sắc nhất Swiss Super League 2012

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Dragović sinh ra tại Viên trong một gia đình người Serbia đến từ Belgrade và là cổ động viên của đội bóng Sao Đỏ Beograd.[16]

Dragović đã phải nhận nhiều lời chỉ trích nặng nề sau hành động vỗ vào đầu chính trị gia người Thụy Sĩ Ueli Maurer nhiều lần trong lễ ăn mừng danh hiệu vô địch cùng Basel vào tháng 5 năm 2012.[17] Ban đầu anh từ chối xin lỗi vì cho rằng đó chỉ là hành động vui vẻ nhưng sau cùng đã phải đến xin lỗi trực tiếp ông Ueli Maurer.[18]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Aleksandar Dragovic wechselt ins Ausland: Wiener Austria verkauft Talent an FC Basel” (bằng tiếng Đức). News.at. ngày 1 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015. line feed character trong |title= tại ký tự số 42 (trợ giúp)
  2. ^ “The Swiss-slapping Serbian Viennese on several English shopping lists”. FourFourTwo. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  3. ^ “Europa League team of the group stage”. UEFA. ngày 13 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  4. ^ [Europa League: Tottenham crash out on spot-kicks to Basel in Switzerland “http://www.skysports.com/football/basel-vs-tottenham/284780”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Sky Sports. ngày 11 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp)
  5. ^ “Defender Dragovic most expensive Austrian player after joining Dynamo Kiev for 9 million euros”. Neurope.eu. ngày 26 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  6. ^ “Chelsea 2-1 Dynamo Kiev: Willian scores stunning free-kick to rescue crucial Champions League victory for Jose Mourinho's side after Aleksandar Dragovic had scored at both ends”. Mail Online. ngày 6 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  7. ^ “Leicester target Aleksandar Dragovic joins Bayer Leverkusen from Dynamo Kyiv”. Sky Sports. ngày 24 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2016.
  8. ^ “Dragović: Želeo sam da zaigram za Srbiju, ali me nisu zvali iz FSS-a” (bằng tiếng Bosnia). Goal.com. ngày 29 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  9. ^ “Days of Wien and roses for Dragović”. UEFA. ngày 2 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  10. ^ “International friendly: Brazil score late on to sink Austria 2-1 in Vienna”. Sky Sports. ngày 19 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  11. ^ “Leicester defender Christian Fuchs named in Austria squad”. Sky Sports. ngày 2 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  12. ^ “ĐIỂM NHẤN Áo 0-2 Hungary: Áo cũng giống Bỉ, Hungary mới là ngựa ô?”. Thể thao và Văn hóa. ngày 15 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  13. ^ “Iceland 2-1 Austria”. BBC Sport. ngày 22 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2016.
  14. ^ Aleksandar Dragović tại Soccerway
  15. ^ “Aleksandar Dragovic”. European Football. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2018.
  16. ^ Velimirović, I. (ngày 11 tháng 12 năm 2011). “Dragović: FSS me nije zvao, teška srca sam prihvatio poziv Austrije”. Blic (bằng tiếng Serbia). Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  17. ^ Wegmann, Michael (ngày 19 tháng 5 năm 2012). “Dragovic hatte keine Ahnung, wer Ueli Maurer ist”. Blick (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  18. ^ “Are Arsenal about to raid Switzerland to add some muscle to their defence? talkSPORT Transfer Spotlight”. talkSPORT. ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]