Phan Thanh Giản

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Thanh Giản
潘清簡
Phan Thanh Giản tại Paris năm 1863 nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ triều đình Đại Nam sang Pháp thương nghị
Chức vụ
Nhiệm kỳ1865 – 1867
Nhiệm kỳ1858 – 1865
Nhiệm kỳ1850 – 1858
Nhiệm kỳ1849 – 1850
Nhiệm kỳ1847 – 1849
Nhiệm kỳ1839 – 1847
Nhiệm kỳ1836 – 1839
Thông tin chung
Sinh10 tháng 10, 1795
Tổng Tân An Định Viễn, dinh Long Hồ, Đại Việt
Mất5 tháng 8, 1867(1867-08-05) (71 tuổi)
phủ Định Viễn, Vĩnh Long, Đại Nam
VợTrần Thị Hoạch
ChaPhan Thanh Ngạn
MẹLâm Thị Búp
Họ hàngPhan Thanh Tập (Ông nội)
Huỳnh Thị Học (Bà nội)
Phan Thanh Giản
Nghề nghiệpthi sĩ, quan viên nhà Nguyễn

Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡; 17961867), tự Tĩnh Bá (靖伯), Đạm Như (淡如), hiệu Mai Xuyên (梅川), Lương Khê (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã đàm phán và chấp thuận cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp.

Thân thế và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Thanh Giản tự là Tịnh Bá, có một tên tự nữa là Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh vào giờ Thìn ngày 12 tháng 10 năm Bính Thìn (1796), tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (sau là làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị, huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long; nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

Tổ phụ của ông là Phan Thanh Tập (có nơi chép là Chỉnh), hiệu Ngẫu Cừ, vốn là người Hoa Nam đời nhà Minh. Khi nhà Minh bị quân Mãn Thanh tràn sang và chiếm được. Gia đình họ Phan cũng như những người không tùng phục nhà Thanh trốn sang Việt Nam, ở tỉnh Bình Định, tổng Trung An, làng Hội Trung. Ở đây, Phan Thanh Tập cưới Huỳnh Thị Học, sinh ra Phan Thanh Ngạn. Năm Tân Mão (1771) nhà Tây Sơn dấy binh nổi dậy chống lại triều đình, Phan Thanh Tập dắt gia quyến vào Nam.

Ban đầu gia quyến họ Phan Thanh ở về Trang Tông (thuộc tỉnh Định Tường, Mỹ Tho ngày nay), rồi dời xuống Mân Thít (thuộc trấn Vĩnh Thanh, Vĩnh Long ngày nay), kế đến huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng ở trong tỉnh Vĩnh Long, sau mới dời qua lập nghiệp tại làng Tân Thành, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (sau đổi ra làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng Đạo, tỉnh Vĩnh Long; nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

Lập nghiệp tại làng Tân Thạnh, cất nhà ở gảnh Mù U, bãi Ngao tức Ngao Châu. Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán, hiệu Mai Thự, cưới Lâm Thị Bút người làng Phú Ngãi, tổng Bảo Thuận, sinh ra Phan Thanh Giản giữa lúc chúa Nguyễn Phúc Ánh chiêu quân kịch lại nhà Tây Sơn. Thanh Ngạn để vợ con ở lại nhà lên tỉnh Vĩnh Long làm Thơ Lại.

Năm Mậu Ngọ (1798), lãnh phận sự vận lương trên chiếc thuyền "Hồng Nhật", tới vịnh Đà Nẵng không may gặp bão, thuyền lương trôi đến tận đảo Hải Nam, Thanh Ngạn may mắn còn sống sót, lần về quê quán. Rồi nhờ có nhiều công lao, Thanh Ngạn được thăng chức Thủ Hạp.

Năm Nhâm Tuất (1802) Lâm Thị Búp qua đời khi mới 26 tuổi (1776-1802). Phan Thanh Giản mất mẹ lúc chỉ mới 7 tuổi. Và cũng trong năm đó, nhà Nguyễn thống nhất được Nam Bắc, Nguyễn Ánh lên ngôi xưng hiệu là Gia Long.

Gia Long năm thứ hai (Quý Hợi 1803), Phan Thanh Ngạn không thể ở vậy nuôi con nên liều cưới người vợ thứ hai là Trần Thị Dưỡng. Người mẹ kế này cũng không đến nỗi khắc nghiệt với Thanh Giản, cho Giản học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.

Năm Ất Hợi (1815), Thanh Ngạn bị vu hãm can án, vì các quan lại ghét Ngạn cang trực. Ngạn bị khép tội phải phạt một năm tù. Thanh Giản bấy giờ đã 20 tuổi, thân hành lên tỉnh, xin vào yết kiến quan Hiệp trấn Lương, nhưng quan không thể nào làm khác được, chỉ an ủi Giản nên cố lo tương lai và hết lòng giúp đỡ cho Giản ăn học.

Giản thọ ân. Hằng ngày siêng cần học tập. Ngày hai buổi chả khi nào quên nhân đôi nhân ba giờ vào khám thăm cha, chịu cực khổ thay cha. Các quan lại thấy thế đều cảm động.

Chừng Thanh Ngạn mãn hạn tù, Hiệp trấn Lương bèn khuyên Thanh Ngạn nên để Giản ở lại Vĩnh Long mà học cho tiện. Thanh Ngạn vui lòng. Từ ấy, Phan Thanh Giản ở học tại tỉnh, thọ giáo với một người họ Võ (không rõ tên là gì, nhưng chắc chắn không phải là cụ Võ Trường Toản như nhiều người đã nói, vì khi cụ Võ Trường mất năm Nhâm Tý (1792) Phan Thanh Giản còn chưa ra đời)

Bấy giờ trong tỉnh lại có một người đàn bà tên là Ân cũng thương Giản hiếu thuận siêng cần, thường cho cơm áo. Thanh Giản lấy làm cảm kích, dốc lòng gắng gổ...

Ra làm quan[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dung Phan Thanh Giản

Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Ông là người đậu Tiến sĩ khai khoa ở Nam Kỳ.

Từ đấy, ông làm quan trải 3 triều, là Minh Mạng, Thiệu TrịTự Đức.

  • Dưới triều Minh Mạng, ông lần lượt giữ các chức vụ: Hàn lâm viện biên tu, Lang trung bộ Hình (1827), Tham hiệp trấn Quảng Bình (1828), Hiệp trấn Quảng Nam (1828), Quyền nhiếp Tham hiệp trấn Nghệ An (1829), Lễ bộ tả thị lang và tham gia nội các (1830), Hàn lâm viện kiểm thảo sung Nội các hành tẩu và Hộ bộ viên ngoại lang (1832), Đại lý tự khanh sung Cơ mật viện đại thần (1834), Kinh lược trấn Tây (1835), Tuần phủ Quảng Nam (1836), Thống chánh sứ và Phó sứ rồi Hộ bộ thị lang (1839). Dưới triều Minh Mạng, ông đã ba lần bị giáng chức, trong đó có lần ông phải làm "Lục phẩm thuộc viên", tức giữ việc quét dọn, sắp đặt bàn ghế ở chốn công đường (1836).
  • Dưới triều Thiệu Trị, ông làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên (1840), Phó đô ngự sử Đô sát viện (1847).
  • Dưới triều Tự Đức, ông phụ trách giảng dạy và điều khiển trường Kinh Diên, Thượng thư bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần (1849). Năm 1850, ông được cử vào trấn nhậm miền Tây Nam Kỳ cùng với tướng Nguyễn Tri Phương. Sau đó, được phong làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.
  • Ông được vua Tự Đức giao làm Tổng tài Quốc sử quán coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục phụ tá có một Phó Tổng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên, 6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm 1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê bên trên.

Thương nghị với người Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Thanh Giản

Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ và tấn công tại cửa biển Đà Nẵng rồi lần lượt đánh chiếm các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Ông Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, sau đó đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết hiệp ước hòa bình và hữu nghị Hòa ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn.

Hiệp ước gồm 12 khoản, theo đó: 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tườngđảo Côn Lôn (Côn Đảo) phải nhượng cho Pháp (khoản 3 Hiệp ước); triều đình phải trả cho PhápTây Ban Nha một khoản bồi thường chiến phí là 4 triệu piastre trong 10 năm, mỗi năm 400.000 đồng (quy ra bạc là 288 nghìn lạng-khoản 8 Hiệp ước); đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (khoản 11 Hiệp ước). Do hành động này mà dân gian có câu truyền: "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình thí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng). Theo nhà sử học Phan Huy Lê, nguồn gốc và xuất xứ của câu này chưa được làm rõ, theo ông câu này không thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương thời, như Nguyễn Thông.

Tuy việc thương nghị với phía Pháp, vua Tự Đức có cho ông tùy nghi tình thế mà định đoạt nhưng về việc cắt đất, nhà vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại 3 tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe, nhưng Phan Thanh Giản đã đồng ý cả việc cắt đất lẫn việc bồi thường chiến phí. Do đó mà 2 ông khi trở về đã bị quở trách nặng nề.[1]

Sứ đoàn Phan Thanh Giản gặp mặt hoàng đế Napoleon III tại triều đình Đệ Nhị Đế chế Pháp.

Việc chuộc 3 tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú ThứNgụy Khắc Đản) sang nước Pháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại 3 tỉnh miền Đông (1863), lúc đầu đoàn sứ thần đã đạt được nhiều kết quả khả quan, Hoàng đế Napoleon III của Đệ Nhị Đế chế Pháp đã cử Gabriel Aubaret làm lãnh sự ở Vọng Các (Bangkok, Thái Lan), đồng thời đến Kinh đô Huế để đàm phán với Đại Nam một bảng hòa ước mới thay thế Hòa ước Nhâm Tuất (1862).[2] Giữa năm 1864, Aubaret đến Huế và bắt đầu thảo luận với Phan Thanh Giản về Dự thảo Hòa ước Aubaret, 18/19 điều đã được thông qua và ký sơ bộ, trong đó có điều khoản quan trọng nhất là cho Nhà Nguyễn chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng bù vào đó thì phải cho Pháp bảo hộ 6 tỉnh Nam Kỳ. [3] Sau khi dự thảo của hòa ước mới ký kết được 5 ngày thì Aubaret đã nhận phản lệnh từ chính phủ Pháp, yêu cầu ông không được ký kết hoà ước mới, tiếp tục bảo lưu hoà ước 1862. Thư này được ký và gửi đi bởi Ngoại trưởng Édouard Drouyn de Lhuys, vào ngày 06/06/1864.[4] Vì thế mà mọi nỗ lực của sứ đoàn Phan Thanh Giản trong suốt 2 năm trời coi như đổ sông đổ biển.

Năm 1865, ông được phục chức Hiệp biện đại học sĩ, Hộ bộ thượng thư, sung Kinh lược sứ 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và được tha tội cách lưu.

Ngày 20 tháng 6 năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế ngày 25 tháng 5 năm 1863), yêu cầu ông gửi mật thư cho thủ thành An GiangHà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, cho rằng không thể giữ nổi, Phan Thanh Giản đã quyết định giao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Thế là chỉ trong 5 ngày (20-24/6/1867) thực dân Pháp chiếm gọn 3 tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn.[5]

Sau khi thành mất, Phan Thanh Giản gói mũ áo, phẩm hàm, kèm theo sớ tạ tội và gửi về triều. Song chờ nửa tháng vẫn không thấy triều đình hồi âm. Lo lắng rồi thất vọng, Phan Thanh Giản uống thuốc phiện hòa với giấm thanh tự sát và qua đời vào nửa đêm ngày 5/7 năm Đinh Mão, tức 4/8/1867, hưởng thọ 72 tuổi.

Nhà sử học Phạm Văn Sơn cho rằng việc Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự sát không phải vì hổ thẹn với nhân dân mà chỉ là do sức ép từ các vị quan khác:

...Thiếu tá Ansart có gửi cho tham mưu trưởng Reboul một bức thư đề ngày 4-8-1867 có đoạn nói sau khi để mất 3 tỉnh miền Tây Phan Thanh Giản vẫn không có ý quyên sinh nhưng vì áp lực của một số quan lớn mà Phan phải dùng độc dược. Khi các quan còn có mặt ở Vĩnh Long thầy thuốc Leconia có đưa thuốc giải độc đến để cấp cứu nhưng Phan từ khước. Người ta đã phải lợi dụng những phút Phan bị ngất đi để đổ thuốc cho ông nhưng quá muộn rồi. Ông già đã nuốt quá nhiều thuốc phiện giấm thanh sau nhiều ngày nhịn đói và sầu muộn...

Cũng trong bức thư này, Ansart kể rằng người Pháp đã tận lực cứu vị kinh lược miền Tây nên mới đưa thầy thuốc Leconia tới. Có điểm đáng chú ý: Sau khi các quan rời Vĩnh Long thì Phan không những chịu uống thuốc giải độc mà còn thiết tha sống là đằng khác. Phan luôn hỏi cha Mac: "Tôi có thoát chết được không Cha."

Ngoài vấn đề này, Ansart còn nói đến việc Phan gửi ông ta vài ngàn quan tiền Pháp để chi dụng vào việc học hành của các cháu (cháu gọi bằng ông) ở Sài Gòn vài ngày trước khi Phan trút hơi thỏ cuối cùng.[6]

Soái phủ Pháp là Pierre-Paul de La Grandière sai đưa linh cữu ông với đoàn binh hộ tống về Bảo Thạnh an táng. Mộ ông rất khiêm nhường, đề 7 chữ Nho: Lương Khê Phan lão nông chi mộ (梁溪潘老農之墓), giao cho Phan Đôn Hậu và Phan Đôn Khải chăm nom.[5]

Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Và từ rất lâu, nhân dân ở vùng núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang vẫn coi ông là một vị thần Thành hoàng. Ngoài ra ông còn được thờ tại Văn miếu Vĩnh Long.

Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn thờ Phan Thanh Giản trong Văn Thánh Miếu Vĩnh Long.

Năm 1852, Phan Thanh Giản được vua Tự Đức ban thưởng một tấm kim khánh trên khắc 4 chữ: "Liêm, Bình, Cần, Cán".

Một sĩ quan Pháp là Reunier, người đã từng tham gia chiến tranh ở Trung QuốcNam Kỳ từ 1857 đến 1863 và cũng là một trong những người chống đối dự án triệt binh của Pháp ra khỏi Nam Kỳ. Năm 1864, Reunier xuất bản dưới bút hiệu H.Abel hai quyển sách là La question de Cochinchine au point de vue des interets FrancalsSolution pratique de la quesstion de Cochin-chine, trong đó ông đã có nhận xét về Phan Thanh Giản như sau:

Sống trong 4 tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta... trong thời gian vượt biển này (chuyến đi sứ sang Pháp) ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng nhiệt thành ái quốc của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà...[7]

Trong sách Đi & ghi nhớ của Sơn Nam (xuất bản năm 2008), một lần nữa, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản lại được đề cập trong một đoạn viết như sau:

Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi (lời thuật của một giáo viên lớn tuổi đi cùng với Sơn Nam) được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Chào ông Phan, (được xem như) là lời thề rửa hận cho ông, cho chớ không phải để bắt chước ông... Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đâu từ năm 1931... với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực. Xin đề nghị: Trong chương trình Sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ lý đủ tình... Ông đã để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng.[8]

Thái độ với Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Trong cơn nước biến khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, thái độ chủ hòa, đề nghị người Việt đầu hàng, không kháng cự của ông khiến không ít người đã phê phán.

Ngày 5 tháng 6 năm 1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp, cùng với Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn đã ký với Bonard và Palanca một hiệp ước gọi là Hòa ước Nhâm Tuất (1862), cắt đứt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, bồi thường chiến phí trong 10 năm, mỗi năm 400 ngàn quan cho đại diện của Pháp ở Sài Gòn. Trước đó, vua Tự Đức dặn rằng có thể chấp thuận bồi thường chiến phí chứ tuyệt đối không được cắt lãnh thổ đất nước cho Pháp. Biết tin Phan – Lâm không làm theo lời dặn, vua Tự Đức đã trách mắng[9]:

“Ôi con dân mấy triệu, tội gì mà khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”.

Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng).

Tháng 11 năm 1868, vì làm mất Nam Kỳ, Triều đình Huế đã xử ông án "trảm quyết" (nhưng vì chết nên được miễn), lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ.[10]

“Phan Thanh Giản thủy chung lời nói không xứng với việc làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch xuống biển Đông, thực là táng tận lương tâm, quá đỗi phụ ơn.”.

Mãi đến 19 năm sau (1886), dưới thời Pháp thuộc, ông được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ[11]. Việc vua Đồng Khánh khôi phục chức vị cho Phan Thanh Giản có lẽ là do sức ép của Pháp, vì chính Đồng Khánh cũng là ông vua do Pháp đưa lên ngôi để có danh nghĩa chống lại vị vua yêu nước Hàm Nghi.

Cũng có những trí thức đương thời thì tỏ ra thông cảm cho ông. Như Nguyễn Thông đã từng dâng sớ lên vua Tự Đức để giãi bày nỗi lòng cho ông. Và nhà thơ đương thời Nguyễn Đình Chiểu cũng đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu:

Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao châu
Ba triều công cán đôi hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu
Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ rày mặc gió thu.

Phó đô đốc La Grandière, chỉ huy quân đội Pháp trong chiến dịch chiếm đóng 3 tỉnh Tây Nam Kỳ năm 1867 đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng Phan Thanh giản qua bức thư điếu tang gửi gia đình ông:[12]

"Cái kỷ niệm rất đáng kính phục mến yêu quan lớn Phan thì người Pháp hằng ghi vào lòng, dầu cho sự ghen ghét của kẻ nghịch cũng không làm phai được. Đối với triều đình thì trừ ra một mình quan lớn Phan là thấy rõ đâu là ích lợi nước nhà, vì chẳng muốn sai cái chủ nghĩa (?) và ngồi xem kết quả nguy vong cho nước Nam nên quan lớn Phan mới đành lòng tự tử. Bức thư này tỏ lòng thương tiếc và tôn kính của bản chức, xin hãy tin chắc rằng người Pháp hằng bền một lòng trân trọng đối với quan lớn Phan và gia quyến của ngài... Bản chức hứa hết lòng bao bọc cho con cháu quan lớn Phan, ai muốn tước Lộc chi bản chức sẽ xin cho vừa ý..."

Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, lúc đó Phan Thanh Giản với chức Kinh lược toàn quyền quân sự và dân sự ba tỉnh miền Tây, song ông đã đầu hàng. Theo lệnh của La Grandière, Phan gởi công thơ cho quan Tổng đốc An Giang, Hà Tiên như sau:

Hỡi các quan và dân chúng!… Bản chức van vái trời, bản chức nghe theo lẽ phải và tự nhủ: “Mình còn ngốc khi mình đánh người Phú lang sa bằng võ khí, cũng như con nai con muốn bắt con cọp. Mình lại kéo về phe mình một cách vô ích những tai họa lớn, để tai hại ấy đè lên đầu dân mà trời đã giao cho mình chăn. Vậy bản chức viết công thơ cho các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo và gươm giao thành trì khỏi chống lại…”[9]

Trong văn bia tại lăng mộ, vua Tự Đức kết tội những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước với Pháp (trong đó Phan Thanh Giản dẫn đầu), rằng "không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết..."

Vua Tự Đức còn có kết luận rằng: "Hai ngươi (chỉ Phan và Lâm) không chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân của vạn thế."

Tuy vậy ông có hai con trai là Phan Tôn (1837 - 1893) và Phan Liêm (1833 - 1896), đều nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1963, hành động giao nộp ba tỉnh miền Tây, được Trần Huy Liệu đem ra bàn luận, và đã kết tội ông là kẻ bán nước.[13]

Sau năm 1975, nhiều đường phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Phan Thanh Giản đã bị đổi thành tên khác.[14][15]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm giá trị

Tên đường phố[sửa | sửa mã nguồn]

Từ sau năm 1939, tại Sài Gòn đã có một con đường nhỏ mang tên đường Phan Thanh Giản. Đến ngày 22 tháng 3 năm 1955, nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hòa cho đổi tên thành đường Ngô Tùng Châu. Ngày 4 tháng 4 năm 1985, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh lại lần nữa quyết định đổi tên thành đường Lê Thị Riêng cho đến ngày nay.

Cuối năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mặt trận Việt Minh đã cho đổi tên đường trước đây mang tên người Pháp thành đường phố mang tên danh nhân người Việt Nam, trong đó có đường Phan Thanh Giản ở thành phố Hà Nội (nay là đường Lê Phụng Hiểu) và ở thành phố Hải Phòng (nay là đường Ký Con). Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp chiếm lại được các thành phố này vào cuối năm 1946 thì tên đường Phan Thanh Giản cũng bị mất đi và trở lại bằng các tên đường mang tên người Pháp như cũ.

Sau đó, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu vốn trực thuộc khối Liên hiệp Pháp cũng cho đặt tên đường phố mang tên Phan Thanh Giản tại các thành phố này trên cơ sở một lần nữa xóa bỏ tên đường cũ mang tên người Pháp. Cụ thể, từ đầu năm 1951, tại thành phố Hà Nội lại có đại lộ Phan Thanh Giản và đến năm 1954 thành phố Hải Phòng cũng có đại lộ Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sau năm 1955Hải Phòng con đường này đã đổi tên thành đường Cù Chính Lan cho đến nay; và tại Hà Nội đến năm 1964 thì đường Phan Thanh Giản cũng đổi tên thành đường Nguyễn Hữu Huân cho đến ngày nay.

Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định) có tới hai con đường mang tên Phan Thanh Giản:

  • Tại Đô thành Sài Gòn cũ, từ ngày 22 tháng 3 năm 1955 đường Phan Thanh Giản chính thức được đặt tên cho một trong những tuyến đường lớn và dài nhất. Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường này bị thay đổi tên thành đường Điện Biên Phủ (đoạn từ vòng xoay cầu Điện Biên Phủ đến vòng xoay ngã 7) theo Quyết định của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định.
  • Tại quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định cũ, từ sau năm 1955 đã có một con đường quan trọng mang tên là đường Phan Thanh Giản đi ngang qua khu vực trung tâm quận lỵ Gò Vấp. Mãi cho đến ngày 4 tháng 4 năm 1985, đường Phan Thanh Giản này mới bị thay đổi tên là đường Nguyễn Thái Sơn cho đến ngày nay theo Quyết định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Còn ở Cần Thơ trước năm 1975 có ngôi trường trung học Phan Thanh Giản (dành cho nam sinh) tọa lạc ngay trên đường Phan Thanh Giản. Sau năm 1975, trường này bị đổi tên thành trường cấp 3 An Cư và đến năm 1985 lại đổi tên thành trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm; còn tên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành Phan Đăng Lưu và không lâu sau lại đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tĩnh cho đến ngày nay.

Tên đường Phan Thanh Giản vốn có từ trước năm 1975 ở nhiều thị xã, đô thị tỉnh lỵ và quận lỵ (hiện nay gọi là thị trấn, thị xã và thành phố) trên toàn miền Nam, từ Quảng Trị cho tới Cà Mau, song hầu hết đã bị đổi tên sau ngày 30/4, cụ thể như sau:[cần dẫn nguồn]

  • Bạc Liêu: nay là đường Phan Ngọc Hiển
  • Sóc Trăng: nay là đường Lê Hồng Phong
  • Vị Thanh: nay là đường Hải Thượng Lãn Ông
  • Rạch Giá: nay là đường Trần Quang Diệu
  • Sa Đéc: nay là đường Nguyễn Huệ
  • Vĩnh Long: nay là đường 3 tháng 2
  • Bến Tre: nay là đường Đồng Khởi
  • Trà Vinh: nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa
  • Gò Công: nay là đường Lê Thị Hồng Gấm
  • Tân An: nay là đường Phan Văn Đạt
  • Tây Ninh: nay là đường Cách Mạng Tháng 8
  • Bà Rịa: nay là đường Nguyễn Đình Chiểu
  • Vũng Tàu: nay là đường Lý Tự Trọng
  • Đà Lạt: nay là đường Lê Thị Hồng Gấm
  • Phan Thiết: nay là một phần của đường Chu Văn An
  • Nha Trang: nay là đường Pasteur
  • Pleiku: nay là đường Lê Hồng Phong
  • Kontum: nay là đường Trần Phú
  • Đà Nẵng: nay là đường Hoàng Văn Thụ
  • Huế: nay là đường Lê Quý Đôn

Tuy nhiên, tại một số đô thị ở miền Nam, tên đường Phan Thanh Giản như trước năm 1975 vẫn được giữ lại cho đến ngày nay, như tại Mỹ Tho, Lái Thiêu, Trà Ôn, Tân Châu, Giá Rai. Thành phố Bà Rịa cũng đặt lại tên Phan Thanh Giản cho một tuyến đường nhỏ tại phường Long Toàn.

Gia thế[sửa | sửa mã nguồn]

  • Phan Thanh Tập (nội tổ phụ - ông nội), Huỳnh Thị Học (nội tổ mẫu - bà nội).
  • Phan Thanh Ngạn (thân phụ - cha ruột), Lâm Thị Búp (thân mẫu - mẹ ruột), Trần Thị Dưỡng (kế mẫu - mẹ kế), Phan Thanh Diệu (bào đệ - em ruột cùng mẹ).
  • Trần Thị Hoạch (phu nhân - vợ), Phan Liêm (trưởng nam - con thứ 2 (còn 1 người con gái lớn), tục miền Nam gọi con đầu lòng là thứ hai, nên ông được gọi là cậu ba), Phan Tôn (thứ nam - con trai nhỏ).

Ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tập san Sử Địa, số chuyên khảo về Phan Thanh Giản, tr 91
  2. ^ ^ Tạp chí Văn Đàn - Sài Gòn, 1960 - bản dịch của Tô Nam và Văn Vinh
  3. ^ La question de la Cochinchine au point de vue des intérêts français (tạm dịch: Vấn đề Nam kỳ từ quan điểm quyền lợi Pháp; Paris, 1864), ký bút danh M.H.Abel
  4. ^ Tạp chí Văn Đàn - Sài Gòn, 1960 - bản dịch của Tô Nam và Văn Vinh
  5. ^ a b Schreiner, Alfred. Abrégé histoire d'Annam. Sài Gòn: Imprimerie Coudouret & Montégout, 1906. Tr 288
  6. ^ Tập san Sử Địa số 7-8 Đặc khảo về Phan Thanh Giản tr80.
  7. ^ Tập san Sử Địa số 7-8 Đặc khảo về Phan Thanh Giản tr26.
  8. ^ Sơn Nam, Đi & ghi nhớ, Tạp chí Xưa & Nay – Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr. 152-153.
  9. ^ a b “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  10. ^ T.Q.G (dịch) (1967). Chiếu chỉ của vua Tự Đức ngày 21 tháng 10 năm 1867, in trong tập san sử địa 7-8, đặc khảo về Phan Thanh Giản. Sài Gòn: Nhà sách Khai Trí. tr. 155.
  11. ^ Theo Đại Nam thực lục, t.37, Hà Nội 1997, tr.223, 225.
  12. ^ Phạm Văn Sơn (dịch) (1967). Tập san sử địa, đặc khảo về Phan Thanh Giản. Nhà sách Khai Trí. tr. 92.
  13. ^ Trần Huy Liệu: Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 55, tháng 10 năm 1963, tr. 18-19.
  14. ^ Tường Chân (ngày 1 tháng 5 năm 2005). “Xuân thanh bình đầu tiên và mãi mãi”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2009.[liên kết hỏng]
  15. ^ “Con Đường Cổ Thụ”. Việt Báo. ngày 27 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2009.

Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển(tập 2). Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1966.
  • Nguyễn Huệ Chi, trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]