Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2023

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Qatar  Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2023
Thông tin
Chặng đua thứ 17 trong tổng số 22 chặng của Giải đua xe Công thức 1 2023
Hình dạng trường đua Losail International
Hình dạng trường đua Losail International
Ngày tháng 8 tháng 10 năm 2023 (2023-10-08)
Tên chính thức Formula 1 Qatar Airways Qatar Grand Prix 2023
Địa điểm Trường đua Losail International
Lusail, Qatar
Thể loại cơ sở đường đua Trường đua xây dựng cố định
Chiều dài đường đua 5,419 km
Chiều dài chặng đua 57 vòng, 308,611 km
Thời tiết Quang đãng
Số lượng khán giả 120.000 [1]
Vị trí pole
Tay đua Red Bull Racing-Honda RBPT
Thời gian 1:23,778 phút
Vòng đua nhanh nhất
Tay đua Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT
Thời gian 1:24,319 phút ở vòng thứ 56 (thời gian kỷ lục)
Bục trao giải
Chiến thắng Red Bull Racing-Honda RBPT
Hạng nhì McLaren-Mercedes
Hạng ba McLaren-Mercedes

Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2023 (tên chính thức là Formula 1 Qatar Airways Qatar Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 8 tháng 10 năm 2023 tại trường đua Losail InternationalLusail, Qatar và là chặng đua thứ 17 của giải đua xe Công thức 1 2023.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Tại giải đua ô tô Công thức 1 Qatar, cuộc đua sprint thứ tư của mùa giải được tổ chức với tư cách là một phần của chặng đua này. Sprint shootout và cuộc đua sprint diễn ra vào thứ Bảy. Vòng phân hạng cho cuộc đua chính diễn ra vào thứ Sáu và cuộc đua chính vào ngày Chủ nhật.

Cũng như tại chặng đua trước đó ở Singapore, Williams sẽ tham gia với màu sơn xe đặc biệt.

Bảng xếp hạng trước cuộc đua[sửa | sửa mã nguồn]

Sau giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (223 điểm) và Lewis Hamilton (190 điểm) với 400 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (305 điểm) và Ferrari (285 điểm) với 623 điểm.

Verstappen, người hiện tại đứng đầu bảng xếp hạng các tay đua, có cơ hội giành được danh hiệu thứ ba và thứ ba liên tiếp trong sự nghiệp của mình bằng cách về đích ở vị trí thứ sáu trong cuộc đua sprint với việc Pérez giành chiến thắng cuộc đua này. Nếu Verstappen không ghi điểm ở cuộc đua sprint và Pérez thắng, Verstappen chỉ cần về đích thứ tám ở cuộc đua chính bất kể vị trí về đích của Pérez để giành chức vô địch.[2]

Lựa chọn bộ lốp[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C1, C2 và C3 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.[3]

Thay đổi tay đua[sửa | sửa mã nguồn]

Liam Lawson tiếp tục thay thế tay đua AlphaTauri Daniel Ricciardo tại cuộc đua này cho đến khi Ricciardo bình phục sau khi xương bàn tay trái của Ricciardo bị gãy trong buổi tập thứ hai của giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan.[4]

Thay đổi hình dạng đường đua[sửa | sửa mã nguồn]

Điểm kích hoạt DRS đã được di chuyển xa hơn về phía sau và được đặt ở vị trí 40 mét (130 ft) sau khúc cua thứ 15.[5][6]

Tường thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Buổi tập[sửa | sửa mã nguồn]

Trong buổi tập đầu tiên và duy nhất, Max Verstappen lập thời gian nhanh nhất với 1:27,428 phút trước Carlos Sainz Jr.Charles Leclerc.[7]

Vòng phân hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Logan Sargeant, Lance Stroll, Liam Lawson, Kevin MagnussenChu Quán Vũ bị loại.

Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của vòng phân hạng (Q3). Lewis Hamilton là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Yuki Tsunoda, Sainz Jr., Sergio Pérez, Alexander AlbonNico Hülkenberg bị loại.

Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Verstappen giành vị trí pole với thời gian là 1:28,877 phút trước George Russell và Hamilton sau khi thời gian của Lando NorrisOscar Piastri đều bị xóa vì cả hai đều vi phạm giới hạn đường đua.[8]

Sprint shootout[sửa | sửa mã nguồn]

Sprint shootout ban đầu dự kiến được tổ chức lúc 16:00 giờ địa phương (UTC+3) vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 trước khi được trì hoãn cho đến lúc 16:20 giờ địa phương (UTC+3) do có thêm buổi tập làm quen với đường đua.[9]

Sau đó, sprint shootout được tổ chức, bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 30 phút. Trong phần đầu tiên (SQ1), các tay đua có 12 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Russell là tay đua nhanh nhất SQ1 và sau khi SQ1 kết thúc, Stroll, Albon, Tsunoda, Magnussen và Sargeant bị loại.

Phần thứ hai (SQ2) kéo dài 10 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của vòng phân hạng (SQ3). Norris là tay đua nhanh nhất SQ2 và sau khi SQ2 kết thúc, Gasly, Hamilton, cả hai tay đua Alfa Romeo và Lawson bị loại.

Phần thứ ba (SQ3) kéo dài 8 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Piastri giành vị trí pole với thời gian là 1:24,454 phút trước Norris và Verstappen.[10]

Cuộc đua sprint[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi cuộc đua sprint bắt đầu, Piastri đã có thể giữ vững vị trí dẫn đầu của mình trước Russell và Sainz Jr. Ngay tại những vòng đua đầu tiên, xe an toàn được triển khai hai lần do Lawson và Sargeant đều bị mất lái và xe của họ mắc phải sỏi. Tại vòng đua thứ 11, cả Esteban Ocon, Pérez và Hülkenberg đều phải bỏ cuộc sau khi Ocon va chạm và lao vào thân xe của Pérez và làm hỏng cánh trước và hệ thống treo của Hülkenberg. Vụ va chạm do Ocon gây ra được những ban quản lý coi là một sự cố đua xe và vụ va chạm đó không được điều tra thêm.

Piastri đã giành chiến thắng cuộc đua sprint đầu tiên của anh trước Verstappen và đồng đội Norris. Vị trí thứ hai và bảy điểm tương đương của Verstappen đủ điều kiện trở thành nhà vô địch thế giới. Anh là tay đua đầu tiên kể từ Nelson Piquet vào năm 1983 lên ngôi vô địch thế giới vào ngày thứ Bảy. Ngoài ra, Verstappen cũng là tay đua đầu tiên lên ngôi vô địch thế giới sau một chặng đua sprint. Anh cũng trở thành tay đua thứ năm vô địch ba lần liên tiếp sau Juan Manuel Fangio, Michael Schumacher, Sebastian Vettel và Hamilton.[11] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Russell, Hamilton, Sainz Jr., Albon và Fernando Alonso.

Sau khi cuộc đua kết thúc, Leclerc và Stroll bị tụt xuống một số vị trí sau khi họ nhận các án phạt 5 giây vì vi phạm track limits.[12]

Cuộc đua chính[sửa | sửa mã nguồn]

Trước cuộc đua, người ta phát hiện ra rò rỉ nhiên liệu trong xe của Sainz Jr. khiến anh không thể bắt đầu cuộc đua.

Sau khi cuộc đua bắt đầu, Verstappen đã có thể giữ vững vị trí dẫn đầu của mình trước Russell. Ngay sau đó, cả hai tay đua Mercedes đã va chạm nhau tại khúc cua số 1 và Hamilton phải bỏ cuộc ngay lập tức. Russell sau đó phải vào làn pit để sửa chữa và bị tụt xuống các vị trí cuối cùng. Để cất chiếc Mercedes của Hamilton một cách an toàn, ban quản lý đã bắt đầu giai đoạn xe an toàn. Valtteri Bottas, Magnussen, Stroll và Lawson cũng đã hoàn thành lần đổi lốp đầu tiên của họ.

Sau khi giai đoạn xe an toàn kết thúc, Verstappen đã dẫn trước Piastri, người được hưởng lợi từ sự hỗn loạn trước mặt ở vòng đầu tiên và tiến từ vị trí thứ 6 lên vị trí thứ 2. Ở cuối sân, Russell đã vượt qua Pérez để giành vị trí thứ 13 trong khi Hülkenberg, người đứng thứ 8, nhận một án phạt 10 giây vì chiếm lấy vị trí xuất phát trống của Sainz Jr.

Sau giai đoạn pit stop đầu tiên, Verstappen tiếp tục dẫn trước Piastri và Alonso. Phía sau họ là Bottas và Stroll; cả hai đều đã ở trong làn pit trong giai đoạn xe an toàn trong giai đoạn đầu của cuộc đua. Trong khi Verstappen dẫn trước Piastri khoảng 8 giây ở phía trước, Russell tiếp tục leo lên để tiến gần vị trí dẫn đầu sau khi anh vượt qua Ocon để giành vị trí thứ bảy.

Ở vòng đua thứ 25, Piastri từ nhóm dẫn đầu đã mở màn làn đổi lốp thứ hai. Sau đó, Leclerc và Ocon cũng vào làn pit để đổi lốp trong vòng đua tiếp theo. Alonso đổi lốp ở vòng 26 và Norris ở vòng 27. Norris sau đó đã vượt qua Alonso để giành vị trí thứ ba, một phần nhờ kỷ lục thời gian đổi lốp nhanh nhất trong lịch sử Công thức 1 với thời gian 1,8 giây. Trong thời gian này, Pérez là tay đua đầu tiên phải nhận án phạt 5 giây vì vượt quá giới hạn đường đua, Anh đã thực hiện án phạt này ở lần đổi lốp thứ hai ở vòng đua thứ 31. Ở vòng đua thứ 34, Alonso mất lái ở khúc cua số 6 và phải lái qua bẫy sỏi. Leclerc đã tận dụng điều này để vượt Alonso. Do Alonso lái xe trở lại đường đua một cách không an toàn, nên ban quản lý cuộc đua đã điều tra vụ việc đó. Alonso bị khiển trách sau cuộc đua. Verstappen đổi lốp lần thứ hai ở vòng đua thứ 35 và giữ được vị trí dẫn đầu trước Piastri. Trong cùng một vòng đua, Sargeant phàn nàn rằng anh ấy cảm thấy ốm và đội đề nghị anh dừng cuộc đua. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục lái xe và quyết định bỏ cuộc ở vòng đua thứ 42.

Ở vòng đua thứ 38, Pérez nhận án phạt 5 giây thứ hai vì vi phạm giới hạn đường đua. Ở vòng 43, Stroll cũng phải nhận hình phạt 5 giây cho hành vi tương tự. Án phạt 5 giây cũng được áp đặt cho Gasly tại vòng đua thứ 44 vì hành vi tương tự.

Piastri mở màn làn đổi lốp thứ ba và cuối cùng ở vòng 44. Norris đổi lốp sau đồng đội của mình và trở lại đường đua ngay sau Piastri. Hai chiếc xe McLaren tranh giành vị trí thứ hai khi Russell phải đổi lốp trước họ cho đến khi Norris nhận được chỉ thị từ đội, yêu cầu giữ nguyên vị trí thứ ba của mình.

Ở vòng 46, Gasly nhận án phạt 5 giây thứ hai, và ở vòng 48, Albon nhận án phạt 5 giây đầu tiên. Tuy nhiên, Albon lại vi phạm giới hạn đường đua ở vòng đua thứ 50 và cũng phải nhận án phạt 5 giây thứ hai. Russell đổi lốp lần thứ tư ở vòng đua thứ 51 và quay trở lại đường đua sau hai chiếc xe McLaren. Verstappen đổi lốp lần cuối cùng ở vòng đua thứ 52. Ở vòng đua thứ 53, Stroll cũng phải nhận án phạt đền 5 giây thứ hai của anh. Ở vòng đua cuối cùng, Gasly và Pérez lại vi phạm giới hạn đường đua và mỗi tay đua phải nhận án phạt đền 5 giây thứ ba và những án phạt này được cộng vào tổng thời gian của họ.

Verstappen giành chiến thắng cuộc đua chính trước Piastri và Norris.[13] Đây là chiến thắng thứ 14 của Verstappen trong mùa giải này.[14] McLaren đã leo lên bục vinh quang lần thứ 500 trong lịch sử đội. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Russell, Leclerc, Alonso, Ocon, Bottas, Chu Quán Vũ và Pérez.

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

Vòng phân hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Số xe Tay đua Đội đua Q1 Q2 Q3 Vị trí
xuất phát
1 1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 1:25,007 1:24,483 1:23,778 1
2 63 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 1:25,334 1:24,827 1:24,219 2
3 44 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 1:26,076 1:24,381 1:24,305 3
4 14 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 1:25,223 1:25,241 1:24,369 4
5 16 Monaco Charles Leclerc Ferrari 1:25,452 1:25,079 1:24,424 5
6 81 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 1:25,266 1:24,724 1:24,540 6
7 10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 1:25,566 1:24,918 1:24,553 7
8 31 Pháp Esteban Ocon Alpine-Renault 1:25,711 1:24,928 1:24,763 8
9 77 Phần Lan Valtteri Bottas Alfa Romeo-Ferrari 1:26,038 1:25,297 1:25,058 9
10 4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 1:25,131 1:24,685 Không lập
thời gian
10
11 22 Nhật Bản Yuki Tsunoda AlphaTauri-Honda RBPT 1:26,058 1:25,301 11
12 55 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 1:25,808 1:25,328 12
13 11 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 1:25,991 1:25,462 Làn pit1
14 23 Thái Lan Alexander Albon Williams-Mercedes 1:26,118 1:25,707 13
15 27 Đức Nico Hülkenberg Haas-Ferrari 1:25,904 1:25,783 14
16 2 Hoa Kỳ Logan Sargeant Williams-Mercedes 1:26,210 15
17 18 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 1:26,345 16
18 40 New Zealand Liam Lawson Alfa Romeo-Ferrari 1:26,635 17
19 20 Đan Mạch Kevin Magnussen Haas-Ferrari 1:27,046 18
20 24 Trung Quốc Chu Quán Vũ Alfa Romeo-Ferrari 1:27,432 19
Thời gian 107%: 1:30,957

Chú thích:

  • ^1Sergio Pérez kết thúc vòng phân hạng ở vị trí thứ 13 nhưng anh được yêu cầu xuất phát cuộc đua từ vị trí xuất phát cuối cùng do vượt quá số lượng thành phần cho phép. Tiếp theo đó, anh được yêu cầu xuất phát cuộc đua chính từ làn pit do những thành phần mới có thông số kỹ thuật khác với những thành phần được sử dụng ban đầu đã được lắp trên ô tô của anh trong điều kiện parc fermé mà không có sự chấp thuận của đại biểu kỹ thuật và khung gầm mới được coi là một chiếc xe đua mới được lắp cho anh.[15]

Sprint shootout[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Số xe Tay đua Đội đua Q1 Q2 Q3 Vị trí
xuất phát
1 81 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 1:25,979 1:25,496 1:24,454 1
2 4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 1:25,672 1:24,947 1:24,536 2
3 1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 1:25,510 1:25,199 1:24,646 3
4 63 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 1:25,413 1:25,027 1:24,841 4
5 55 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 1:25,872 1:25,433 1:25,155 5
6 16 Monaco Charles Leclerc Ferrari 1:26,266 1:25,367 1:25,247 6
7 27 Đức Nico Hülkenberg Haas-Ferrari 1:26,450 1:25,499 1:25,320 7
8 11 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 1:26,123 1:25,143 1:25,382 8
9 14 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 1:25,936 1:25,344 Không lập
thời gian
9
10 31 Pháp Esteban Ocon Alpine-Renault 1:26,072 1:25,510 Không lập
thời gian
10
11 10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 1:25,829 1:25,686 11
12 44 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 1:26,424 1:25,962 12
13 77 Phần Lan Valtteri Bottas Alfa Romeo-Ferrari 1:26,449 1:26,236 13
14 40 New Zealand Liam Lawson AlphaTauri-Honda RBPT 1:26,202 1:26,584 14
15 24 Trung Quốc Chu Quán Vũ Alfa Romeo-Ferrari 1:26,669 1:54,546 15
16 18 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 1:26,849 16
17 23 Thái Lan Alexander Albon Williams-Mercedes 1:26,862 17
18 22 Nhật Bản Yuki Tsunoda AlphaTauri-Honda RBPT 1:26,926 18
19 20 Đan Mạch Kevin Magnussen Haas-Ferrari 1:27,438 19
Thời gian 107%: 1:31,391
20 2 Hoa Kỳ Logan Sargeant Williams-Mercedes 2:05,741 201
Chú thích:
  • ^1Logan Sargeant không lập được thời gian trong vòng quy luật 107%. Anh được phép tham gia cuộc đua sprint theo quyết định của ban quản lý.[15]

Cuộc đua sprint[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Số xe Tay đua Đội đua Số vòng Thời gian/
Bỏ cuộc
Vị trí
xuất phát
Số điểm
1 81 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 19 35:01,297 1 8
2 1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 19 + 1,871 3 7
3 4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 19 + 8,497 2 6
4 63 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 19 + 11,036 4 5
5 44 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 19 + 17,314 12 4
6 55 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 19 + 18,806 5 3
7 23 Thái Lan Alexander Albon Williams-Mercedes 19 + 19,864 17 2
8 14 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 19 + 21,180 9 1
9 10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 19 + 21,742 11
10 77 Phần Lan Valtteri Bottas Alfa Romeo-Ferrari 19 + 22,208 13
11 22 Nhật Bản Yuki Tsunoda AlphaTauri-Honda RBPT 19 + 22,863 18
12 16 Monaco Charles Leclerc1 Ferrari 19 + 24,860 6
13 20 Đan Mạch Kevin Magnussen Haas-Ferrari 19 + 24,970 19
14 24 Trung Quốc Chu Quán Vũ Alfa Romeo-Ferrari 19 + 26,868 15
15 18 Canada Lance Stroll2 Aston Martin Aramco-Mercedes 19 + 29,523 16
Bỏ cuộc 31 Pháp Esteban Ocon Alpine-Renault 11 Xe hỏng
do va chạm
7
Bỏ cuộc 27 Đức Nico Hülkenberg Haas-Ferrari 10 Xe hỏng
do va chạm
10
Bỏ cuộc 11 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 10 Xe hỏng
do va chạm
8
Bỏ cuộc 2 Hoa Kỳ Logan Sargeant Williams-Mercedes 2 Mất lái 20
Bỏ cuộc 40 New Zealand Liam Lawson AlphaTauri-Honda RBPT 0 Mất lái 14
Vòng đua nhanh nhất: Hà Lan Max Verstappen (Red Bull Racing-Honda RBPT) – 1:25,604 (vòng đua thứ 17)

Chú thích:

  • ^1Charles Leclerc về đích ở vị trí thứ 7 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 12 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua.[16]
  • ^2Lance Stroll về đích ở vị trí thứ 13 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 15 sau sau khi nhận một án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua.[16]

Cuộc đua chính[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Số xe Tay đua Đội đua Số vòng Thời gian/
Bỏ cuộc
Vị trí
xuất phát
Số điểm
1 1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 57 1:27:39,168 1 261
2 81 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 57 + 4,833 6 18
3 4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 57 + 5,969 10 15
4 63 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 57 + 34,119 2 12
5 16 Monaco Charles Leclerc Ferrari 57 + 38,976 5 10
6 14 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 57 + 49,032 4 8
7 31 Pháp Esteban Ocon Alpine-Renault 57 + 1:02,390 8 6
8 77 Phần Lan Valtteri Bottas Alfa Romeo-Ferrari 57 + 1:06,563 9 4
9 24 Trung Quốc Chu Quán Vũ Alfa Romeo-Ferrari 57 + 1:16,127 19 2
10 11 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 57 + 1:20,1812 Làn pit 1
11 18 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 57 + 1,21:5623 16
12 10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 57 + 1:22,3004 7
13 23 Thái Lan Alexander Albon Williams-Mercedes 57 + 1:31,0145 13
14 20 Đan Mạch Kevin Magnussen Haas-Ferrari 56 + 1 vòng 18
15 22 Nhật Bản Yuki Tsunoda AlphaTauri-Honda RBPT 56 + 1 vòng 11
16 27 Đức Nico Hülkenberg Haas-Ferrari 56 + 1 vòng 126
17 40 New Zealand Liam Lawson AlphaTauri-Honda RBPT 56 + 1 vòng 17
Bỏ cuộc 2 Hoa Kỳ Logan Sargeant Williams-Mercedes 40 Ốm 15
Bỏ cuộc 44 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 0 Va chạm 3
Không xuất
phát
55 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari Không xuất
phát
7
Vòng đua nhanh nhất: Hà Lan Max Verstappen (Red Bull Racing-Honda RBPT) – 1:25,604 (vòng đua thứ 17)
Tay đua xuất sắc nhất cuộc đua: Úc Oscar Piastri (McLaren-Mercedes), 27,9% số phiếu bầu[17]

Chú thích:

  • ^1 – Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất.[18]
  • ^2Sergio Pérez về đích ở vị trí thứ 11 nhưng anh nhận một án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua. Bất chấp án phạt này, anh được tăng lên vị trí thứ 10 sau khi Lance Stroll nhận một án phạt.[19]
  • ^3Lance Stroll về đích ở vị trí thứ 9 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 11 do nhận hai án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua.[19]
  • ^4Pierre Gasly về đích ở vị trí thứ 10 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 12 do nhận hai án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua.[19]
  • ^5Alexander Albon nhận hai án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua. Dù vậy, vị trí về đích của anh không bị ảnh hưởng.[19]
  • ^6Nico Hülkenberg dự định xuất phát cuộc đua từ vị trí thứ 14 nhưng anh đã xuất phát từ vị trí thứ mười hai một cách sai lầm. Vị trí này được bỏ trống bởi Carlos Sainz Jr. vì Sainz Jr. không thể xuất phát cuộc đua. Vì lỗi đó, anh đã nhận một án phạt mười giây.[19]
  • ^7Carlos Sainz Jr. không xuất phát cuộc đua do nhiên liệu bị rò rỉ. Vị trí xuất phát của anh được bỏ trống.[19]

Bảng xếp hạng sau cuộc đua[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng xếp hạng các tay đua[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Tay đua Đội đua Số điểm Thay đổi
vị trí
1 Hà Lan Max Verstappen* Red Bull Racing-Honda RBPT 433 +/-0
2 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 224 +/-0
3 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 194 +/-0
4 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 183 +/-0
5 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 153 +/-0
6 Monaco Charles Leclerc Ferrari 145 +/-0
7 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 136 +/-0
8 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 132 +/-0
9 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 83 +/-0
10 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 47 +/-0
  • Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này.
  • Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023.

Bảng xếp hạng các đội đua[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Đội đua Số điểm Thay đổi
vị trí
1 Áo Red Bull Racing-Honda RBPT 657 +/-0
2 Đức Mercedes 326 +/-0
3 Ý Ferrari 298 +/-0
4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Aston Martin Aramco-Mercedes 230 +/-0
5 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland McLaren-Mercedes 219 +/-0
6 Pháp Alpine-Renault 90 +/-0
7 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Williams-Mercedes 23 +/-0
8 Thụy Sĩ Alfa Romeo-Ferrari 16 1
9 Hoa Kỳ Haas-Ferrari 12 1
10 Ý AlphaTauri-Honda RBPT 5 +/-0

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “120,000 in Attendance at 2023 Qatar Grand Prix Weekend”. f1destinations.com. 9 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2023.
  2. ^ “When can Verstappen become the 2023 F1 world champion?”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  3. ^ “UNCHANGED NOMINATIONS FOR SINGAPORE, JAPAN AND QATAR – IN NAME AT LEAST”. UNCHANGED NOMINATIONS FOR SINGAPORE, JAPAN AND QATAR – IN NAME AT LEAST (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  4. ^ “Ricciardo to replace De Vries at AlphaTauri from Hungary”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  5. ^ “F1 – 2023 Qatar Grand Prix Preview”. Fédération Internationale de l'Automobile. 4 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
  6. ^ “F1 – 2021 Qatar Grand Prix Preview”. Fédération Internationale de l'Automobile. 18 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
  7. ^ “Großer Preis von Katar 2023 in Doha: Ergebnis 1. Freies Training”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  8. ^ “F1 Qatar GP: Verstappen takes grand prix pole, Norris loses front row to track limits”. www.autosport.com (bằng tiếng Anh). 6 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  9. ^ Coleman, Madeline. “F1 Qatar GP circuit breakdown: Lusail's a fast, twisty and novel challenge”. The Athletic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  10. ^ “F1 Qatar GP: Piastri on sprint shootout pole as track limits wreak havoc”. www.motorsport.com (bằng tiếng Anh). 7 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  11. ^ “Piastri gewinnt F1-Sprint in Katar, Verstappen fixiert WM-Titel!”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2023.
  12. ^ “Verstappen secures third title as Piastri takes Sprint win”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2023.
  13. ^ VnExpress. “Verstappen thắng áp đảo sau khi vô địch F1 năm thứ ba liên tiếp”. vnexpress.net. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  14. ^ “F1 Qatar GP: Verstappen takes 14th win of 2023; Mercedes drivers clash”. www.motorsport.com (bằng tiếng Anh). 8 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  15. ^ a b “Standings”. Formula 1® - The Official F1® Website (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2023.
  16. ^ a b “Formula 1 Qatar Airways Qatar Grand Prix 2023 – Sprint”. Formula 1. 8 tháng 10 năm 2023. Truy cập 8 tháng 10 năm 2023.
  17. ^ “Driver of the Day 2023 | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2023.
  18. ^ “Formula 1 Qatar Airways Qatar Grand Prix 2023 - Fastest Laps”. Formula 1® - The Official F1® Website (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2023.
  19. ^ a b c d e f “Formula 1 Qatar Airways Qatar Grand Prix 2023 - Race Results”. Formula 1® - The Official F1® Website (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Chặng đua trước:
Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản 2023
Giải đua xe Công thức 1
2023
Chặng đua sau:
Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 2023
Chặng đua trước:
Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2021
Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar Chặng đua sau:
Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2024