Voyager 1

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Voyager 1
Một tàu vũ trụ với thân hình trụ lùn trên đỉnh là một ăng ten ditmemay parabol, ba máy phát điện đồng vị phóng xạ trong một khoang bên trái, và các dụng cụ khoa học trong một khoang bên phải. Một đĩa vàng được gắn vào thân.
Tàu vũ trụ Voyager
Tổ chứcNASA
Kiểu nhiệm vụBay
Ngày phóng5 tháng 9 năm 1977 (45 năm, 200 ngày trước)
Tàu phóngTitan IIIE/Centaur
Thời gian phi vụkhông xác định
Trang chủNASA Voyager website
Khối lượng721.9 kg
Công suất420 W

Tàu vũ trụ Voyager 1 là một Tàu vũ trụ nặng 722 kilôgam (1,592 lb) hoạt động ở ngoài Hệ Mặt trời và xa hơn nữa, được phóng đi ngày 5 tháng 9 năm 1977. Nó vẫn nhận các lệnh điều khiển từ, và truyền thông tin về Trái Đất, hiện[khi nào?] nó đang theo đuổi sứ mệnh mở rộng để định vị và nghiên cứu các biên giới của Hệ mặt trời, gồm cả vành đai Kuiper và phía ngoài. Nhiệm vụ đầu tiên của nó là tới thăm[1] Sao MộcSao Thổ; và nó là tàu vũ trụ đầu tiên cung cấp các hình ảnh chi tiết về các Mặt Trăng của hai hành tinh này. Con tàu này dùng năng lượng từ máy phát điện đồng vị phóng xạ. Nguồn phóng xạ được sử dụng là Plutonium 238 (Pu). Do sự phân rã phóng xạ nên một ngày nào đó năng lượng sẽ bị cạn kiệt.[2]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Vào những năm 60, đề xuất về một chuyến Đại du hành để nghiên cứu các hành tinh khí bên ngoài đã khiến NASA khởi động một phi vụ không gian mới vào những năm đầu thập niên 70.[3] Những thông tin thu được từ tàu Pioneer 10 sẽ giúp các kĩ sư của Voyager thiết kế con tàu sao cho nó có thể chống chịu tốt hơn môi trường bức xạ cực mạnh quanh Sao Mộc.[4]

Ban đầu, Voyager 1 được dự định là tàu "Mariner 11" thuộc chương trình Mariner. Do ngân sách bị cắt giảm, quy mô của phi vụ đã được thu nhỏ lại và chỉ đi đến Sao MộcSao Thổ.

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Sơ đồ ăng-ten chính của tàu Voyager 1.

Voyager 1 được chế tạo bởi Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực.[2] Thân tàu có hình thập giác rỗng với 10 ngăn ở các cạnh để chứa các thiết bị điện tử, phần rỗng ở giữa được dùng để đặt bình nhiên liệu. Con tàu được trang bị 11 thiết bị khoa học để nghiên cứu các vật thể như hành tinh khi nó bay qua.

Hệ thống liên lạc[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ thống liên lạc radio của tàu Voyager 1 được thiết kế để hoạt động ngoài phạm vi Hệ Mặt Trời. Hệ thống bao gồm một ăng-ten chảo có đường kính 3.7m với hệ số khuếch đại lớn dùng để phát và nhận sóng radio từ 3 trạm Deep Space Network trên Trái Đất. Con tàu truyền dữ liệu về Trái Đất qua kênh 18 của trạm Deep Space Network, dùng tần số 2.3 GHz (Băng tần S) và 8.4 GHz (Băng tần X). Tín hiệu từ Trái Đất được phát tới Voyager 1 qua tần số 2.1 GHz.[5]

Khi Voyager 1 không thể liên lạc trực tiếp được với Trái Đất, những băng ghi dữ liệu kĩ thuật số (Digital Tape Recorder - DTR) của nó có thể ghi khoảng 64 kilobyte dữ liệu để truyền về Trái Đất ở thời điểm khác.[6] Vào tháng 2 năm 2016, tín hiệu từ Voyager 1 mất 37 tiếng để đến Trái Đất.

Động cơ và năng lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Voyager 1 có ba máy phát nhiệt điện đồng vị phóng xạ (RTG) gắn trên một xà kim loại. Mỗi cái chứa 24 viên nén plutoni-238 oxide hình cầu.[7] Các cặp nhiệt điện silic-germani sẽ biến đổi nhiệt từ sự phân rã của plutoni-238 thành điện năng. Các máy phát RTG tạo ra khoảng 470 watt điện vào thời điểm phóng, phần điện dư được chuyển thành nhiệt và tỏa vào không gian. Lượng điện phát ra từ các máy phát RTG giảm dần theo thời gian (do chu kì bán rã 87.7 năm của plutoni-238 và sự suy giảm hiệu suất của các cặp nhiệt điện), nhưng các máy phát RTG sẽ vẫn tiếp tục phát đủ điện để duy trì hoạt động của tàu đến năm 2025.[5][7]

Hiện tại Voyager 1 chỉ còn lại 69.8% lượng plutoni-238 mà nó có lúc phóng. Vào năm 2025, lượng plutoni-238 sẽ giảm xuống còn 68.8%.

Hệ thống máy tính[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu Voyager 1 có 3 hệ thống máy tính chính:

  • Hệ thống máy tính điều khiển (Computer Command Subsystem - CCS)
  • Hệ thống kiểm soát tư thế bay và chuyển động khớp (Attitude and Articulation Control Subsystem - AACS)
  • Hệ thống quản lý dữ liệu bay (Flight Data Subsystem - FDS)

Hệ thống máy tính điều khiển (Computer Command Subsystem - CCS) bao gồm 2 bộ vi xử lý 18-bit với xung nhịp 250 kHz và 2 bộ nhớ 8KB. Các chương trình giúp biên dịch, thực thi lệnh, phát hiện và xử lý lỗi, điều khiển camera,... chiếm 5,5KB dung lượng bộ nhớ. 2,5KB dung lượng còn lại là để chứa các chuỗi lệnh điều khiển hoạt động của tàu.[8] Hệ thống máy tính này là phiên bản cải tiến của hệ thống dùng trên tàu Viking 1.

Hệ thống kiểm soát tư thế bay và khớp động (Attitude and Articulation Control Subsystem - AACS) điều khiển tư thế của tàu, giữ ăng-ten chính hướng về Trái Đất,... Hệ thống AACS chứa bộ vi xử lý và bộ nhớ tương tự như hệ thống CCS.[8]

Hệ thống quản lý dữ liệu bay (Flight Data Subsystem - FDS) giúp thu thập, định dạng dữ liệu từ các thiết bị khoa học và cảm biến để lưu trữ trên tàu hoặc truyền về Trái Đất, ngoài ra nó còn kiểm soát bộ đếm thời gian giúp đồng bộ hoạt động của các thiết bị trên tàu. Hệ thống FDS chứa 2 bộ vi xử lý 16-bit và 2 bộ nhớ 16KB.[8]

Thiết bị khoa học[sửa | sửa mã nguồn]

Voyager 1 mang theo 11 thiết bị khoa học bao gồm hai camera, một phân cực kế quang học, hai quang phổ kế, 3 máy dò hạt, 2 hệ thống đo sóng radio, plasma và một 1 từ kế. Các thiết bị này sẽ nghiên cứu các đặc điểm của những vật thể mà Voyager 1 bay qua như khí quyển, từ quyển, trọng trường, thành phần hóa học, cấu tạo bề mặt,...[9]

Hệ thống chụp ảnh khoa học (Imaging Science Subsystem - ISS)[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ thống này bao gồm 2 camera. Một camera góc rộng có độ phân giải trung bình được trang bị ống kính 200mm với khẩu độ f/3 và một camera góc hẹp được trang bị ống kính 1500mm với khẩu độ f/8.5. Cả hai camera được trang bị 8 bộ lọc màu được gắn trên một bánh quay và đều sử dụng một phiên bản cải tiến của cảm biến vidicon sử dụng trong camera của các tàu Mariner để thu nhận hình ảnh. Cả hai camera được điều khiển bởi hệ thống máy tính FDS.[10] Thông số điều khiển được lưu trong bộ nhớ của hệ thống máy tính này.

Các bộ lọc màu được sử dụng trong 2 camera
Camera góc hẹp[11]
Tên Bước sóng Quang phổ Độ nhạy
Trong suốt 280–640 nm
UV 280–370 nm
Tím 350–450 nm
Xanh 430–530 nm
' '
'
Lục 530–640 nm
' '
'
Cam 590–640 nm
' '
'
Camera góc rộng[12]
Tên Bước sóng Quang phổ Độ nhạy
Trong suốt 280–640 nm
' '
'
Tím 350–450 nm
Xanh 430–530 nm
CH4-U 536–546 nm
Lục 530–640 nm
Na-D 588–590 nm
Cam 590–640 nm
CH4-JST 614–624 nm

Các hoạt động hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

Voyager 1 hiện là vật thể do con người chế tạo ở xa nhất ngoài Trái Đất,[13] đang đi xa khỏi cả Trái Đất và Mặt trời với tốc độ năng lượng quỹ đạo riêng lớn hơn bất kỳ một tàu vũ trụ nào khác.[14]

  • Dù tàu vũ trụ anh em của nó, Voyager 2, được phóng trước 16 ngày, Voyager 2 sẽ không bao giờ vượt qua Voyager 1 bởi tốc độ phóng cuối cùng của nó thấp hơn.
  • Tàu vũ trụ New Horizons (Chân Trời Mới) sẽ không bao giờ vượt qua Voyager 1, dù được phóng từ Trái Đất với tốc độ lớn hơn cả hai tàu Voyager.

Tốc độ hiện tại của New Horizons hơi lớn hơn Voyager 1 nhưng khi New Horizons đạt tới cùng khoảng cách từ Mặt trời như Voyager 1 hiện nay, tốc độ của nó sẽ khoảng 13 km/s (8 dặm/giây) so với tốc độ của Voyager là 17 km/s (10.5 dặm/giây).[15] Trong chuyến bay của mình, Voyager 1 có lợi thế từ một số lực đẩy hỗ trợ trọng lực.

Báo cáo mới nhất của NASA về Voyager: Voyager 1 đã bay tới những khoảng không gian chưa xác định nằm ở rìa ngoài của Hệ Mặt trời và ở cách Trái đất 100 AU, tương đương gần 15 tỷ km.

Ở khoảng cách này, các tín hiệu từ Voyager 1 có thời gian truyền tín hiệu mất 17 tiếng 15 phút và 57 giây

So với Hệ mặt trời Voyager 1 ở trên một quỹ đạo phóng hyperbol, ví dụ tốc độ của nó (17.07 km/s) lớn hơn tốc độ thoát địa phương. Tốc độ thấp hơn tốc độ thoát của Ngân hà (≥ 525 km/s = 326 dặm/giây).[16] Vì thế nó sẽ không quay trở lại bên trong Hệ mặt trời, mà ở lại bên trong Ngân hà.[17][18]

Cùng với Pioneer 10, Pioneer 11, Voyager 2, và New Horizons, Voyager 1 là một tàu vũ trụ liên sao. Nếu Voyager 1 đang đi theo hướng về phía ngôi sao gần nhất, nó sẽ tới đó sau khoảng 75,000 năm.

Voyager 1 có các mục tiêu đầu tiên là các hành tinh Sao Mộc và Sao Thổ và các Mặt Trăng cùng các vành đai của chúng; phi vụ hiện tại của nó là thám sát nhật dừng và đo đạc các phần tử của gió mặt trờimôi trường liên sao.

Cả hai tàu Voyager đều đã vượt xa khỏi tuổi thọ dự tính ban đầu của chúng. Mỗi tàu vũ trụ có năng lượng điện từ ba máy phát nhiệt điện đồng vị phóng xạ (RTGs), và dự định sẽ tiếp tục tạo ra đủ điện để các tàu vũ trụ liên lạc với Trái Đất cho ít nhất tới năm 2025.[19]

Hồ sơ phi vụ[sửa | sửa mã nguồn]

A rocket launching
Voyager 1 được phóng lên bằng tên lửa Titan IIIE/Centaur

Voyager 1 ban đầu được dự định là Mariner 11 thuộc chương trình Mariner. Từ khi được đặt ra, nó được thiết kế để lợi dụng kỹ thuật tân tiến khi ấy là hỗ trợ trọng lực. May mắn thay, việc phát triển các tàu vũ trụ liên hành tinh trùng với thời điểm các hành tinh thẳng hàng được gọi là Đại Du Hành.

Đại Du Hành là một sự hỗ trợ trọng lực liên kết của các hành tinh, mà chỉ với nhiên liệu tối thiểu để chỉnh hướng, sẽ cho phép một tàu vũ trụ tới thăm cả bốn hành tinh khí khổng lồ của Hệ mặt trời: Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, và Sao Hải Vương và chỉ có thể thật hành khoảng mỗi 176 năm.

Các tàu vũ trụ hầu như giống nhau Voyager 1Voyager 2 đã được thiết kế với tính toán trước về Grand Tour, và những thời điểm phóng của chúng được điều chỉnh để chúng có thể lợi dụng tốt được nó nếu mọi việc diễn ra xuôn sẻ. Tuy nhiên, hai tàu vũ trụ chỉ được Nghị viện cấp vốn như các tàu vũ trụ Sao Mộc-Sao Thổ. Ở một thời điểm, chương trình đã được gọi là dự án "Mariner Jupiter-Saturn".

Vì sự kiện các hành tinh thẳng hàng đáng chú ý này, một tàu vũ trụ lớp Voyager có thể tới thăm cả bốn hành tinh bên ngoài kể trên chỉ trong 12 năm thay vì xấp xỉ 30 năm như bình thường.

Tàu Voyager 1 được phóng đi ngày 5 tháng 9 năm 1977, bởi Cơ quan Quản lý Hàng không và Vũ trụ từ Mũi Canaveral, Florida, trên một tên lửa phóng Titan IIIE/Centaur, hai tuần trước đó tàu sinh đôi với nó, Voyager 2 được phóng đi ngày 20 tháng 8 năm 1977[20]. Dù được phóng sau Voyager 2, Voyager 1 bay đi theo một quỹ đạo hơi ngắn hơn và nhanh hơn, vì thế nó tới cả Sao Mộc và Sao Thổ trước con tàu chị em của mình.

Về chi tiết của các gói dụng cụ giống nhau trên các tàu Voyager, xem bài viết riêng về toàn bộ Chương trình Voyager.

Sao Mộc[sửa | sửa mã nguồn]

Voyager 1 bắt đầu chụp ảnh Sao Mộc tháng 1 năm 1979. Lần tiếp cận gần nhất của nó với Sao Mộc diễn ra ngày 5 tháng 3 năm 1979, ở khoảng cách khoảng 349,000 kilômét (217,000 dặm) từ tâm hành tinh. Vì có được độ phân giải hình ảnh lớn hơn khi tiếp cận gần hơn, đa số các quan sát Mặt Trăng, vành đai, từ trường, và môi trưởng vành đai bức xạ của hệ Sao Mộc được thực hiện trong giai đoạn 48 giờ trong lần tiếp cận gần nhất này. Voyager 1 kết thúc việc chụp ảnh hệ Sao Mộc tháng 4 năm 1979.

Hai tàu vũ trụ Voyager đã thực hiện một số phát hiện quan trọng về Sao Mộc, các vệ tinh của nó, các vành đai bức xạ, và các đĩa hành tinh chưa từng được thấy trước kia của nó. Phát hiện đáng ngạc nhiên nhất về hệ Sao Mộc là sự hiện diện của hoạt động núi lửa trên Mặt Trăng Io, chưa từng được quan sát thấy từ Trái Đất, hay bởi Pioneer 10 hay 11.

Sao Thổ[sửa | sửa mã nguồn]

Sự hỗ trợ phóng trọng lực của Sao Mộc đã được cả hai tàu Voyager thực hiện thành công, và hai tàu bắt đầu tới thăm Sao Thổ cùng hệ thống các Mặt Trăng vành đai của nó. Chuyến bay vào hệ Sao Thổ của Voyager 1 diễn ra tháng 11 năm 1980, với lần tiếp cận gần nhất ngày 12 tháng 11 năm 1980, khi tàu vũ trụ vào trong khoảng cách 124000 km từ các đám mây cao nhất của Sao Thổ. Các camera trên tàu vũ trụ đã phát hiện các kết cấu phức tạp trong các vành đai của Sao Thổ, và các thiết bị cảm biến xa của nó đã nghiên cứu các khí quyển của Sao Thổ cùng vệ tinh Titan lớn của nó.

Pioneer 11 một năm trước đó đã phát hiện một khí quyển dày và nhiều khí trên Titan, các thiết bị điều khiển tàu vũ trụ của Jet Propulsion Laboratory đã được lựa chọn cho Voyager 1 để thực hiện một cuộc tiếp cận gần tới Titan, và cũng là cần thiết để chấm dứt Grand Tour của nó tại đó. (Về sự tiếp tục của Grand Tour, xem các đoạn Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương ở bài Voyager 2.)

Quỹ đạo phóng của nó với một đường bay ngang qua Titan đã tạo ra một sự chệch hướng trọng lực thừa khiến Voyager 1 vượt ra ngoài mặt phẳng Ecliptic, vì thế chấm dứt phi vụ khoa học hành tinh của nó. Voyager 1 đã có thể được đưa vào một quỹ đạo phóng khác, theo đó hiệu ứng súng cao su trọng lực của khối lượng Sao Thổ sẽ lái và phóng Voyager 1 ra ngoài theo đường bay qua Sao Diêm Vương. Tuy nhiên, lựa chọn này đã không được thực hiện, bởi quỹ đạo phóng khác bay qua Titan đã được quyết định để có được thêm giá trị khoa học và giảm bớt nguy cơ.[21]

Phi vụ liên sao[sửa | sửa mã nguồn]

a set of grey squares trace roughly left to right. A few are labeled with single letters associated with a nearby coloured square. J is near to a square labeled Jupiter; E to Earth; V to Venus; S to Saturn; U to Uranus; N to Neptune. A small spot appears at the centre of each coloured square
"Chân dung gia đình" của Hệ mặt trời do Voyager 1 chụp

Ngày 14 tháng 2 năm 1990, Voyager 1 chụp bức ảnh "chân dung gia đình" đầu tiên của hệ mặt trời của chúng ta nhìn từ bên ngoài,[22] bao gồm bức ảnh nổi tiếng được gọi là "Chấm xanh mờ". Ước tính cả hai tàu Voyager có đủ năng lượng điện để truyền sóng radio ít nhất cho tới năm 2025, sẽ là hơn 48 năm sau khi phóng. Voyager 1 là tàu vũ trụ đang hoạt động ở khoảng cách xa nhất nhận lệnh và truyền tín hiệu về Trái Đất.

Năm Chấm dứt khả năng riêng biệt vì các giới hạn năng lượng điện
2007 Kết thúc plasma subsystem (PLS)
2008 Mất điện Thực nghiệm Radio Thiên văn học Hành tinh (PRA)
2010 Kết thúc các quan sát scan platform và UltraTím spectrometer (UVS)
2015 Kết thúc các nhiệm vụ Data Tape Recorder (DTR) (bị giới hạn bởi khả năng bắt 1.4 kbit/s dữ liệu sử dụng một mạng ăng ten 70 m/34 m. Đây là tỷ lệ tối thiểu để DTS có thể đọc dữ liệu.)
Xấp xỉ 2016 Kết thúc các nhiệm vụ con quay hồi chuyển
2020 Bắt đầu tắt các khí cụ khoa học (ở thời điểm ngày 18 tháng 3 năm 2008 thứ tự không được quyết định nhưng các thiết bị Low-Energy Charged Particles, Cosmic Ray Subsystem, Magnetometer, và Plasma Wave Subsystem được dự định sẽ vẫn hoạt động)
2025 hay sau đó Không còn năng lượng cho bất kỳ khí cụ nào.

Nhật quyển[sửa | sửa mã nguồn]

orange area at left labeled Bow Shock appears to compress a pale blue oval-shaped region labeled Heliosphere extending to the right with its border labeled Heliopause. A central dark blue circular region is labeled Termination Shock with the gap between it and the Heliosphere labeled Heliosheath. Centred in the blue region is a concentric set of ellipses around a bright spot with two white lines curving away from it: the upper line labeled Voyager 1 ends outside the dark blue circle; the lower line labeled Voyager 2 appears inside
Voyager 1 trong nhật quyển.

Khi Voyager 1 hướng tới không gian liên sao, các khí cụ của nó tiếp tục nghiên cứu Hệ mặt trời; các nhà khoa học tại Jet Propulsion Laboratory đang sử dụng các thiết bị sóng plasma trên tàu Voyager 12 để tìm kiếm nhật dừng.

Các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng Đại học Johns Hopkins tin rằng Voyager 1 đã vào sốc kết thúc vào tháng 2 năm 2003.[23] Một số nhà khoa học khác đã bày tỏ sự nghi ngờ, bàn luận trên tờ báo Nature số ngày 6 tháng 11 năm 2003.[24] Trong một buổi họp khoa học tại American Geophysical UnionNew Orleans, Hoa Kỳ sáng ngày 25 tháng 5 năm 2005, Tiến sĩ Ed Stone đã trình bày bằng chứng rằng Voyager 1 đang vượt qua sốc cuối cùng vào tháng 12 năm 2004.

Vấn đề sẽ không được giải quyết cho tới khi có các dữ liệu, bởi thiết bị thám sát gió mặt trời của Voyager 1 đã ngừng hoạt động năm 1990. Hư hỏng này có nghĩa rằng việc thám sát kết thúc sốc cuối cùng phải được suy luận từ dữ liệu từ các thiết bị khác trên Voyager I.

Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2005 một tờ báo của NASA nói rằng có một đồng thuận rằng Voyager 1 hiện ở trong nhật bao.[25] Các nhà khoa học dự đoán tàu vũ trụ sẽ đạt tới nhật dừng vào năm 2015.

Đĩa vàng[sửa | sửa mã nguồn]

Bên trong tàu vũ trụ có một trong hai Đĩa Vàng Voyager. Đĩa ghi này có chứa các âm thanh và hình ảnh lựa chọn để thể hiện sự đa dạng của cuộc sống và văn hoá trên Trái Đất. Nó được dự định gửi cho bất kỳ hình thức sự sống thông minh ngoài Trái Đất nào, hay cho con người tương lai, có thể tìm thấy nó.

Tình trạng hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

yellow spot surrounded by three concentric light-blue ellipses labeled from inside to out: Saturn, Uranus and Neptune. A grey ellipse labeled Pluto overlaps Neptune's ellipse. Four colored lines trails outwards from the central spot: a short red line labeled Voyager II traces to the right and up; a green and longer line labeled Pioneer-11 traces to the right; a purple line labeled Voyager traces to the bottom right corner; and a dark blue line labeled Pioneer 10 traces left
Vị trí và các quỹ đạo phóng của tàu vũ trụ Pioneer và Voyager, ở thời điểm ngày 4 tháng 4 năm 2007. Lưu ý chiều dài các đường quỹ đạo không chính xác.

Từ Mặt trời ở cùng điểm, ở thời điểm năm 2006 nó ở khoảng cách chưa tới 90 AU, từ Mặt trời và đang tiếp cận tới điểm cận nhật ở khoảng cách 76 AU.[26][27])

Ở khoảng cách trên, sóng ánh sáng hay radio, cả hai đều ở dạng bức xạ điện từ và truyền đi với tốc độ 299.792,5 kilômét trên giây (tốc độ ánh sáng), mất 15,5 giờ để đi từ Voyager 1 tới Trái Đất.[28] Như một cơ sở để so sánh, Mặt Trăng ở khoảng cách khoảng 1,4 giây ánh sáng từ Trái Đất; Mặt trời ở xấp xỉ 8,5 phút ánh sáng; Sao Diêm Vương ở xấp xỉ 4,5 giờ ánh sáng;[29] Các vật thể ngoài Sao Hải Vương 2006 SQ372viễn nhật cách khoảng 12,3 ngày ánh sáng; và ngôi sao gần nhất cách 4,22 năm ánh sáng.

Ở thời điểm ngày 9 tháng 10 năm 2009, Voyager 1 đang di chuyển với tốc độ 17.078 km/s so với Mặt trời (3,6 AU trên năm hay 61,600 km/h hay 38,400 dặm trên giờ), khoảng 10% nhanh hơn Voyager 2. Ở thời điểm ngày 10 tháng 10 năm 2008, Voyager 1 di chuyển với tốc độ 17,097 km/s so với Mặt trời (giảm 19 m/s trong một năm, vì lực hấp dẫn của Mặt trời). Ngày 29 tháng 1 năm 2010 tàu vũ trụ có tốc độ xấp xỉ 17.073 km/s.

Ngày 19 tháng 11 năm 2015, Voyager 1 sẽ ở khoảng cách 133.15 đơn vị thiên văn từ Mặt trời. Thông tin khá chính xác liên quan tới vị trí của nó có tại tờ báo này của NASA với các toạ độ nhật tâm của cả hai tàu vũ trụ cho tới năm 2015.

Voyager 1 không hướng về bất kỳ ngôi sao cụ thể nào, nhưng vào khoảng 40,000 năm nó sẽ vượt qua trong khoảng 1.6 năm ánh sáng ngôi sao AC+79 3888 trong chòm sao Camelopardalis bởi AC+79 3888 đang đi về phía Hệ mặt trời với vận tốc khoảng 119 kilômét trên giây.[30]

Ngày 31 tháng 3 năm 2006, những người chơi radio nghiệp dư từ AMSATĐức đã theo dõi và thu nhận sóng radio từ Voyager 1 bằng đĩa ăng ten 20m tại Bochum với kỹ thuật tích hợp dài. Dữ liệu của nó đã được kiểm tra và xác nhận so với dữ liệu từ trạm Deep Space Network tại Madrid, Tây Ban Nha.[31] Đây được cho là lần thán sát đầu tiên như vậy với Voyager 1.

Ở thời điểm tháng 5 năm 2008, Voyager 1 ở góc nghiêng 12.45° và 17.125 giờ lên thẳng, khiến nó đang ở trong chòm sao Ophiuchus khi quan sát từ Trái Đất. NASA tiếp tục việc thám sát hàng ngày của họ với Voyager 1 bằng Deep Space Network của mình. Mạng lưới này đo đạc cả độ cao và góc phương vị của sóng radio tới từ Voyager 1, và nó cũng đo khoảng cách từ Trái Đất tới Voyager 1 bằng cách đo thời gian trễ giữa các tin hiệu radio từ và tới Voyager 1. Sau đó, với khoảng thời gian trễ đó, nhân với tốc độ ánh sáng sẽ được khoảng cách một chiều..

Ngày 20 Tháng 3, năm 2013, Voyager 1 được thông báo là vật thể đầu tiên do con người chế tạo rời khỏi Hệ mặt trời.[cần dẫn nguồn]

Thư viện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Thuật ngữ "thăm" ở đây được dùng với nghĩa "tiếp cận".
  2. ^ a b “Dự án VIM (Voyager Interstellar Mission – sứ mệnh du hành giữa các vì sao) (phần 2)”. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.[liên kết hỏng]
  3. ^ “1960s”. JPL. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2013.
  4. ^ “The Pioneer missions”. NASA. 2007. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2013.
  5. ^ a b “Thông tin chung về Voyager 1”.
  6. ^ http://forum.nasaspaceflight.com/index.php?action=dlattach;topic=9476.0;attach=591860. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  7. ^ a b 2 tháng 4 năm 1999.pdf “Hệ thống điện của Voyager 1” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) (PDF).[liên kết hỏng]
  8. ^ a b c “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
  9. ^ “Thông tin tổng quát về Voyager 1”.
  10. ^ “Voyager instrumentation”.
  11. ^ “Voyager 1 Narrow Angle Camera Description”. NASA. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2011.
  12. ^ “Voyager 1 Wide Angle Camera Description”. NASA. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2011.
  13. ^ NASA (ngày 2 tháng 5 năm 2010). “Voyager - Frequently Asked Questions”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
  14. ^ Speed of the Voyager Space Probes
  15. ^ “New Horizons Salutes Voyager”. New Horizons. ngày 17 tháng 8 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
  16. ^ [1]
  17. ^ Điều này đúng thậm chí khi Voyager bay cùng hướng như Mặt trời trong quỹ đạo của nó quanh Thiên hà, trong trường hợp đó các vận tốc 220 km/s và 17 km/s sẽ được thêm vào.
  18. ^ Nếu Voyager trải qua một sự tương tác mạnh với một vật thể có ít cơ hội nó sẽ trở lại bên trong Hệ mặt trời, hay thoát khỏi Ngân hà.
  19. ^ “Voyager – Spacecraft – Spacecraft Lifetime”. NASA Jet Propulsion Laboratory. ngày 15 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2008.
  20. ^ “Voyager 2 Wikipedia”.
  21. ^ “Voyager - Frequently Asked Questions”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
  22. ^ http://nssdc.gsfc.nasa.gov/photo_gallery/caption/solar_family.txt
  23. ^ Kate Tobin (ngày 5 tháng 11 năm 2003). “Spacecraft reaches edge of solar system”. CNN.com. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2007.
  24. ^ L A Fisk (2003). “Planetary Science: Over the edge?”. Nature. 426 (6962): 21–22. doi:10.1038/426021a.
  25. ^ “Voyager Enters Solar System's Final Frontier”. NASA. ngày 24 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2007.
  26. ^ CNN: "NASA: Voyager I enters solar system's final frontier", ngày 25 tháng 5 năm 2005
  27. ^ CNN: "NASA: Voyager II detects solar system's edge", ngày 23 tháng 5 năm 2006
  28. ^ 29 tháng 1 năm 2010.html Voyager Mission Operations Status Report # ngày 29 tháng 1 năm 2010, Week Ending ngày 29 tháng 1 năm 2010 "Round Trip Light Time (hh:mm:ss) 31:17:20"
  29. ^ HORIZONS Web interface. JPL NASA: at 2010-Jan-29 Earth to Pluto barycenter delta=32.5789 AU
  30. ^ Voyager - Mission - Interstellar Mission
  31. ^ AMSAT-DL article in German Lưu trữ 2006-10-14 tại Wayback Machine; ARRL article in English

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Phương tiện liên quan tới Voyager 1 tại Wikimedia Commons