Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh tế Việt Nam, 1976-1986”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bình Giang (thảo luận | đóng góp)
Bình Giang (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 108: Dòng 108:


==Vài trò lịch sử của Trường Chinh trong các năm 1984-1986==
==Vài trò lịch sử của Trường Chinh trong các năm 1984-1986==
Nhà nghiên cứu sử kinh tế Đặng Phong cho rằng Trường Chinh là một trong những người lãnh đạo có trình độ học vấn cao, có phương pháp tư duy và làm việc bài bản nhưng thiên về những nguyên tắc cứng nhắc, sách vở, mô phạm, xa rời thực tiễn dẫn tới phạm sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1953-1956, từng phê phán khoán nông nghiệp ở Vĩnh Phú năm 1968,<ref>Đặng Phong (2008), trang 161.</ref> và ít nhất đến đầu năm 1983 vẫn chưa có chuyển biến lớn trong tư duy kinh tế.<ref>Đặng Phong (2008), trang 216.</ref>
Nhà nghiên cứu [[sử kinh tế]] Đặng Phong cho rằng [[Trường Chinh]] là một trong những người lãnh đạo có trình độ học vấn cao, có phương pháp [[tư duy]] và làm việc bài bản nhưng thiên về những nguyên tắc cứng nhắc, sách vở, mô phạm, xa rời thực tiễn dẫn tới phạm sai lầm trong [[Cải cách ruộng đất (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1953-1956]], từng phê phán mạnh mẽ khoán nông nghiệp ở [[Vĩnh Phú]] năm 1968,<ref>Đặng Phong (2008), trang 161.</ref> và ít nhất đến đầu năm 1983 vẫn chưa có chuyển biến lớn trong tư duy kinh tế.<ref>Đặng Phong (2008), trang 216.</ref>


Tuy nhiên, trước những báo cáo về tình hình đổi mới ở cơ sở, và sau những chuyến đi tìm hiểu thực tế tại các địa phương trong năm 1983, và tham khảo ý kiến của các chuyên gia có tư tưởng đổi mới, Trường Chinh đã có thay đổi lớn và nhanh chóng về tư duy kinh tế. Cũng từ thời gian này, sức khỏe của Tống Bí thư Lê Duẩn yếu đi nhiều, nên Trường Chinh nắm một số công việc của vị trí Tổng Bí thư Đảng. Ở cương vị này và với tư duy mới, Trường Chinh đã mở đường đi cho lịch sử Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa V (tháng 7/1984), Trường Chinh đã đọc một báo cáo trong đó ông cho rằng mô hình kinh tế hiện hành là mô hình “phi kinh tế, không thể chấp nhận được” và yêu cầu “thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị trường”.<ref>Văn kiện Đảng toàn tập, tập 45, năm 1984, trang 254-256.</ref> Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (tháng 12/1984) và 8 (tháng 5/1985), Trường Chinh tiếp tục nhấn mạnh những điểm đổi mới của mình về các vấn đề kinh tế.<ref>Đặng Phong (2008), trang 243.</ref> Mặc dù [[cải cách giá - lương - tiền]] không diễn ra như ông mong muốn và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1985-1986, song nó đã khiến các cấp các ngành nhận thức được yêu cầu từ bỏ dứt khoát mô hình kinh tế cũ.
Tuy nhiên, trước những báo cáo về tình hình đổi mới ở cơ sở, và sau những chuyến đi tìm hiểu thực tế tại các địa phương trong năm 1983, và tham khảo ý kiến của các chuyên gia có tư tưởng đổi mới, Trường Chinh đã có thay đổi lớn và nhanh chóng về tư duy kinh tế. Cũng từ thời gian này, sức khỏe của Tống Bí thư Lê Duẩn yếu đi nhiều, nên Trường Chinh nắm một số công việc của vị trí Tổng Bí thư Đảng. Ở cương vị này và với tư duy mới, Trường Chinh đã mở đường đi cho lịch sử Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa V (tháng 7/1984), Trường Chinh đã đọc một báo cáo trong đó ông cho rằng mô hình kinh tế hiện hành là mô hình “phi kinh tế, không thể chấp nhận được” và yêu cầu “thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị trường”.<ref>Văn kiện Đảng toàn tập, tập 45, năm 1984, trang 254-256.</ref> Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (tháng 12/1984) và 8 (tháng 5/1985), Trường Chinh tiếp tục nhấn mạnh những điểm đổi mới của mình về các vấn đề kinh tế.<ref>Đặng Phong (2008), trang 243.</ref> Mặc dù [[cải cách giá - lương - tiền]] không diễn ra như ông mong muốn và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1985-1986, song nó đã khiến các cấp các ngành nhận thức được yêu cầu từ bỏ dứt khoát mô hình kinh tế cũ.


Đặc biệt, trong quá trình chuẩn bị báo cáo chính trị cho Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, Trường Chinh đã từ bỏ bản thảo trình Lê Duẩn mà ông đánh giá là chưa đáp ứng được những nhu cầu bức bách của cuộc sống và cho viết lại để cho ra đời một báo cáo lịch sử.<ref>Đặng Phong (2008), trang 262-266.</ref>
Đặc biệt, trong quá trình chuẩn bị báo cáo chính trị cho Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, Trường Chinh đã từ bỏ bản thảo trình Lê Duẩn (mới qua đời) mà ông đánh giá là chưa đáp ứng được những nhu cầu bức bách của cuộc sống và cho viết lại để cho ra đời một báo cáo lịch sử.<ref>Đặng Phong (2008), trang 262-266.</ref>


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 11:57, ngày 4 tháng 6 năm 2009

Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này. Đây là thời kỳ của 2 kế hoạch 5 năm 1976-1980 và 1981-1986.

Thời kỳ xác lập mô hình kinh tế chung cho cả nước

Mô hình kinh tế

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế. Ông thừa nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của thị trường tự do ở miền Nam.[1] Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, ông đã phát biểu[2]:

Tuy nhiên, đa số Ban chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn áp dụng mô hình kinh tế của miền Bắc cho miền Nam. Vì thế, Hội nghị cuối cùng quyết nghị: xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ.[3]

Tiếp theo, Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức vào tháng 12 năm 1976. Tại đây, Đại hội quyết nghị đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Nội dung chính của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội là:

Thứ nhất, thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sản xuất lớn có nghĩa là nền kinh tế dựa vào những đơn vị có quy mô lớn, huyện trở thành pháo đài kinh tế-xã hội, các tỉnh được sáp nhập lại còn 29 tỉnh. Còn sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong côngthương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp - với hợp tác xã cấp cao là nòng cốt). Để thực hiện được sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, và văn hóa tư tưởng. Cách mạng quan hệ sản xuất có nội dung cơ bản là cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, biến chúng thành các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể - gọi chung là cải tạo xã hội chủ nghĩa.[4]

Thứ hai, làm chủ tập thể. Đây là một tư tưởng do Lê Duẩn sáng tạo mà rất ít người hiểu, kể cả các nhà triết học.[5]

Thứ ba, áp dụng chế độ kế hoạch hóa tập trung. Đây là mô hình chung ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam nó được thực hiện theo một công thức do Lê Duẩn sáng tạo, đó là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Tại Đại hội IV, đường lối này được thể hiện bằng chủ trương tiến hành kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1976-1980. Theo kế hoạch do Đại hội IV định hướng, sản xuất xã hội sẽ tăng bình quân hàng năm 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%, năng suất lao động xã hội tăng 7,5-8%, lương thực quy thóc đạt ít nhất 21 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn.[6]

Thứ tư, công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởngphát triển kinh tế. Thứ năm, Nhà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại.

Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam

Tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân thực tế hàng năm.

Hợp tác hóa

Việc hợp tác hóa ở miền Nam được tiến hành khẩn trương trong các năm từ 1977 đến 1980. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm hợp tác hóa ở miền Bắc có nhiều thất bại và có tính đến đặc thù miền Nam, hợp tác hóa ở miền Nam chỉ bao gồm thành lập một số hợp tác xã thí điểm, còn hình thức tập đoàn sản xuất có quy mô và tổ chức đơn giản là hình thức chính. Ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho Nhà nước theo giá kế hoạch thấp hơn rất nhiều giá thị trường. Bù lại, Nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các tập đoàn.[7]

Cải tạo công thương nghiệp

Cuối tháng 8 năm 1975, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ đạo tiến hành các chiến dịch cải tạo. Tiếp theo, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam thông qua một kế hoạch nhắm vào tư sản mại bản, gọi bằng mật danh là Chiến dịch X2. Đợt 1 của chiến dịch này thực hiện bất ngờ vào nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1975; đợt 2 được tiến hành từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 12. Trong Chiến dịch X2, nhiều nhà tư sản lớn của miền Nam đã bị bắt, tài sản của họ bị tịch thu. [8]

Song song với tấn công tư sản mại bản, chiến dịch di dân thành phố về nông thôn, đưa những người buôn bán về các vùng kinh tế mới. [9]

Dù vậy, các hoạt động cải tạo công thương ở miền Nam cho đến trước năm 1978 vẫn diễn ra một cách thận trọng. Vị Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh lúc đó là Nguyễn Văn Linh là người am hiểu tình hình giới tư sản miền Nam, nên các biện pháp của ông mềm dẻo, tỏ thái độ trân trọng và có văn hóa đối với giới tư sản.[10] Nhưng chính điều này khiến Nguyễn Văn Linh bị mất chức bí thư thành ủy vào năm 1978, bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị, điều chuyển khỏi công tác phụ trách Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương sang phụ trách công tác dân vận, công đoàn.[11]

Từ năm 1978, hoạt động cải tạo công thương nghiệp diễn ra mạnh hơn. Đối tượng bị cải tạo rộng hơn trước.

Hội nhập kinh tế

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ lập tức triển khai cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ khoảng 1 năm sau, Hoa Kỳ đã có dấu hiệu muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam. Henry Kissinger đề nghị Việt Nam cùng Hoa Kỳ thảo luận bình thường hóa quan hệ. Tổng thống Gerald Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tạm ngừng cấm vận Việt Nam trong 6 tháng để tạo điều kiện cho trao đổi giữa 2 nước. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thì đề ra lộ trình 3 bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Hoa Kỳ tuyên bố sẵn sang bỏ cấm vận Việt Nam và tiến hành viện trợ nhân đạo nếu Việt Nam trao trả hài cốt binh sỹ Hoa Kỳ và không đặt vấn đề bồi thường chiến tranh. Ngày 4 tháng 5 năm 1977, Hoa Kỳ đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.[12]

Tây Âu sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam. Năm 1978, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng đi thăm một loạt nước Tây Âu.[12]

Đông Nam Á muốn tạo dựng mối quan hệ hữu nghị với Việt Nam. Năm 1977, Phạm Văn Đồng đi thăm các nước Philippines, Singapore, Thái Lan.[12]

Dù có quan hệ quốc tế khá thuận lợi để đẩy mạnh hội nhập kinh tế rộng rãi, nhưng Việt Nam đã không tranh thủ. Năm 1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế.

Tình hình thực hiện

Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem phiếu.

Việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 gặp nhiều khó khăn. Trước tiên là nguồn viện trợ từ phía các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút. Đặc biệt, viện trợ từ Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn từ năm 1977. Các nguồn viện trợ này gồm những mặt hàng quan trọng như gạo, sợi, đường, sữa, vải vóc, thuốc men, v.v… Sau khi tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Việt Nam phải theo thể chế giá của khối này, trong đó có nguyên tắc giá trượt. Với nguyên tắc này, mức viện trợ 1,5 tỷ ruble cho Việt Nam chỉ có sức mua bằng 600-700 triệu ruble trước khi vào khối.[13] Thứ hai, từ năm 1978, Khmer Đỏ tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Chi tiêu cho quốc phòng của Việt Nam vì vậy tăng mạnh. Tháng 1 năm 1979, Việt Nam phản công đánh sang Campuchia. Chiến sự ở biên giới phía Bắc bùng nổ. Chi phí quốc phòng lại càng tăng vọt. Viện trợ cho Lào và Campuchia cũng tăng lên. Trong khi đó, nhiều nước phương Tây và Nhật Bản vốn có viện trợ cho Việt Nam đã ngừng cung cấp viện trợ. Thứ ba, cuối năm 1978 và cả năm 1979, đồng bằng sông Cửu Long chịu những trận lũ lớn. Diện tích canh tác bị ngập úng tới 5-6 tháng. Thứ tư, và quan trọng, là cơ chế kinh tế mới áp dụng ở miền Nam đã khiến cho nền kinh tế miền Nam nói riêng và cả nước nói chung sa sút.

Thời kỳ đổi mới

Xé rào ở cơ sở

Do đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, do sản xuất ách tắc, các cơ sở kinh tế và địa phương đã tìm những cách thức để giải quyết khó khăn và ách tắc của mình. Nổi bật nhất là trường hợp khoán ở xí nghiệp đánh cá Vũng Tàu - Côn Đảo năm 1979, khoán ở xí nghiệp xe khách thành phố Hồ Chí Minh năm 1979, khoán nông nghiệp ở Đoàn Xá (Đồ Sơn, Hải Phòng) năm 1980, “phá giá thu mua” lúa của công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh năm 1979 và của An Giang năm 1980, áp dụng cơ chế giá thị trường và bù giá vào lương ở Long An, sự bùng nổ của các công ty xuất nhập khẩu (các imex) ở các tỉnh, thành phố, nhập lậu hàng second hand của các thủy thủ viễn dương, buôn bán hàng hóa của học sinh, cán bộ, lao động Việt Nam ở Đông Âu, chủ động vay ngoại tệ từ Vietcombank để nhập nguyên liệu của xí nghiệp dệt Thành Công (thành phố Hồ Chí Minh), xí nghiệp thuốc lá Vĩnh Hội, xí nghiệp dệt lụa Nam Định, xí nghiệp thuốc là Bông Sen (Thanh Hóa). [14] Những điển hình “vượt khó” này đã nhanh chóng được học tập, nhân rộng.

Đặc biệt, một số cố vấn Liên Xô đã đánh giá cao các cơ sở kinh tế phá rào nói trên. Sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Liên Xô đã cử các chuyên gia kinh tế sang giúp Việt Nam. Các chuyên gia này chia làm 2 loại. Một là các nhà kinh tế học từ các trường và viện nghiên cứu. Hai là các nhà quản lý kinh tế. Trong khi các nhà quản lý cố vấn cho các bộ, ngành Việt Nam cách thức quản lý kinh tế kiểu kế hoạch hóa tập trung, thì các nhà kinh tế học lại mở những lớp giảng dạy về Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lenin. Mặc dù các lớp học về NEP đã làm mất lòng tổng cố vấn Liên Xô, nhưng nó lại làm cho các học viên Việt Nam thích thú. Nội dung của lớp học phù hợp với nhu cầu tìm tòi hướng đi mới của các cán bộ Việt Nam, vừa là cái ô che chở cho những cán bộ có tinh thần đổi mới bởi lẽ NEP là sáng tạo của Lenin và người truyền bá lại là các giáo sư Liên Xô. Ý kiến của các học giả-cố vấn Liên Xô đã cổ vũ các địa phương, các cơ sở kinh tế mạnh dạn đi tới, đồng thời có tác dụng thuyết phục ít nhiều đối với những người còn phân vân.[15]

Đổi mới tư duy ở Trung ương

Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, từ những kết quả tích cực của phong trào “phá rào” ở cơ sở, Nhà nước Việt Nam cũng bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế.

Hội nghị Trung ương 6 khóa IV

Tháng 9 năm 1979, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IV tiến hành hội nghị lần thứ 6. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã đọc báo cáo mang tên Những vấn đề kinh tế cấp bách. Cuối cùng Hội nghị đã ra nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 20 tháng 9 năm 1979 với tinh thần chính là:

  • Cho phép kết hợp kế hoạch hóa với cơ chế thị trường
  • Sử dụng lại kinh tế tư nhân bao gồm cả tư bản tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước
  • Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác theo hướng dựa trên thỏa thuận.
  • Cho phép địa phương tiến hành xuất nhập khẩu

Sau này, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006) đã đánh giá kết quả Hội nghị Trung ương 6 khóa IV là “bước đột phát thứ nhất về tư duy và quan điểm kinh tế”.

Để đưa Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 vào thực hiện, những nhân vật có quan điểm cấp tiến được đưa vào những vị trí then chốt của nền kinh tế. [16] Trong khi đó, Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương chỉ còn nhiệm vụ tổng kết công tác đã làm.[17]

Khoán 100

Sau khi kinh nghiệp khoán của Đoàn Xá được thí điểm ở toàn huyện Đồ Sơn và Hải Phòng đem lại kết quả tích cực, Hội nghị Trung ương 9 khóa IV (tháng 12/1980) đã quyết định mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Tuy nhiên, theo Hoàng Tùng, lúc bấy giờ trong Bộ Chính trị chỉ có Tổng bí thư Lê Duẩn và các ông Võ Chí Công, Lê Thanh Nghị và Hoàng Tùng là ủng hộ chính sách khoán. Còn lại, bao gồm cả Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương Đảng, phản đối. Trong Hội đồng Chính phủ thì chỉ Bộ trưởng Nông nghiệp Nguyễn Ngọc Trìu ủng hộ, Chủ tịch Hội đồng Phạm Văn Đồng lưỡng lự, một số Phó Chủ tịch Hội đồng phản đối. Để cho chính sách khoán nông nghiệp có thể thực hiện được, những người ủng hộ đã phải ban hành nó dưới dạng chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì đáng lẽ phải là Nghị quyết của Bộ Chính trị.[18] Ngày 31 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị này cho phép áp dụng chế độ khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp cả nước. Chế độ khoán này thường được gọi tắt là Khoán 100.

Chế độ 3 kế hoạch

Ở cấp cơ sở, các cơ sở kinh tế, nhất là trong công nghiệpgiao thông vận tải, trong khi tìm cách giải quyết khó khăn cho cơ sở mình đã tìm cách liên kết với các cơ sở bạn để tìm nguyên liệu và tìm cách tiêu thụ đầu ra. Họ gọi đây là “kế hoạch 2”, trong khi “kế hoạch 1” là kế hoạch do Trung ương giao. Một số cơ sở còn tìm cách sản xuất cho thị trường tự do, gọi đây là “kế hoạch 3”. Kế hoạch 2 từng bị coi là móc ngoặc, còn kế hoạch 3 từng bị coi là làm ăn phi pháp.

Triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 25-CP ngày 21 tháng 1 năm 1981 về Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định này cho phép áp dụng chế độ 3 kế hoạch.

Cải cách giá-lương

Ngày 23 tháng 6 năm 1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về Cải tiến công tác phân phối lưu thông. Triển khai thực hiện Nghị quyết này, từ tháng 5 năm 1981 đến đầu năm 1982, một đợt tổng điều chỉnh giá và lương đã được thực hiện. Hầu hết các mặt hàng đều được tăng giá lên 10 lần, tương ứng với giá thực tế trên thị trường.[19]

Kết quả của Đổi mới

Từ năm 1981, kinh tế Việt Nam khởi sắc. Sản lượng lương thực tăng mạnh, giá trị sản lượng công nghiệp tăng khá, thâm hụt thương mại giảm đáng kể.[20]

Thời kỳ siết lại

Diễn biến lạm phát.

Mặt trái của sự “phá rào” là gây ra những lộn xộn, mất trật tự. Kế hoạch tập trung do Trung ương giao thì bị bỏ bê trong khi kế hoạch 2 và kế hoạch 3 thì lại được thực hiện tích cực. Tình trạng tranh mua, tranh bán xuất hiện khiến giá hàng bị đẩy lên cao. Để thu mua được mức kế hoạch đề ra, Nhà nước phải in thêm tiền, vì thế lạm phát tăng tốc.

Những mặt trái này khiến cho các tư tưởng thủ cựu nổi lên, muốn quay trở lại cơ chế cũ.

Cả báo cáo chính trị do Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, phần những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế-xã hội trong thời gian tiếp theo, lẫn Báo cáo của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại Đại hội về phương hướng, nhiệm vụ và các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội thời gian tiếp theo, đều hầu như không nhắc đến việc phải tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý kinh tế mới.[21]

Ngày 17-18 tháng 2 năm 1982, Bộ Chính trị họp để xem lại Quyết định số 25/CP.

Ngày 15 tháng 5 năm 1982, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 04-CT/TW về việc mở một đợt sinh hoạt chính trị nhằm chấn chỉnh lại quan điểm và lập trường trong các vấn đề kinh tế.

Ngày 14 tháng 9 năm 1982, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01-NQ/TW để uốn nắn lại những biểu hiện bị coi là chệch hướng ở thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 30 tháng 11 năm 1982, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 11-CT/TW về việc huy động lương thực năm 1983, trong đó có yêu cầu “đình chỉ ngay” tình trạng mua lúa giá cao, bán vật tư giá cao, trở về cơ chế thu mua theo giá chỉ đạo.

Hội nghị Trung ương 3 khóa V được tổ chức vào đầu tháng 12 năm 1983. Một trong 3 nội dung chính của Hội nghị là bàn về “mấy vấn đề cấp bách trong công tác phân phối lưu thông. Sau hội nghị, phân phối-lưu thông được chấn chỉnh theo hướng trở lại cơ chế phân phối lưu thông trước nghị quyết số 26-NQ/TW năm 1980. Các công ty xuất nhập khẩu địa phương được sáp nhập lại theo hướng mỗi tỉnh, thành chỉ còn một công ty xuất nhập khẩu.

Ngày 29 tháng 1 năm 1983, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 08-NQ/TW để uốn nắn lại những biểu hiện bị coi là buông lỏng quản lý ở Hà Nội.

Tháng 5 năm 1983, chiến dịch Z-30 được thực hiện ở một số địa phương như Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An. Trong chiến dịch này, một số gia đình bị coi là có tài sản bất chính (nhà 2 tầng, toa lét lát gạch men ngoại, các đồ gia dụng như TV, tủ lạnh, quạt máy mang về từ các nước tư bản) đã bị tịch thu.

Tháng 6 năm 1983, Hội nghị Trung ương 4 được tổ chức. Bài phát biểu kết thúc hội nghị của Tổng Bí thư Lê Duẩn[22] đã nhận định:

Tháng 12 năm 1983, Hội nghị Trung ương 5 được tổ chức. Hội nghị này, như Báo cáo tóm tắt tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới trình Hội nghị Trung ương 11 khóa IX đánh giá, đã:

Vài trò lịch sử của Trường Chinh trong các năm 1984-1986

Nhà nghiên cứu sử kinh tế Đặng Phong cho rằng Trường Chinh là một trong những người lãnh đạo có trình độ học vấn cao, có phương pháp tư duy và làm việc bài bản nhưng thiên về những nguyên tắc cứng nhắc, sách vở, mô phạm, xa rời thực tiễn dẫn tới phạm sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1953-1956, từng phê phán mạnh mẽ khoán nông nghiệp ở Vĩnh Phú năm 1968,[23] và ít nhất đến đầu năm 1983 vẫn chưa có chuyển biến lớn trong tư duy kinh tế.[24]

Tuy nhiên, trước những báo cáo về tình hình đổi mới ở cơ sở, và sau những chuyến đi tìm hiểu thực tế tại các địa phương trong năm 1983, và tham khảo ý kiến của các chuyên gia có tư tưởng đổi mới, Trường Chinh đã có thay đổi lớn và nhanh chóng về tư duy kinh tế. Cũng từ thời gian này, sức khỏe của Tống Bí thư Lê Duẩn yếu đi nhiều, nên Trường Chinh nắm một số công việc của vị trí Tổng Bí thư Đảng. Ở cương vị này và với tư duy mới, Trường Chinh đã mở đường đi cho lịch sử Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa V (tháng 7/1984), Trường Chinh đã đọc một báo cáo trong đó ông cho rằng mô hình kinh tế hiện hành là mô hình “phi kinh tế, không thể chấp nhận được” và yêu cầu “thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị trường”.[25] Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (tháng 12/1984) và 8 (tháng 5/1985), Trường Chinh tiếp tục nhấn mạnh những điểm đổi mới của mình về các vấn đề kinh tế.[26] Mặc dù cải cách giá - lương - tiền không diễn ra như ông mong muốn và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1985-1986, song nó đã khiến các cấp các ngành nhận thức được yêu cầu từ bỏ dứt khoát mô hình kinh tế cũ.

Đặc biệt, trong quá trình chuẩn bị báo cáo chính trị cho Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, Trường Chinh đã từ bỏ bản thảo trình Lê Duẩn (mới qua đời) mà ông đánh giá là chưa đáp ứng được những nhu cầu bức bách của cuộc sống và cho viết lại để cho ra đời một báo cáo lịch sử.[27]

Chú thích

  1. ^ Đặng Phong (2008), trang 69.
  2. ^ Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III ngày 13 tháng 8 năm 1975, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, 1975.
  3. ^ Nghị quyết Hội nghị 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, trang 412-415.
  4. ^ Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, trang 558-570.
  5. ^ Đặng Phong (2008), trang 79-84.
  6. ^ Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, trang 671-676.
  7. ^ Đặng Phong (2008), trang 91-94.
  8. ^ Đặng Phong (2008), trang 95-96.
  9. ^ Đặng Phong (2008), trang 96.
  10. ^ Đặng Phong (2008), trang 97.
  11. ^ Đặng Phong (2008), trang 288-289.
  12. ^ a b c Đặng Phong (2008), trang 44-45.
  13. ^ Đặng Phong (2008), trang 117-118.
  14. ^ Đặng Phong (2008), trang 187-193.
  15. ^ Đoàn Phong (2008), trang 150-153
  16. ^ Đặng Phong (2008), trang 194-197.
  17. ^ Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 20 tháng 5 năm 1980 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
  18. ^ Đặng Phong (2008), trang 198.
  19. ^ Đặng Phong (2008), trang 200.
  20. ^ Đặng Phong (2008), trang 206-208.
  21. ^ Xem Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, năm 1982.
  22. ^ Văn kiện Đảng toàn tập, tập 44, năm 1983, trang 143.
  23. ^ Đặng Phong (2008), trang 161.
  24. ^ Đặng Phong (2008), trang 216.
  25. ^ Văn kiện Đảng toàn tập, tập 45, năm 1984, trang 254-256.
  26. ^ Đặng Phong (2008), trang 243.
  27. ^ Đặng Phong (2008), trang 262-266.

Tham khảo

  • Đặng Phong (2008), Tư duy kinh tế Việt nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội.
  • Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, công khai tại Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.