Bước tới nội dung

Lê Duẩn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Duẩn
Lê Duẩn vào năm 1978
Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (trước 1976)

Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (sau 1976)
Nhiệm kỳ
10 tháng 9 năm 1960 – 10 tháng 7 năm 1986
(25 năm, 303 ngày)
Tiền nhiệmHồ Chí Minh
Kế nhiệmTrường Chinh
Bí thư Quân ủy Trung ương
Nhiệm kỳ
1977–1984
Tiền nhiệmVõ Nguyên Giáp
Kế nhiệmVăn Tiến Dũng
Thông tin cá nhân
Sinh
Lê Văn Nhuận

(1907-04-07)7 tháng 4 năm 1907
Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất10 tháng 7 năm 1986(1986-07-10) (79 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam
Nơi an nghỉNghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội
Quốc tịchViệt Nam
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Việt Nam
Phối ngẫu
Lê Thị Sương (cưới 1929)
Nguyễn Thụy Nga (cưới 1950)
Con cái7 (Chi tiết)
MẹVõ Thị Đạo
ChaLê Hiệp
Nghề nghiệpChính khách
Chữ ký

Các chức vụ khác

Lê Duẩn (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1976 và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1976 đến năm 1986. Ông là Tổng Bí thư có thời gian tại vị lâu nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, với 25 năm, 303 ngày giữ chức vụ này. Theo một số nhận định, Lê Duẩn là nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn thứ hai tại Việt Nam trong thế kỷ 20, chỉ sau Chủ tịch Hồ Chí Minh.[1]

Lê Duẩn sinh tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, thuộc Trung Kỳ dưới thời Pháp thuộc. Trong thập niên 1920, khi đang làm thư ký cho Công ty Đường sắt Đông Dương, ông bắt đầu tiếp xúc với tư tưởng cách mạng, từ đó tham gia vào các hoạt động chính trị. Năm 1930, ông trở thành một trong những đảng viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Bị bắt giữ năm 1931 vì hoạt động cách mạng, Lê Duẩn trải qua sáu năm tù ở Côn Đảo trước khi được trả tự do vào năm 1937. Giai đoạn 1937–1939, ông tiếp tục tham gia hoạt động Đảng và giữ các vị trí lãnh đạo địa phương. Tuy nhiên, sau khi tổ chức phong trào nổi dậy trong cao trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, ông lại bị bắt và chỉ được trả tự do sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương (1946–1954), Lê Duẩn đảm nhận vai trò lãnh đạo cao nhất của Đảng tại miền Nam. Từ năm 1951 đến 1954, ông là Bí thư Trung ương Cục miền Nam, trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến chống Pháp tại Nam Bộ. Sau chiến thắng Điện Biên PhủHiệp định Genève năm 1954, ông tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong việc duy trì lực lượng cách mạng ở miền Nam. Ngay từ giữa những năm 1950, Lê Duẩn đã trở thành người kiên quyết thúc đẩy chủ trương thống nhất đất nước bằng đấu tranh vũ trang. Chính luận cương Đề cương cách mạng miền Nam do ông soạn thảo năm 1956 đã trở thành nền tảng chỉ đạo cho đường lối của Đảng trong giai đoạn tiếp theo.

Đến cuối thập niên 1950, Lê Duẩn vươn lên trở thành nhà hoạch định chính sách hàng đầu, thay thế dần vai trò lãnh đạo của Trường Chinh sau cuộc cải cách ruộng đất. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III năm 1960, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất, chính thức trở thành nhân vật quyền lực thứ hai sau Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt thập niên 1960, khi sức khỏe Hồ Chí Minh giảm sút, Lê Duẩn dần đảm nhận vai trò điều hành tối cao trong các vấn đề quốc gia. Sau khi Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969, Lê Duẩn trở thành lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp tục theo đuổi đường lối cứng rắn trong Chiến tranh Việt Nam. Ông chủ trương đẩy mạnh các chiến dịch quân sự quy mô lớn nhằm giành thắng lợi quyết định trước Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Đỉnh cao của chiến lược này là cuộc Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, dẫn đến sự kiện Việt Nam thống nhất.

Sau năm 1976, khi đất nước thống nhất, Lê Duẩn chính thức giữ chức Tổng Bí thư. Trong giai đoạn này, ông kiên trì theo đuổi mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng kế hoạch hóa tập trung, cải tạo công thương nghiệp tư nhân, đồng thời triển khai các chính sách kinh tế – xã hội theo định hướng XHCN trên phạm vi cả nước. Dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam phát động cuộc chiến tranh tại Campuchia tháng 12 năm 1978 nhằm lật đổ chế độ Khmer Đỏ, qua đó thiết lập chính quyền thân Việt Nam tại Phnom Penh vào đầu năm 1979. Sự kiện này kéo theo phản ứng gay gắt từ Trung Quốc, dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngày vào tháng 2 năm 1979. Trong bối cảnh bị cô lập, Việt Nam đã tăng cường quan hệ với Liên Xô và gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON) vào năm 1978.

Trong những năm cuối đời, trước khủng hoảng kinh tế kéo dài và áp lực cải cách ngày càng gia tăng, Lê Duẩn vẫn kiên trì duy trì mô hình kinh tế tập trung. Ông giữ chức Tổng Bí thư cho đến khi qua đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1986 tại Hà Nội. Người kế nhiệm ông trên cương vị này là Trường Chinh. Trong hoạt động chính trị, ông từng sử dụng các bí danh như "Lê Dung" và thường được gọi thân mật là "anh Ba".

Thân thế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Duẩn, tên khai sinh là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907[2] (cũng có nguồn cho là 1908),[3][4] tại làng Bích La Đông, tổng Bích La, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay thuộc xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).[3][5] Gia đình Lê Duẩn thuộc tầng lớp lao động, sinh sống chủ yếu bằng nghề thủ công. Cha ông, Lê Văn Hiệp, làm nghề thợ mộc, là con út trong một gia đình có 9 người con, là một người thông thạo chữ Nho và từng thi đỗ khoá sinh.[a] Mẹ ông, Võ Thị Đạo, xuất thân từ một gia đình làm nông tại cùng địa phương. Ông nội, Lê Văn Thống, từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp vào cuối thế kỷ 19.[6] Do điều kiện kinh tế, gia đình Lê Duẩn chuyển đến làng Hậu Kiên, gần chợ Sãi, nơi thuận lợi hơn cho công việc làm ăn. Ông Hiệp và bà Đạo sinh được năm người con, trong đó hai người mất sớm. Lê Văn Nhuận là con trai đầu lòng còn sống, sinh vào năm nhuận nên được đặt tên như vậy.[7]

Khi còn bé, Lê Văn Nhuận được gia đình cho học chữ Hán trước khi theo học chữ Quốc ngữ từ các thầy đồ cùng làng. Năm 1914, khi lên 7 tuổi, ông theo học tại trường phủ Triệu Phong.[7] Năm 1920, ông thi đỗ Sơ học yếu lược và trở thành một trong số ít học sinh địa phương có thể tiếp tục học ở cấp bậc cao hơn. Với tấm bằng trong tay, ông theo học Trường Tiểu học Pháp–Việt Quảng Trị, nơi được giảng dạy theo chương trình của chính quyền bảo hộ, bao gồm các môn học bằng tiếng Pháptiếng Việt. Mặc dù điều kiện gia đình khó khăn, ông vẫn duy trì thành tích học tập tốt và nổi bật với sự cần mẫn, đặc biệt hứng thú với các môn lịch sử và văn học. Tại đây, ông đặc biệt yêu thích các môn lịch sử, văn học, thường xuyên đọc và thuộc lòng nhiều tác phẩm của Phan Bội Châu. Năm 1923, ông thi đậu bằng tiểu học, trở thành học sinh đầu tiên của làng Hậu Kiên tốt nghiệp bậc này.[8]

Năm 1924, Lê Duẩn vào Huế để thi vào Trường Quốc học, khoá học 1924 – 1925. Tuy nhiên, do mắc bệnh thương hàn trong thời gian ôn thi, ông không đạt kết quả như mong muốn và chỉ được nhận vào học dự thính.[b] Sau thời hạn sáu tháng, ông không được chuyển sang diện học chính thức và bị buộc phải thôi học.[10] Tuy nhiên, ông vẫn quyết định ở lại Huế để ôn luyện chuẩn bị cho kỳ thi sau. Tháng 11 năm 1925, chính quyền thuộc địa tổ chức phiên toà xét xử Phan Bội Châu, tuyên án tử hình. Sự kiện này đã khơi dậy làn sóng phản đối mạnh mẽ khắp cả nước. Tại Huế, học sinh các trường đồng loạt hưởng ứng phong trào đòi giảm án cho cụ Phan. Lê Văn Nhuận tích cực tham gia vào phong trào này. Những trải nghiệm tại Huế được cho là đã củng cố thêm lý tưởng cứu nước của ông.[9]

Phát triển tư tưởng cách mạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Duẩn năm 1928

Sau khi rời Huế, Lê Văn Nhuận trở về quê, nhưng không lựa chọn gắn bó lâu dài với làng quê. Ông vào Đà Nẵng tìm kiếm cơ hội lập nghiệp, ban đầu làm gia sư, sau đó, từ tháng 5 năm 1926, chuyển sang làm việc tại Sở Hỏa xa Đà Nẵng.[3] Trong môi trường lao động công nghiệp, Lê Văn Nhuận tiếp xúc và kết bạn với nhiều thanh niên yêu nước, tham gia các hoạt động tuyên truyền cách mạng.[11] Hưởng ứng các phong trào tẩy chay hàng ngoại và tưởng niệm Phan Chu Trinh trên toàn quốc, Lê Duẩn cùng một số đồng sự đã vận động thành lập "Hội Ái hữu Lái xe Trung Kỳ" nhằm đoàn kết và tổ chức công nhân. Dưới hình thức tương trợ nghề nghiệp, hội thực chất trở thành nơi tuyên truyền cách mạng. Thời điểm này, phong trào yêu nước trong nước và quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ. Nhờ mối quan hệ với nhóm ái quốc tại Bưu điện Đà Nẵng và những người hoạt động trong giới lao động, Lê Văn Nhuận được tiếp cận các ấn phẩm như Việt Nam hồn, Tân thế kỷ, cũng như những tác phẩm của các nhà tư tưởng như Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich LeninNguyễn Ái Quốc.[12] Cũng trong thời điểm này, ông bắt đầu sử dụng bí danh "Lê Duẩn".[13]

Năm 1927, khi tuyến đường sắt Vinh – Đông Hà hoàn thành, ông được điều ra Hà Nội công tác. Tại Hà Nội, ông làm nhân viên thư ký tại depot hỏa xa. Công việc tuy tương đối ổn định, nhưng ông không xem đây là mục tiêu lâu dài. Với tư tưởng cách mạng đã được hình thành trước đó, Lê Duẩn nhanh chóng hòa mình vào đời sống chính trị sôi động của thủ đô. Thông qua mối quan hệ với các bạn đồng nghiệp có khuynh hướng tiến bộ, ông tiếp cận và trở thành thành viên của Tân Việt Cách mệnh Đảng. Trong thời gian này, ông dành nhiều thời gian tìm hiểu và nghiên cứu thêm lý luận Marx–Lenin[14] cũng như kinh nghiệm cách mạng quốc tế thông qua các ấn phẩm như Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc hay báo Thanh niên. Khi xu hướng vô sản hóa được đẩy mạnh và các phong trào cộng sản đang phát triển mạnh mẽ, ông quyết định chuyển sang hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội,[15] tổ chức do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, có tổ chức chặt chẽ và đường lối cách mạng rõ ràng hơn.[16] Tại đây, Lê Duẩn đảm nhiệm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, đặc biệt là công nhân ngành hỏa xa tại các khu vực như Hà Nội, Gia Lâm. Ông tích cực tổ chức các cuộc thảo luận nhóm nhỏ, phát tài liệu bí mật và kết nạp những công nhân tích cực vào tổ chức.[17]

Hoạt động cách mạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Hai lần ra Côn Đảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất các tổ chức cộng sản. Trong bối cảnh đó, Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên sớm nhất ở Hà Nội. Sau Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930, ông được phân công làm Uỷ viên Ban Tuyên huấn Xứ uỷ Bắc Kỳ. Trong thời gian này, ông phụ trách soạn thảo tài liệu tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, đồng thời trực tiếp chỉ đạo các cuộc vận động, đấu tranh của công nhân tại các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội và Hải Phòng.[18]

Cuối tháng 4 năm 1931, Lê Duẩn tham gia lãnh đạo các cuộc biểu tình nhân dịp Ngày Quốc tế Lao động (1 tháng 5). Trong khi đang tổ chức các hoạt động tại Hải Phòng, ông bị lực lượng mật thám Pháp bắt giữ. Sau đó, Lê Duẩn bị kết án khổ sai và lưu đày ra Côn Đảo. Năm 1936, dưới tác động của các biến động chính trị tại Pháp, đặc biệt là sự thành lập chính phủ Mặt trận Bình dân, chính quyền thuộc địa ở Đông Dương thực hiện một số biện pháp giảm nhẹ đàn áp. Nhiều tù chính trị được trả tự do, trong đó có Lê Duẩn.[18] Năm 1937, ông trở lại hoạt động chính trị và trở thành Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, phụ trách công tác tổ chức và tuyên truyền tại khu vực miền Trung.[19] Trong bối cảnh phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương phát triển, ông tham gia tổ chức các phong trào vận động công khai đòi các quyền dân sinh, dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân lao động. Trong giai đoạn này, phương thức đấu tranh của ông kết hợp giữa công khai và bí mật nhằm mở rộng ảnh hưởng cách mạng.[18] Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.[20]

Từ cuối năm 1939, sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương chuyển sang chính sách đàn áp thẳng tay các lực lượng cách mạng. Phong trào dân chủ chấm dứt, nhiều tổ chức Đảng trở thành mục tiêu đàn áp. Trong hoàn cảnh đó, Lê Duẩn tiếp tục tổ chức lại phong trào, tuy nhiên cuối năm 1940, ông bị chính quyền thuộc địa bắt giữ lần thứ hai. Ông bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Tháng 3 năm 1945, khi Nhật Bản tiến hành đảo chính Pháp ở Đông Dương và tuyên bố "trao trả độc lập" cho Việt Nam, tình hình chính trị thay đổi đột ngột. Cuối tháng 4 năm 1945, hệ thống chính quyền thuộc địa Pháp sụp đổ, chính quyền nhà tù Côn Đảo sụp đổ. Lê Duẩn cùng các tù nhân chính trị khác như Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Lê Thanh Nghị, Phan Trọng Tuệ được tự do và nhanh chóng tổ chức lại lực lượng, tìm cách trở về đất liền. Khi ra khỏi nhà tù, ông trở về Trung Bộ, kịp thời bắt nhịp với tình hình mới. Ông liên hệ với các cơ sở Đảng để cùng Trung ương và các cấp bộ Đảng chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.[21]

Bí thư Xứ ủy Nam Bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Duẩn (giữa) tại Hội nghị Trung ương ở chiến khu Việt Bắc

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tình hình chính trị - quân sự tại Nam Bộ nhanh chóng trở nên phức tạp. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân đội Pháp, với sự hỗ trợ của người Anh và lực lượng Nhật đầu hàng, nổ súng tái chiếm Sài Gòn. Trước tình thế đó, Xứ ủy Nam Bộ cùng Ủy ban Nhân dân Nam Bộ tổ chức Hội nghị cán bộ mở rộng khẩn cấp tại ấp Cây Mai (Chợ Lớn), quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ nhằm chỉ đạo cuộc chiến chống Pháp.[22] Trong bối cảnh này, Lê Duẩn được cử giữ cương vị Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, phụ trách chung công tác lãnh đạo cách mạng tại khu vực. Ông cùng tập thể Xứ ủy chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức chính quyền cách mạng các cấp, phát động phong trào kháng chiến toàn dân và từng bước hình thành thế trận kháng chiến lâu dài. Trong quá trình chỉ đạo, Lê Duẩn đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu kết hợp giữa đấu tranh chính trị và quân sự nhằm tạo sức mạnh tổng hợp cho phong trào kháng chiến.[23]

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II năm 1951, Lê Duẩn được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt NamBộ Chính trị.[24] Theo chủ trương điều chỉnh mô hình tổ chức của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phong trào kháng chiến, Trung ương Đảng quyết định thay thế Xứ ủy Nam Bộ bằng Trung ương Cục miền Nam. Lê Duẩn được phân công làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam, nắm quyền lãnh đạo trực tiếp phong trào cách mạng và lực lượng vũ trang ở miền Nam.[25] Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục, bộ máy lãnh đạo các cấp được tổ chức lại theo hướng phù hợp với điều kiện chiến tranh. Các đơn vị hành chính được sáp nhập để nâng cao hiệu quả điều hành. Lê Duẩn trực tiếp phụ trách chung công tác lãnh đạo tại Nam Bộ, tập trung vào việc chỉ đạo quân sự, phát triển phong trào chính trị quần chúng và xây dựng các cơ sở hậu phương. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết năm 1954, đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền.[26] Lê Duẩn tiếp tục được Trung ương Đảng phân công ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào đấu tranh tại khu vực.[27]

Tình hình miền Nam nhanh chóng trở nên phức tạp khi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm triển khai chính sách đàn áp phong trào cộng sản, truy quét các tổ chức kháng chiến.[28] Trước yêu cầu cấp bách của tình hình, Lê Duẩn đề ra chủ trương chuyển hướng đấu tranh, nhấn mạnh việc giữ vững cơ sở Đảng, xây dựng lực lượng chính trị, đẩy mạnh đấu tranh công khai kết hợp với lực lượng vũ trang tự vệ nhằm bảo vệ phong trào. Từ thực tiễn ở các địa phương như Bến Tre, ông từng bước khẳng định con đường cách mạng miền Nam phải kết hợp giữa đấu tranh chính trị và vũ trang để chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong các năm 1956–1957, dựa trên tổng kết thực tiễn và quá trình chỉ đạo phong trào, Lê Duẩn đã khởi thảo và hoàn thiện văn kiện Đề cương cách mạng miền Nam.[29] Văn kiện này phân tích tình hình cụ thể, xác định con đường phát triển của cách mạng là "dùng lực lượng vũ trang đó làm cách mạng lật đổ Mỹ - Diễm", đồng thời nhấn mạnh đây là con đường duy nhất để giải phóng miền Nam.[30]

Tháng 4 năm 1957, sau một thời gian lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam, Lê Duẩn được Trung ương Đảng triệu tập ra Bắc để nhận nhiệm vụ mới.[31] Việc di chuyển được tiến hành bí mật qua Campuchia, sau đó bằng đường biển từ Phnôm Pênh đến Hồng Kông rồi về Hà Nội.[32] Tại miền Bắc, ông tham gia công tác chỉ đạo chung của Đảng, đề xuất chủ trương thúc đẩy phong trào cách mạng ở miền Nam kết hợp với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Các văn kiện và quan điểm trong thời gian này trở thành cơ sở để hình thành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1959–1960) về cách mạng miền Nam.[33]

Lãnh đạo đảng

[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Duẩn năm 1951

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần III năm 1960, Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.[34] Đây là cương vị tương đương với chức vụ lãnh đạo cao nhất của Đảng, khiến ông trở thành người lãnh đạo trên thực tế của Đảng, dù Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ chức Chủ tịch Đảng. Việc Lê Duẩn được bầu vào vị trí này giúp Đảng Lao động Việt Nam tăng cường chỉ đạo trực tiếp đối với miền Nam, trong bối cảnh tình hình khu vực này ngày càng xấu đi trước chính sách chống cộng quyết liệt của chính quyền Ngô Đình Diệm. Giới lãnh đạo Đảng lo ngại phong trào cách mạng có nguy cơ bị đẩy lùi hoặc mất kiểm soát, do đó việc Lê Duẩn — người có kinh nghiệm ở miền Nam và chủ trương đường lối cứng rắn — đảm nhận vị trí lãnh đạo được xem là giải pháp nhằm củng cố mối liên kết với các lực lượng cộng sản tại đây và khôi phục thế chủ động trên chiến trường.[35]

Trên thực tế, ngay trong giai đoạn 1956–1960 đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Lê Duẩn thực thi nhiệm vụ của Tổng Bí thư, đặc biệt là trong bối cảnh Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư vì những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Điều này được xác nhận khi Lê Duẩn chính thức đảm nhiệm chức Bí thư Thứ nhất từ tháng 9 năm 1960.[36] Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ vai trò biểu tượng và có ảnh hưởng nhất định trong hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc.[37] Hồ Chí Minh tiếp tục được tham khảo ý kiến trong các quyết sách quan trọng; các lãnh đạo chủ chốt như Lê Duẩn, Tố Hữu, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng vẫn thường xuyên "dùng cơm tối" cùng Hồ Chí Minh để trao đổi công việc. Điều này phản ánh mô hình lãnh đạo tập thể, trong đó Lê Duẩn tôn trọng uy tín của Hồ Chí Minh.[38]

Từ giữa thập niên 1960, vai trò thực quyền của Lê Duẩn ngày càng nổi bật khi sức khỏe Hồ Chí Minh bắt đầu suy giảm.[39] Lê Duẩn, cùng với Lê Đức Thọ (Trưởng ban Tổ chức Trung ương) và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, từng bước thâu tóm quá trình hoạch định chính sách và đưa ra các quyết định quan trọng của Đảng.[40] Năm 1964, khi Hồ Chí Minh lâm bệnh, Lê Duẩn – với tư cách người kế cận tin cậy – đã đảm nhiệm nhiều trách nhiệm điều hành hàng ngày của Đảng. Một số quan sát viên phương Tây cho rằng đến năm 1965, giữa Hồ Chí Minh và Lê Duẩn đã nảy sinh bất đồng quan điểm. Theo những nguồn này, Lê Duẩn cùng các đồng minh thân cận như Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã "từng bước tìm cách vô hiệu hóa ảnh hưởng của Hồ Chí Minh và cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng" trong quá trình ra quyết sách.[41] Cũng theo một số tư liệu phương Tây, vào năm 1963, Hồ Chí Minh từng bí mật trao đổi thư tín với Ngô Đình Diệm nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho xung đột Nam – Bắc. Trong khi Hồ Chí Minh được cho là mong muốn thống nhất đất nước bằng con đường ngoại giao mềm dẻo, Lê Duẩn lại kiên định với chủ trương thống nhất bằng vũ lực.[38] Sau khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2 tháng 9 năm 1969, nguyên tắc lãnh đạo tập thể tiếp tục được duy trì, nhưng Lê Duẩn giữ vai trò nổi bật nhất.[42] Ông đứng đầu Ban tổ chức lễ tang Hồ Chí Minh và đọc điếu văn chính thức.[43]

Ngay từ đầu, nội bộ Đảng đã tồn tại các nhóm có xu hướng thân Liên Xô, thân Trung Quốc và ôn hòa.[44] Trong thời kỳ Hồ Chí Minh vẫn còn khỏe, Đảng duy trì lập trường trung lập giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa sau khi chia rẽ Xô - Trung xảy ra. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cuộc đấu tranh quyền lực gia tăng giữa phe thân Liên Xô do Lê Duẩn đứng đầu và phe thân Trung Quốc. Dưới sự liên kết của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, các nhân vật thuộc phe thân Trung Quốc như Hoàng Văn Hoan và Chu Văn Tấn lần lượt bị loại khỏi bộ máy lãnh đạo.[45] Dù Bộ Chính trị vẫn hoạt động dựa trên nguyên tắc đồng thuận, Lê Duẩn — với tư cách Tổng Bí thư — nắm quyền lực đáng kể nhờ liên minh với các nhân vật chủ chốt như Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn và Võ Nguyên Giáp. Ông kiểm soát công tác nhân sự tại nhiều cơ quan trọng yếu, bao gồm Bộ Nội vụ, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt NamBộ Giao thông Vận tải.[46]

Để củng cố hơn nữa quyền lực cá nhân, Lê Duẩn cùng Lê Đức Thọ xây dựng một mạng lưới bảo trợ chính trị bao gồm những người thân cận. Nhiều thân tín được bố trí nắm giữ các vị trí quan trọng ở trung ương cũng như địa phương. Chẳng hạn, em trai của Lê Đức Thọ là Đinh Đức Thiện được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Đến tháng 4 năm 1982, khi Đinh Đức Thiện chuyển công tác, Đồng Sĩ Nguyên – một nhân vật thân cận với Lê Duẩn – kế nhiệm chức Bộ trưởng Giao thông Vận tải. Tại miền Nam sau 1975, Mai Chí Thọ (một người bạn của Lê Đức Thọ) được giao giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ 1978 đến 1985. Bên cạnh đó, một số thân tín của Lê Duẩn cũng được sắp xếp vào các lĩnh vực tuyên huấn và văn hóa nhằm tạo ảnh hưởng trong công tác tư tưởng. Dù vậy, ngoại trừ trường hợp Mai Chí Thọ, hầu hết những người trong mạng lưới bảo trợ của Lê Duẩn không vươn tới các cương vị cao nhất của bộ máy chính trị ở tầm quốc gia.[47]

Chiến tranh Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, Lê Duẩn kêu gọi thành lập một mặt trận nhân dân tại miền Nam Việt Nam. Đề xuất này được Ban Chấp hành Trung ương thông qua, với nghị quyết xác định nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam là "đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đồng thời thúc đẩy cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam." Ngày 20 tháng 12 năm 1960, ba tháng sau Đại hội, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập. Theo tuyên bố của Lê Duẩn, tổ chức này có nhiệm vụ "tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước nhằm lật đổ chính quyền Diệm [ở miền Nam] và từ đó tạo điều kiện cho việc hòa bình thống nhất Tổ quốc."[48]

Trong bối cảnh chia rẽ Trung – Xô, ban lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam phân hóa thành các xu hướng thân Liên Xô và thân Trung Quốc. Từ năm 1956 đến 1963, Lê Duẩn đóng vai trò dung hòa giữa hai phe. Tuy nhiên, sau sự kiện Ngô Đình Diệm bị lật đổsự kiện Vịnh Bắc Bộ, ông chuyển sang lập trường cứng rắn hơn.[39] Trong suốt cuộc chiến, Trung Quốc tiếp tục ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1965, Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ khẳng định sẽ hỗ trợ hết sức cho Hà Nội.[49] Khác với Hồ Chí Minh — người vẫn tìm kiếm giải pháp hòa bình — Lê Duẩn theo đuổi quan điểm kiên quyết giành "thắng lợi cuối cùng". Theo nhà sử học Howard Jones, vào năm 1963, Lê Duẩn đã bác bỏ chính sách đối ngoại mềm dẻo mà Hồ Chí Minh đề xuất đối với miền Nam,[50] đồng thời ông cũng nhận được sự ủng hộ từ Trung Quốc, quốc gia khi đó lên tiếng phản đối đường lối "chung sống hòa bình" của Liên Xô.[51]

Trước việc Hoa Kỳ gia tăng can thiệp từ năm 1965, chiến lược quân sự của miền Bắc được điều chỉnh. Trong thư gửi Nguyễn Chí Thanh, Lê Duẩn dự báo cuộc chiến sẽ "dữ dội và kéo dài hơn", song khẳng định bản chất xung đột không thay đổi.[52] Theo ông, chính quyền miền Nam thiếu sự ủng hộ của người dân, do đó việc kết hợp chiến tranh du kích với các đợt tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn là chiến lược chủ đạo. Bộ chỉ huy miền Nam được chỉ thị tránh giao tranh quy mô lớn với Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ưu tiên các đợt tấn công nhỏ nhằm làm suy yếu tinh thần đối phương. Lê Duẩn cho rằng giữ quyền chủ động trên chiến trường sẽ quyết định thắng lợi, đồng thời bác bỏ khả năng Hoa Kỳ tấn công miền Bắc, vì cho rằng điều này sẽ dẫn đến xung đột với toàn bộ phe xã hội chủ nghĩa.[52]

Năm 1967, bất chấp sự phản đối từ một số lãnh đạo Đảng, Lê Duẩn cùng nhóm chủ trương đường lối cứng rắn đã phê duyệt kế hoạch tác chiến do Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đề xuất. Kế hoạch này nhằm phát động một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên toàn chiến trường miền Nam, tập trung đánh vào lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa và các cơ quan chính quyền, với mục tiêu châm ngòi cho một phong trào nổi dậy quy mô lớn của quần chúng, qua đó buộc Hoa Kỳ và các đồng minh phải rút quân. Sau khi loại bỏ — thậm chí bắt giữ — những người phản đối, lãnh đạo Đảng đã chính thức phê chuẩn chiến lược này. Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân bắt đầu vào dịp Tết Nguyên Đán năm 1968. Về mặt quân sự, chiến dịch không đạt được kết quả như kỳ vọng,[53][54] song lại tạo ra tác động chiến lược sâu rộng khi gây chấn động dư luận quốc tế và làm suy giảm đáng kể quyết tâm của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến. Các đợt tấn công tiếp theo vào tháng 5 và tháng 8 cùng năm không đem lại kết quả khả quan, đồng thời gây tổn thất lớn về nhân lực cho Quân đội Nhân dân Việt Nam và lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, ngày 5 tháng 4 năm 1969, Trung ương Cục miền Nam đã ban hành Chỉ thị số 55, yêu cầu các đơn vị trực thuộc không được mạo hiểm dốc toàn bộ lực lượng vào những chiến dịch quy mô lớn. Thay vào đó, chiến lược được điều chỉnh theo hướng ưu tiên bảo toàn lực lượng nhằm phục vụ cho các chiến dịch lâu dài về sau.[55]

Đến tháng 7 năm 1974, sau khi Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho miền Nam, ban lãnh đạo miền Bắc quyết định phá vỡ các ràng buộc của Hiệp định Paris và đẩy nhanh kế hoạch tổng tấn công, ấn định thời điểm tiến hành vào năm 1975, thay vì năm 1976 như dự kiến ban đầu. Giới lãnh đạo cho rằng việc thống nhất đất nước sớm không chỉ kết thúc cuộc chiến mà còn giúp Việt Nam củng cố vị thế chiến lược, tạo lợi thế trong việc đối phó với ảnh hưởng của cả Trung Quốc lẫn Liên Xô trong giai đoạn hậu chiến.[56] Sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Duẩn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong bài diễn văn mừng chiến thắng, nhấn mạnh rằng Đảng là "người lãnh đạo duy nhất và toàn diện" của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.[57] Đồng thời, ông ca ngợi Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam — được thành lập năm 1969 — vì vai trò chủ lực trong việc "giải phóng miền Nam". Tuy nhiên, chính quyền này tồn tại không lâu. Năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập, đánh dấu việc thống nhất hai miền Nam - Bắc dưới một chính thể duy nhất.[58] Sau chiến thắng, Lê Duẩn cho triển khai chính sách thanh lọc các cựu binh và viên chức của chế độ cũ. Khoảng 300.000 người bị đưa vào các trại cải tạo, bên cạnh đó là các "phần tử bất đồng chính kiến" bị giam giữ tại những cơ sở khác.[59] Đồng thời, chính quyền thực hiện chính sách tịch thu tài sản của cộng đồng người Hoa, dẫn đến làn sóng di cư lớn ra nước ngoài. Sự kiện này sau đó trở thành một cuộc khủng hoảng nhân đạo, được biết đến với tên gọi "thuyền nhân Việt Nam".

Tình hình lạm phát giá bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn từ sau thống nhất (1976) cho đến trước thềm Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986

Trong những năm chiến tranh, điều kiện phát triển kinh tế ở Việt Nam bị hạn chế nghiêm trọng. Công nghiệp gần như không tồn tại ở cả hai miền, khiến cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa đều phụ thuộc vào viện trợ quốc tế. Hạ tầng nông nghiệp, lĩnh vực thiết yếu nhất, chịu thiệt hại nặng nề.[60] Tại miền Nam, hậu quả chiến tranh để lại đặc biệt nghiêm trọng với khoảng 20.000 hố bom, 10 triệu người tị nạn, 362.000 thương binh, 1 triệu góa phụ, 880.000 trẻ mồ côi, 250.000 người nghiện ma túy, 300.000 người hành nghề mại dâm và 3 triệu người thất nghiệp.[61]

Sau chiến thắng năm 1975, giới lãnh đạo Việt Nam, đứng đầu là Lê Duẩn, thể hiện thái độ lạc quan về triển vọng tái thiết đất nước. Theo ghi nhận từ một ủy viên Trung ương, tinh thần lúc đó được mô tả là "giờ đây chẳng còn gì có thể cản trở nữa".[62] Năm 1976, Lê Duẩn cam kết trước nhân dân rằng trong vòng mười năm, mỗi gia đình sẽ sở hữu một bộ radio, tủ lạnh và tivi.[63] Ông tin tưởng rằng việc hòa nhập xã hội tiêu dùng của miền Nam vào nền kinh tế miền Bắc sẽ diễn ra thuận lợi. Cùng năm, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đề ra mục tiêu hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong hai thập niên. Tuy nhiên, những kỳ vọng này nhanh chóng bị thực tế kinh tế khó khăn phủ nhận.[60]

Sau chiến tranh, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 101 USD, giảm còn 91 USD vào năm 1980 và chỉ tăng nhẹ lên 99 USD vào năm 1982, theo số liệu của Liên Hợp Quốc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng thừa nhận rằng thu nhập không có sự cải thiện so với mười năm trước.[64] Tình trạng suy dinh dưỡng lan rộng. Theo Bộ Y tế Việt Nam[64] và báo cáo của International Herald Tribune, khoảng 6 triệu người lâm vào cảnh thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng, buộc chính phủ phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO).[65] Chính sách kinh tế thời Lê Duẩn, cùng với tác động từ các cuộc xung đột với Campuchia (1976–1979) và Trung Quốc (1979), đã khiến đời sống nhân dân suy giảm đáng kể. Tại miền Bắc, thu nhập bình quân hàng tháng giảm từ 82 USD vào năm 1976 xuống còn 58 USD vào năm 1980.[66]

Kế hoạch 5 năm lần II (1976–1980), được khởi xướng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, đặt ra ba mục tiêu chủ yếu. Cụ thể, kế hoạch nhấn mạnh:[67]

  1. Tập trung phát triển nông nghiệp nhằm tạo bước nhảy vọt, đẩy mạnh công nghiệp nhẹ
  2. Khai thác công nghiệp nặng hiện có và xây dựng thêm các cơ sở mới để hỗ trợ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
  3. Đồng thời cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.

Lãnh đạo Việt Nam kỳ vọng đạt được các mục tiêu này thông qua viện trợ từ Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON) và vay vốn từ các tổ chức quốc tế. Đại hội IV cũng xác định rõ định hướng xã hội hóa nông nghiệp. Tuy nhiên, quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn. Theo Võ Chí Công, Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Chủ tịch Ban cải tạo nông nghiệp miền Nam, các chỉ tiêu đề ra hầu như không thể hoàn thành trước năm 1980. Thực tế cho thấy đến thời điểm đó, khoảng 10.000 trong tổng số 13.246 hợp tác xã nông nghiệp xã hội chủ nghĩa đã tan rã ở miền Nam. Lê Thanh Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, công khai chỉ trích các cán bộ cơ sở về những thất bại trong cải tạo nông nghiệp. Việc tập thể hóa đã dẫn tới sản lượng lương thực sụt giảm trong các năm 1977 và 1978, buộc Hội nghị Trung ương 6 phải tiến hành điều chỉnh chính sách.[68]

Tăng trưởng thực tế của thu nhập quốc dân ở Việt Nam từ năm 1976 đến năm 1985

Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, chủ trương của lãnh đạo Đảng thể hiện sự thiếu nhất quán. Trong bản báo cáo chính trị tại Đại hội IV, Lê Duẩn từng khẳng định rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ưu tiên sẽ dành cho phát triển công nghiệp nặng, nhưng phải dựa trên nền tảng của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, ở một đoạn khác của chính báo cáo này, ông lại nhấn mạnh vai trò ưu tiên của công nghiệp nhẹ. Về phía Chính phủ, lập trường của Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, cũng không rõ ràng hơn là bao.[69] Dù vậy, trên thực tế, công nghiệp nặng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong phân bổ vốn đầu tư nhà nước. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai dành 21,4% vốn đầu tư cho lĩnh vực này, tỷ lệ này tăng lên 29,7% trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981–1985). Ngược lại, công nghiệp nhẹ chỉ nhận lần lượt 10,5% và 11,5% vốn đầu tư.[70] Giai đoạn 1976–1978, sản xuất công nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng nhất định, song đến năm 1979–1980 đã sụt giảm nghiêm trọng. Tính chung cả kế hoạch 5 năm lần thứ hai, mức tăng trưởng công nghiệp chỉ đạt 0,1%. Trước thực tế đó, Hội nghị Trung ương 6 phê phán quan điểm coi sở hữu nhà nước là hình thức duy nhất đối với tư liệu sản xuất.[71]

Trước Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V diễn ra vào tháng 12 năm 1983, Lê Duẩn thừa nhận nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào tình thế khó khăn, dù tại thời điểm đó, Đảng chưa có dấu hiệu sẽ thực hiện cải cách.[72] Từ năm 1979, ông mới bắt đầu công khai thừa nhận các sai lầm trong chính sách kinh tế do lãnh đạo Đảng và Nhà nước gây ra.[73]

Cho đến trước Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI diễn ra vào tháng 7 năm 1984, các nhà hoạch định kế hoạch vẫn giữ vai trò chủ đạo trong điều hành kinh tế. Tuy nhiên, tại hội nghị này, Đảng đã công khai phê phán các phương thức quản lý cũ, đồng thời khẳng định rằng từ nay nền kinh tế quốc dân phải vận hành theo các "quy luật khách quan".[74] Lần đầu tiên, mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường được đưa ra thảo luận công khai. Cùng với đó, vai trò của kinh tế hộ gia đình và kinh tế tư nhân được nhìn nhận tích cực hơn, một số mức giá thị trường bắt đầu được chính thức công nhận và nhận sự điều tiết, hỗ trợ từ phía Đảng.[74] Lê Duẩn bày tỏ sự ủng hộ đối với những cải cách này tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V năm 1982. Trong các bài phát biểu, ông nhấn mạnh yêu cầu cấp bách phải đồng thời củng cố cả nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung lẫn kinh tế địa phương.[75] Trong Báo cáo chính trị, Lê Duẩn thẳng thắn thừa nhận rằng Kế hoạch 5 năm lần thứ hai đã thất bại trên phương diện kinh tế.[76]

Tuy nhiên, những cải cách ban đầu không đem lại hiệu quả rõ rệt trong thực tế. Nguyên nhân chủ yếu được cho là do sự phản ứng từ giới hoạch định kế hoạch theo lối cũ, cùng với tâm lý hoang mang và dè dặt trong đội ngũ cán bộ các cấp. Mặc dù từ năm 1981 đến 1984, sản xuất nông nghiệp đã đạt mức tăng trưởng đáng kể, song chính phủ lại không tận dụng được cơ hội này để thúc đẩy sản xuất các yếu tố đầu vào thiết yếu như phân bón, thuốc trừ sâu, nhiên liệu, cũng như các mặt hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân. Đến những năm cuối thời kỳ cầm quyền của Lê Duẩn, đặc biệt trong giai đoạn 1985–1986, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Lạm phát gia tăng đột biến, vượt mức 100% mỗi năm, khiến cho việc hoạch định và điều hành chính sách kinh tế trở nên vô cùng khó khăn.[74]

Khủng hoảng người Hoa (1978)

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau năm 1975, Lê Duẩn nhanh chóng áp dụng các chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm quốc hữu hóa tài sản và doanh nghiệp tư nhân, trong đó cộng đồng người Hoa — vốn chiếm tỷ trọng lớn trong giới thương nhân ở miền Nam — trở thành đối tượng chính.[77] Khoảng 4% dân số Việt Nam lúc bấy giờ là người gốc Hoa, với hơn 1,5 triệu người tập trung chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh) và chỉ khoảng 250.000 người sống ở miền Bắc.[78] Ở miền Nam, Hoa kiều nắm giữ vị trí kinh tế vượt trội: họ kiểm soát hơn 80% cơ sở sản xuất công nghiệp, 100% hoạt động bán buôn, hơn 50% bán lẻ và 90% xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, sự áp đảo về kinh tế này khiến chính quyền lo ngại. Bện cạnh đó, việc nhiều hộ gia đình người Hoa cho treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong khu vực Chợ Lớn càng làm dấy lên những nghi ngờ rằng cộng đồng người Hoa có thể trở thành "đạo quân thứ năm" của Bắc Kinh nhằm gây sức ép hoặc phá hoại từ bên trong.[79] Trong bối cảnh lạm phát tăng vọt (80% vào năm 1977), thiếu lương thực trầm trọng và căng thẳng địa chính trị gia tăng, chính phủ Việt Nam ngày càng coi Hoa kiều là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia hơn là vấn đề thuần túy nội bộ.[80]

Năm 1977, chính phủ áp dụng chính sách "thanh lọc" khu vực biên giới, buộc những cư dân gốc Hoa phải quay trở lại phía Trung Quốc. Đỉnh điểm căng thẳng diễn ra vào năm 1978. Sau khi người Hoa ở Chợ Lớn biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc, chính quyền Việt Nam thực hiện chính sách cứng rắn: quốc hữu hóa triệt để tài sản của họ. Trong các tháng 3 và 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của người Hoa bị quốc hữu hóa.[81] Cộng đồng tư sản Hoa kiều bị xoá sổ về mặt kinh tế. Song song với đó là các biện pháp cưỡng chế khác như cưỡng bức di cư vào vùng kinh tế mới, buộc phải chọn quốc tịch Việt Nam hoặc ra đi.[79] Những chính sách này khiến khoảng 450.000 người Hoa rời bỏ Việt Nam từ năm 1978–1979, hoặc vượt biên sang Trung Quốc, hoặc trở thành thuyền nhân.[82] Riêng trong Sự kiện ải Hữu Nghị tháng 8 năm 1978, khoảng 2.500 người Hoa bị quân đội và công an Việt Nam cưỡng chế đưa qua biên giới sang Trung Quốc.[83] Khủng hoảng người Hoa làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ Việt – Trung.[84] Bắc Kinh cáo buộc Hà Nội thực hiện chính sách "diệt chủng" đối với cộng đồng người Hoa, cho rằng chính quyền Việt Nam cố ý biến biển cả thành "phòng hơi ngạt của người nghèo". Trung Quốc tuyên bố rằng từ 50 đến 70% thuyền nhân người Hoa đã thiệt mạng trên đường trốn chạy. Tuy nhiên, con số này bị thổi phồng vì trên thực tế, tỷ lệ tử vong được ước tính chưa đến 10%.[85] Đáp trả, Trung Quốc cắt toàn bộ viện trợ và ngừng quan hệ thương mại – vốn chiếm tới 70% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam – và tăng cường quân sự ở biên giới.[86]

Chính sách tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy là một người cộng sản, nhưng ngay từ thời kỳ còn làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ trong gian đoạn chiến tranh Đông Dương, Lê Duẩn đã nhận thức rõ vai trò đặc thù của tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực Nam Bộ.[87] Trong bối cảnh khu vực này xuất hiện nhiều tôn giáo bản địa như Cao ĐàiPhật giáo Hòa Hảo, cùng với sự hiện diện lâu dài của các tôn giáo ngoại nhập như Công giáo, Lê Duẩn xác định rằng tôn giáo không chỉ đơn thuần là vấn đề tín ngưỡng mà còn là một yếu tố chính trị - xã hội quan trọng. Ông đánh giá Công giáo ở Nam Bộ có xu hướng "ôn hòa" hơn so với miền Bắc và miền Trung, trong khi các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo từng đóng vai trò quân sự đối lập với lực lượng cộng sản.[88] Trên cơ sở đó, ông đề ra chủ trương vận động nhằm phân hóa nội bộ các giáo phái, trong đó tập trung tranh thủ và thu hút các bộ phận tín đồ có khuynh hướng ủng hộ cách mạng mà ông gọi là "tín đồ yêu nước", đồng thời cô lập và đấu tranh với các phần tử mà ông xem là "phản động".[89]

Từ sau Hiệp định Genève năm 1954, chính sách này tiếp tục được thực thi. Trong các văn kiện như Đề cương cách mạng miền Nam và qua thực tiễn hoạt động, Lê Duẩn chỉ đạo đẩy mạnh công tác "Cao Đài vận", "Hòa Hảo vận", coi đây là nhiệm vụ trọng yếu nhằm mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.[88] Trong những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, cũng như sau năm 1975, các chủ trương mềm dẻo này vẫn tiếp tục được áp dụng, góp phần hạn chế xung đột tôn giáo và tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia vào quá trình tái thiết đất nước thời hậu chiến.[90]

Trên thực tế, các cộng đồng tôn giáo ở miền Nam Việt Nam đã đóng vai trò đáng kể trong việc làm suy yếu tính chính danh của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn chiến tranh.[91] Phong trào đấu tranh Phật giáo năm 1963 góp phần trực tiếp vào việc lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, trong khi các cuộc biểu tình chống tham nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh và các giáo sĩ Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức vào năm 1974–1975 cũng gây áp lực lên chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sau Hiệp định Paris 1973.[92] Nhiều nhóm tôn giáo phản đối giải pháp quân sự và kêu gọi hòa bình, điều này khiến chiến lược quân sự do Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn theo đuổi trở nên thiếu hiệu quả về mặt chính trị – xã hội.[93] Trước thực tế đó, Đảng Lao động Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Lê Duẩn, tiếp tục duy trì chính sách tranh thủ các lực lượng tôn giáo, đồng thời tạm hoãn đấu tranh giai cấp và cải cách ruộng đất ở những khu vực có tiềm năng liên minh tôn giáo, nhằm phục vụ mục tiêu thống nhất đất nước và cách mạng miền Nam.[91]

Bên cạnh chủ trương vận động các lực lượng tôn giáo phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, Lê Duẩn còn nhấn mạnh vai trò của tự do tín ngưỡng như một bộ phận cấu thành của đời sống tinh thần nhân dân.[90] Trong một phát biểu năm 1963, ông khẳng định: "Hạnh phúc đối với đồng bào Thiên Chúa giáo là được tự do tín ngưỡng […] chúng ta tôn trọng và bảo đảm hạnh phúc ấy".[94] Cũng trong năm 1963, trong chuyến thăm Hợp tác xã Thành An tại Nam Định, nơi có đông giáo dân sinh sống và gần Đền Thánh Phú Nhai, ông khẳng định rằng niềm tin tôn giáo không đồng nghĩa với phản cách mạng. Ông phê phán quan điểm bài tôn giáo cực đoan, cho rằng hạnh phúc của tín đồ không chỉ nằm ở đời sống vật chất mà còn ở quyền tự do tín ngưỡng được bảo đảm.[95]

Đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan hệ với Liên Xô

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 10 năm 1975, Lê Duẩn có chuyến thăm chính thức tới Liên Xô. Kết quả chuyến thăm được thể hiện trong một thông cáo chung, trong đó phía Liên Xô cam kết cử các chuyên gia có trình độ sang Việt Nam để đào tạo cán bộ trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Ngoài ra, Liên Xô cũng cam kết cung cấp viện trợ kinh tế và hỗ trợ một số dự án trọng điểm của Việt Nam với các điều kiện ưu đãi. Thông cáo nhấn mạnh rằng mối quan hệ hợp tác giữa hai nước nằm trong "khuôn khổ hợp tác đa phương giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa". Dù tuyên bố này thường được hiểu là một bước tiến tới việc gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON), Việt Nam thời điểm đó vẫn chủ động từ chối, nhằm duy trì vị thế độc lập và tự chủ trong quan hệ đối ngoại.[96] Thủ tướng Phạm Văn Đồng thậm chí còn thể hiện thái độ dè dặt đối với đại sứ Liên Xô trong lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, đồng thời bác bỏ một số chính sách đối ngoại quan trọng của Moskva. Dù chịu áp lực thường xuyên từ phía Liên Xô, Việt Nam vẫn giữ vững lập trường và lựa chọn tham gia Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cùng Ngân hàng Thế giới — hai bước đi khiến Liên Xô không hài lòng.[97][98]

Tuy nhiên, đến năm 1978, trong bối cảnh cần nguồn lực để thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ hai,[99] Việt Nam đã điều chỉnh lập trường.[100] Cùng năm đó, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng[101] ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác 25 năm với Liên Xô.[99] Nhờ có sự bảo trợ của Moskva, Việt Nam đã tiến hành can thiệp quân sự vào Campuchia, dẫn tới phản ứng quân sự từ Trung Quốc dưới hình thức cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Để củng cố an ninh, Việt Nam đã cho phép Liên Xô sử dụng một số căn cứ quân sự nhằm đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Theo một số nguồn tin, Trung Quốc từng đưa ra yêu sách yêu cầu Việt Nam chấm dứt tiếp nhận viện trợ từ Liên Xô như điều kiện tiên quyết để thiết lập hòa bình. Ở châu Á, Việt Nam đóng vai trò tương tự như Cuba ở Mỹ Latinh, trở thành trung tâm hậu thuẫn cho các phong trào cách mạng và là căn cứ địa của chủ nghĩa cộng sản theo mô hình Liên Xô. Việt Nam ủng hộ cuộc xâm lược của Liên Xô vào Afghanistan và nhận viện trợ quân sự trị giá khoảng 3 triệu $ mỗi ngày.[102]

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Lê Duẩn tái khẳng định lập trường gắn bó với Liên Xô.[103] Ông tuyên bố: "Đoàn kết và hợp tác với Liên Xô là nền tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta". Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng liên minh này là "bảo đảm cho thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội".[104] Lập trường này nhận được sự ủng hộ từ phía Moskva khi Mikhail Gorbachyov tuyên bố: "Việt Nam có thể tin tưởng vào sự đoàn kết và ủng hộ của Liên Xô".[105] Mặc dù vậy, chính sách đối ngoại của Lê Duẩn không tránh khỏi những chỉ trích.[106] Hoàng Văn Hoan cáo buộc ông đã hy sinh chủ quyền quốc gia để đổi lấy sự bảo trợ từ Liên Xô.[45] Trong dịp Quốc khánh Việt Nam, phái đoàn do Vitaly Vorotnikov dẫn đầu đã tới Hà Nội dự lễ và hội đàm với Lê Duẩn.[107] Sau đó, ông tiếp tục tham dự Đại hội lần thứ 27 của Đảng Cộng sản Liên Xô và có cuộc gặp riêng với Gorbachyov. Khi Lê Duẩn qua đời, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolay Ryzhkov cùng Anatoly Dobrynin đã tới Việt Nam để dự lễ tang.[108]

Quan hệ với Trung Quốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Duẩn cụng ly với Mao Trạch Đông (1964)

Trong Chiến tranh Việt Nam, phía Trung Quốc đánh giá rằng Liên Xô có xu hướng điều chỉnh chính sách theo hướng cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ, đồng thời dự đoán điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự ủng hộ dành cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chu Ân Lai nhận định rằng sự thay đổi này bắt đầu sau chuyến thăm Việt Nam của Aleksey Nikolayevich Kosygin năm 1965. Ngược lại, lãnh đạo Hà Nội không chia sẻ cách nhìn này. Khi tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXIII, Lê Duẩn mô tả nước này là "tổ quốc thứ hai". Để đáp trả, Trung Quốc ngay lập tức cắt giảm viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo ghi nhận từ Đại sứ quán Liên Xô tại Trung Quốc, động thái của giới lãnh đạo Bắc Kinh được Hà Nội coi là hành động thù địch. Biểu hiện của sự căng thẳng xuất hiện rõ qua các nghi thức ngoại giao. Năm 1965, nhân kỷ niệm 44 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hà Nội gửi công hàm chúc mừng có chữ ký của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Lê Duẩn. Tuy nhiên tại lễ kỷ niệm 45 năm diễn ra năm 1966, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tuy có gửi công hàm, nhưng không có lãnh đạo chủ chốt nào ký tên chúc mừng.[109]

Sau khi Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu tiến trình bình thường hóa quan hệ, mức độ tin cậy giữa Hà Nội và Bắc Kinh tiếp tục suy giảm. Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 16 tháng 7 năm 1971, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam xác định chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc là mối đe dọa đối với lợi ích của Việt Nam, ví nó như một "quả ngư lôi" nhắm vào Hà Nội.[110] Phạm Văn Đồng và Lê Duẩn sau đó thông báo với Chu Ân Lai rằng chuyến thăm sắp tới của Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc không phù hợp với các mục tiêu của Việt Nam. Nỗ lực ngoại giao nhằm thuyết phục Bắc Kinh hủy bỏ cuộc gặp không đạt kết quả. Trong bối cảnh này, Hà Nội quyết định hạn chế chia sẻ thông tin về kế hoạch quân sự với Trung Quốc, đồng thời theo dõi chặt chẽ tiến triển của quan hệ Mỹ – Trung. Tuy nhiên, quá trình bình thường hóa quan hệ Xô – Mỹ sau đó đã góp phần ngăn chặn khả năng rạn nứt hoàn toàn trong quan hệ Việt – Trung.[111]

Giai đoạn 1973–1975 ghi nhận sự suy giảm nghiêm trọng trong quan hệ song phương. Tài liệu Việt Nam cho rằng Trung Quốc tìm cách cản trở quá trình thống nhất đất nước, trong khi các nguồn Trung Quốc xác định tranh chấp chủ quyền đối với Trường SaHoàng Sa là nguyên nhân chính của bất đồng. Tuy vậy, theo đánh giá từ phía Trung Quốc, mối quan ngại chủ yếu vẫn là xu hướng tăng cường hợp tác giữa Hà Nội và Moskva, vốn được coi là bất lợi cho lợi ích chiến lược của Bắc Kinh.[112] Khi Lê Duẩn thăm Trung Quốc vào tháng 6 năm 1973, Chu Ân Lai khuyến nghị Hà Nội tuân thủ Hiệp định Hòa bình Paris. Sau khi hiệp định được ký kết, Lê Thanh Nghị khẳng định rằng đường lối của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam gắn bó chặt chẽ với quan hệ với Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc tìm cách hạn chế tiến trình thống nhất Việt Nam bằng cách thiết lập các thỏa thuận kinh tế với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN). Nguyễn Hữu Thọ, lãnh đạo CHMNVN, nhận được sự đối đãi tích cực từ phía Trung Quốc. Chính sách này làm sâu sắc thêm bất đồng giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Mặc dù viện trợ từ Trung Quốc vẫn tiếp tục, quan hệ song phương không được cải thiện.[113]

Lê Duẩn (thứ tư từ trái) chụp ảnh tập thể cùng Mao Trạch Đông (thứ năm từ trái), Lâm Bưu (thứ ba từ trái), Chu Ân Lai (thứ hai từ phải), Khang Sinh (thứ hai từ trái) và Hoàng Vĩnh Thắng (ngoài cùng bên phải) ngày 11 tháng 5 năm 1970

Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, tháng 8 năm 1975, Lê Thanh Nghị dẫn đầu phái đoàn sang Bắc Kinh đề nghị viện trợ nhưng không đạt kết quả. Đến tháng 9, ông cùng Lê Duẩn tiếp tục dẫn phái đoàn sang Trung Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác. Trong chuyến thăm này, Hà Nội tìm cách tái khẳng định mong muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với cả Trung Quốc và Liên Xô. Tuy nhiên, trong diễn văn đón tiếp, Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh nguy cơ từ chủ nghĩa bá quyền, ám chỉ Liên Xô, và kêu gọi Hà Nội đứng về phía Trung Quốc. Đáp lại, Lê Duẩn không đề cập trực tiếp đến Liên Xô nhưng khẳng định vai trò quyết định của khối xã hội chủ nghĩa anh em (ám chỉ khối Đông Âu) đối với thắng lợi của Việt Nam, qua đó gián tiếp từ chối đề nghị của Bắc Kinh.[114] Hai hiệp định được ký kết sau chuyến thăm, song không có hiệp định viện trợ không hoàn lại nào được thông qua.[115] Chuyến đi kết thúc sớm hơn dự kiến do hai bên không đạt được đồng thuận.[116] Theo Anne Gilks, sự kiện Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975 được xem là dấu mốc chấm dứt liên minh Việt – Trung.[117] Trong bối cảnh quan hệ ngày càng xấu đi, chính quyền Hà Nội đã tiến hành thanh trừng một số đảng viên thân Trung Quốc.[118]

Lê Duẩn tiếp tục thăm Trung Quốc từ ngày 20 đến 25 tháng 11 năm 1977 nhằm tìm kiếm thêm viện trợ kinh tế. Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Hoa Quốc Phong khẳng định quan hệ song phương suy giảm do khác biệt đường lối. Ông tuyên bố Trung Quốc không thể hỗ trợ Việt Nam do những khó khăn kinh tế nội bộ. Đáp lại, Lê Duẩn cho rằng điểm khác biệt chủ yếu giữa hai nước nằm ở cách nhìn nhận về Liên Xô và Hoa Kỳ.[119] Ngay sau chuyến thăm, Tân Hoa Xã đăng bài chỉ trích Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON), tổ chức mà Việt Nam vừa nộp đơn xin gia nhập. Trung Quốc sau đó quyết định tạm dừng tất cả các dự án kinh tế từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1978 và rút toàn bộ chuyên gia khỏi Việt Nam.[120][101] Tổng giá trị viện trợ Trung Quốc cho Việt Nam trong giai đoạn này đạt khoảng 300 triệu $.[121]

Mối quan hệ với Khmer Đỏ

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1951, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương giải thể, ba đảng cộng sản riêng biệt được thành lập tại ba nước Đông Dương, trong đó có Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer do Việt Nam hỗ trợ. Trong ba đảng, phong trào cách mạng tại Campuchia được đánh giá là yếu nhất. Khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu viện trợ quân sự chính thức cho Khmer Đỏ vào năm 1970, lãnh đạo Đảng cộng sản Kampuchea (Khmer Đỏ) vẫn duy trì thái độ hoài nghi với Hà Nội. Theo chỉ thị của Võ Chí Công, hai trung đoàn quân được điều sang Campuchia hỗ trợ tác chiến. Võ Chí Công cam kết với Ieng Sary rằng lực lượng Việt Nam sẽ rút lui khi lực lượng cộng sản giành thắng lợi. Việc quân đội Việt Nam tham chiến khiến một số quan chức Việt Nam cho rằng giới lãnh đạo Khmer Đỏ bắt đầu có những lo ngại nhất định.[122] Trao đổi với Phạm Hùng, Lê Duẩn cho rằng dù tồn tại một số khác biệt, "chủ nghĩa quốc tế và thái độ thực sự" của hai bên sẽ đảm bảo sự gắn kết. Tuy vậy, sau khi nghiên cứu báo cáo của Võ Chí Công, Lê Duẩn đánh giá rằng "chủ nghĩa quốc tế" ở Campuchia đang gặp trở ngại. Giới lãnh đạo Việt Nam thời điểm đó kỳ vọng tình hình sẽ cải thiện, song thừa nhận rằng bối cảnh Campuchia phức tạp hơn so với Lào.[122]

Tình hình trở nên căng thẳng sau năm 1973, khi phe Pol Pot nắm quyền kiểm soát tuyệt đối Đảng Cộng sản Campuchia. Mối quan hệ Việt Nam – Khmer Đỏ nhanh chóng xấu đi. Dù các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục đóng vai trò đồng minh trong cuộc chiến chống chính quyền Lon Nol, họ thường xuyên bị chính Khmer Đỏ tấn công.[123] Đến năm 1976, dù quan hệ hai bên có dấu hiệu bình thường hóa, sự nghi kỵ giữa giới lãnh đạo Việt Nam và Campuchia vẫn tiếp tục gia tăng.[124] Cũng trong năm này, lãnh đạo Việt Nam bao gồm Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Trường ChinhPhạm Văn Đồng đã gửi điện chúc mừng Pol Pot, Khieu SamphanNuon Chea lần lượt đảm nhận các vị trí Thủ tướng, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Chủ tịch Quốc hội Campuchia Dân chủ.[125] Đáp lại, Khmer Đỏ gửi công điện chúc mừng chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 7 năm thành lập. Ngày 21 tháng 9 năm 1976, đoàn đại biểu Hội Phụ nữ Việt Nam thăm Campuchia, và cuối năm đó, giới lãnh đạo Khmer Đỏ cũng gửi công văn chúc mừng Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV.[126]

Giới lãnh đạo Hà Nội khi đó kỳ vọng rằng các yếu tố thân Việt Nam sẽ dần chiếm ưu thế trong nội bộ Khmer Đỏ.[127] Niềm tin này được củng cố khi đài phát thanh Campuchia thông báo việc Pol Pot từ chức.[123] Lãnh đạo Việt Nam, bao gồm Lê Duẩn, đánh giá cao diễn biến này. Trong cuộc gặp ngày 16 tháng 11 năm 1976 với đại sứ Liên Xô, Lê Duẩn khẳng định rằng Pol Pot và Ieng Sary "đã bị loại khỏi quyền lực". Theo đánh giá từ phía Hà Nội, đây là thay đổi tích cực, do hai nhân vật này được xem là đại diện cho "tập đoàn thân Trung Quốc" với chính sách đối nội nghiêm khắc. Ngược lại, Lê Duẩn bày tỏ sự tin tưởng vào Nuon Chea, người được xem là "bạn tốt" của Việt Nam.[123] Trong bối cảnh đó, Hà Nội không chuẩn bị cho khả năng xảy ra đối đầu toàn diện với Phnom Penh, do vẫn giữ quan điểm cho rằng quan hệ song phương có thể được cải thiện. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Dmitry Mosyakov thuộc Viện Nghiên cứu Phương Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, giới lãnh đạo Việt Nam đã đánh giá sai hoàn toàn tình hình Campuchia lúc bấy giờ.[128] Trên thực tế, vào thời điểm Lê Duẩn tuyên bố Pol Pot và Ieng Sary bị gạt khỏi quyền lực, cả hai vẫn duy trì vị thế lãnh đạo tuyệt đối tại Phnom Penh.[129] Dù vậy, Hà Nội tiếp tục tin rằng Campuchia cuối cùng sẽ trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa, coi trọng quan hệ với Việt Nam và Liên Xô theo mô hình đã hình thành tại Lào.[130]

Căng thẳng leo thang

[sửa | sửa mã nguồn]
Vụ thảm sát Ba Chúc là sự kiện diễn ra tại xã Ba Chúc, tỉnh An Giang, khi Quân Cách mạng Campuchia tràn qua biên giới Tây Nam và tàn sát thường dân địa phương

Mặc dù nhận được sự ủng hộ từ Liên Xô, Việt Nam vẫn bị giới lãnh đạo Campuchia Dân chủ đánh giá là quốc gia đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế, xã hội và có xu hướng tránh đối đầu quân sự.[131] Nhận thức này đã thúc đẩy Campuchia gia tăng các hành động gây hấn sau năm 1975.[132] Từ ngày 30 tháng 4 năm 1977, các lực lượng Campuchia Dân chủ bắt đầu tiến hành các đợt tấn công quy mô lớn dọc biên giới Tây Nam Việt Nam. Nổi bật trong số đó là vụ thảm sát Ba Chúc tại tỉnh An Giang vào tháng 4 năm 1978. Bất ngờ trước các hành động này, Việt Nam tiến hành phản công đáp trả.[130] Mặc dù căng thẳng gia tăng, Việt Nam vẫn duy trì nỗ lực cải thiện quan hệ. Khi Pol Pot công khai thừa nhận sự tồn tại của Đảng Cộng sản Campuchia vào ngày 27 tháng 9 năm 1977, Hà Nội đã gửi điện chúc mừng. Trong cuộc trao đổi ngày 6 tháng 10 cùng năm với đại sứ Liên Xô, Lê Duẩn không đưa ra bình luận trực tiếp về các hành động của Campuchia,[133] nhưng mô tả giới lãnh đạo Khmer Đỏ là lực lượng mang "chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ" và chịu ảnh hưởng đáng kể từ Trung Quốc.[134] Ông đánh giá Pol Pot có xu hướng theo chủ nghĩa Trotsky, trong khi xem Ieng Sary là người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và thân Trung Quốc. Tuy vậy, Lê Duẩn nhận định sai về Nuon Chea và Son Sen, khi cho rằng hai nhân vật này có lập trường ủng hộ Việt Nam.[134]

Ngày 31 tháng 12 năm 1977, Phnom Penh tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hà Nội, yêu cầu Việt Nam rút toàn bộ lực lượng ra khỏi lãnh thổ Campuchia nhằm "khôi phục bầu không khí hữu nghị giữa hai nước".[135] Trong khi phía Campuchia cáo buộc Việt Nam xâm lược, căng thẳng thực tế liên quan đến quan ngại của Khmer Đỏ về khả năng Hà Nội theo đuổi kế hoạch thành lập một liên bang Đông Dương do Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo. Đến tháng 1 năm 1978, quân đội Việt Nam rút lui, mang theo nhiều tù binh và dân thường Campuchia tị nạn.[135] Tuy vậy, chiến dịch quân sự của Việt Nam không đạt được mục tiêu làm giảm thái độ đối đầu của Khmer Đỏ. Ngược lại, giới lãnh đạo Campuchia coi việc đẩy lùi quân Việt Nam là thắng lợi lớn, so sánh với chiến thắng trước Hoa Kỳ trước đó. Chính quyền Khmer Đỏ không có bất kỳ phản hồi tích cực nào đối với các nỗ lực ngoại giao từ phía Việt Nam mà tiếp tục tổ chức các cuộc tấn công mới dọc biên giới.[136] Đáp lại, Việt Nam bắt đầu hậu thuẫn các lực lượng nổi dậy chống chính quyền Pol Pot[137] và chuẩn bị cho một chiến dịch quân sự quy mô lớn.[138]

Ngày 15 tháng 6 năm 1978, Bộ Chính trị quyết định cử một phái đoàn do Lê Duẩn dẫn đầu sang Moskva nhằm trao đổi với Tổng Bí thư Leonid Ilyich Brezhnev nói riêng và giới lãnh đạo Liên Xô nói chung. Trong cuộc gặp với đại sứ Liên Xô vào tháng 9 cùng năm, Lê Duẩn cho biết Việt Nam dự kiến "giải quyết dứt điểm vấn đề [Campuchia] vào đầu năm 1979".[139] Ông nhận định khả năng Trung Quốc trả đũa là thấp, do những hạn chế về hậu cần và cho rằng việc trì hoãn hành động sẽ chỉ mang lại lợi thế cho Bắc Kinh. Dù Trung Quốc sau đó thực hiện chiến dịch tấn công Việt Nam, mục tiêu lại không phải Campuchia mà là các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Theo kế hoạch, Việt Nam thành lập chín tiểu đoàn gồm các binh sĩ Khmer đào ngũ nhằm hỗ trợ chiến dịch. Trong khi đó, thông tin về Sao Pheum — nhân vật mà Việt Nam tìm kiếm để liên kết với lực lượng đối lập Khmer Đỏ — cho thấy ông đã qua đời ba tháng trước đó. Đến thời điểm này, Lê Duẩn vẫn đánh giá Nuon Chea là nhân vật thân thiện với Việt Nam, bất chấp việc ông ta trước đó có bài phát biểu với luận điệu chống Việt Nam.[140] Trên thực tế, cả Nuon Chea lẫn Son Sen vẫn trung thành với Pol Pot và tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo của Khmer Đỏ cho đến tận thập niên 1990.[141]

Chiến tranh biên giới Tây Nam

[sửa | sửa mã nguồn]
…Tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng Xa-ry đã tự phơi bày bộ mặt là một lũ sát nhân tàn bạo bậc nhất trong nửa sau thế kỷ này. Kẻ nào đã chắp tay, giật dây cho những tên đồ tể đẫm máu ấy gây ra tội ác với đồng bào Cam-pu-chia, đồng bào Chăm? Ai là kẻ đã suýt xóa sổ đồng bào người Kinh, người Hoa? Câu hỏi đó, nhân dân tiến bộ toàn cầu đã thấy rõ: bè lũ Pôn Pốt – Iêng Xa-ry chỉ là công cụ tay sai rẻ tiền trong tay kẻ thù nguy hiểm nhất của hòa bình và nhân loại. Những hành động điên cuồng của chúng đang đẩy cả đất nước Cam-pu-chia đến bờ vực tự diệt. Đây là một hình thức diệt chủng mới. Phải chấm dứt ngay cuộc diệt chủng này! Chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn tội ác mà tập đoàn Pôn Pốt – Iêng Xa-ry đang gây ra!

Trích xã luận đăng trên báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.[137]

Nhận thấy không còn cơ hội đàm phán, Việt Nam mở cuộc tấn công toàn diện vào Campuchia ngày 25 tháng 12 năm 1978. Quân đội Nhân dân Việt Nam huy động 13 sư đoàn với khoảng 150.000 binh sĩ, được yểm trợ bởi pháo binh và không quân, tiến vào Campuchia từ nhiều hướng.[142] Tự tin trước sức mạnh của mình, giới lãnh đạo Khmer Đỏ chủ động đối đầu trực diện với quân Việt Nam bằng lối đánh quy ước. Tuy nhiên, chiến thuật này nhanh chóng khiến quân Khmer Đỏ chịu tổn thất nặng, mất khoảng một nửa quân số chỉ trong hai tuần đầu giao tranh.[142] Trước các thất bại liên tiếp, phần lớn lãnh đạo Khmer Đỏ buộc di tản khỏi Phnôm Pênh, rút về khu vực rừng núi phía tây giáp Thái Lan.[143] Ngày 7 tháng 1 năm 1979, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia tiến vào giải phóng thủ đô Phnom Penh. Ngày hôm sau, Cộng hòa Nhân dân Campuchia, một chính quyền thân Việt Nam, được thành lập. Heng Samrin đảm nhận cương vị nguyên thủ quốc gia, còn Pen Sovan giữ chức Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer.[143]

Mặc dù Khmer Đỏ bị đánh bại, tàn quân vẫn rút vào rừng, dựa vào sự hỗ trợ của Thái Lan, Trung Quốc và Hoa Kỳ để tiến hành chiến tranh du kích. Các hoạt động này gây tổn thất đáng kể cho chính quyền mới tại Campuchia và Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau khi Việt Nam rút bớt quân vào năm 1982, Khmer Đỏ gia tăng hoạt động và tái chiếm một số khu vực. Do lực lượng của Cộng hòa Nhân dân Campuchia chưa đủ khả năng kiểm soát tình hình, Việt Nam tiếp tục duy trì quân đội tại Campuchia nhằm hỗ trợ chính quyền Hun Sen và truy quét Khmer Đỏ. Trong chiến dịch mùa khô 1984–1985, Việt Nam huy động khoảng 60.000 quân tiến hành truy quét các căn cứ của Khmer Đỏ dọc biên giới Thái Lan.[144] Kết quả, lực lượng Khmer Đỏ mất toàn bộ các căn cứ trên lãnh thổ Campuchia, suy yếu đáng kể và không còn khả năng đe dọa chính quyền Phnom Penh.

Chiến tranh biên giới Việt–Trung

[sửa | sửa mã nguồn]
Trong chuyến thăm Đông Nam Á cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình tuyên bố trên truyền hình Trung Quốc rằng "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học". Câu nói này sau đó được báo chí cắt ngắn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học".

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, khi phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang tham chiến tại Campuchia, Trung Quốc bất ngờ đưa khoảng 120.000 quân tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam với tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học" nhằm đáp trả việc Việt Nam tiến đánh Campuchia.[145] Một ngày trước đó, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã triệu tập các cán bộ cấp cao để chính thức thông báo về cuộc chiến. Trong cuộc họp này, Đặng Tiểu Bình nêu mục tiêu, cái lợi, hại của cuộc chiến tranh chống Việt Nam, nhấn mạnh đây là một cuộc "phản kích tự vệ",[146] tiến hành để trừng phạt nhà cầm quyền Việt Nam, cụ thể là "bè lũ Lê Duẩn". Chủ tịch Hoa Quốc Phong cũng nhấn mạnh Bắc Kinh cần phải "trừng phạt" Việt Nam vì đã trở nên "kiêu ngạo" và theo đuổi vai trò "tiểu bá" tại Đông Nam Á dưới sự hậu thuẫn của "đại bá" Liên Xô.[147][145]

Chiến dịch quân sự nhanh chóng được triển khai trên toàn tuyến biên giới. Quân đội Trung Quốc lần lượt tấn công và kiểm soát các thị xã trọng yếu như Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng cùng nhiều thị trấn và khu vực nông thôn lân cận.[148] Mặc dù vậy, trong quá trình tiến công, Trung Quốc vấp phải sự kháng cự quyết liệt từ các đơn vị quân đội địa phương, dân quân và bộ đội chủ lực của Việt Nam. Giao tranh diễn ra ác liệt với thương vong lớn từ cả hai phía. Ước tính, quân đội Trung Quốc hứng chịu khoảng 26.000 thương vong, trong khi con số phía Việt Nam vào khoảng 30.000 người.[149] Đến ngày 16 tháng 3 năm 1979, sau hơn một tháng giao tranh, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu "trừng phạt" Việt Nam và bắt đầu rút quân. Dù không tiêu diệt được bất kỳ sư đoàn chính quy nào của Việt Nam, Bắc Kinh đã gây ra thiệt hại nặng nề đối với cơ sở hạ tầng và các khu dân cư dọc biên giới. Tuy nhiên, mục tiêu chiến lược lớn nhất của Trung Quốc nhằm buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đã không đạt được. Việt Nam vẫn duy trì hiện diện quân sự tại Campuchia trong suốt một thập kỷ sau đó, tiếp tục hỗ trợ chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia non trẻ trước các cuộc đột kích của quân Khmer Đỏ.[150]

Ngay sau khi kết thúc chiến dịch, các cuộc đàm phán hòa bình giữa hai nước nhanh chóng rơi vào bế tắc. Trong bối cảnh đó, Hoàng Văn Hoan, nhân vật thuộc phe thân Trung Quốc vốn bị Lê Duẩn thanh trừng, đã trốn sang Trung Quốc.[45] Tại Bắc Kinh, ông tham dự một cuộc họp báo, công khai ủng hộ hành động quân sự của Trung Quốc và chỉ trích chính quyền Hà Nội. Ông tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam đã đối xử với người Hoa còn "tệ hơn cả cách Hitler đối xử với người Do Thái".[151] Những phát biểu này đã khiến Hoàng Văn Hoan bị chính quyền Việt Nam kết án tử hình vắng mặt về tội phản quốc, đồng thời đẩy mối quan hệ Việt – Trung leo thang đến mức căng thẳng cực độ. Tới tháng 12 năm 1979, mọi cuộc đàm phán chính thức bị đình chỉ. Căng thẳng tiếp tục gia tăng khi cả hai bên đều tăng cường binh lực dọc biên giới: Trung Quốc triển khai khoảng 400.000 quân, trong khi Việt Nam duy trì lực lượng từ 600.000 đến 800.000 quân tại các tỉnh phía Bắc.[145] Tình trạng đối đầu vũ trang kéo dài suốt hơn một thập niên sau đó. Các cuộc đụng độ biên giới tuy không diễn ra với quy mô như cuộc chiến năm 1979, song vẫn thường xuyên nổ ra cho đến khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ. Chỉ đến năm 1990, khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và bối cảnh quốc tế thay đổi sau khi Liên Xô sụp đổ, giao tranh mới chấm dứt hoàn toàn. Cùng với đó, quá trình bình thường hóa quan hệ song phương chính thức bắt đầu, đánh dấu sự kết thúc hơn một thập kỷ xung đột.[152][143]

Những năm cuối đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào thời điểm diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, bộ máy lãnh đạo đất nước đã trở nên tập trung quyền lực cao độ, biến chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành một chế độ chuyên chế thực sự. Khi đó, năm ủy viên quyền lực nhất của Bộ Chính trị đều đã cao tuổi: Lê Duẩn 74 tuổi, Trường Chinh 75 tuổi, Phạm Văn Đồng 76 tuổi, Phạm Hùng 70 tuổi và Lê Đức Thọ 72 tuổi. Sức khỏe của Lê Duẩn khi ấy đã suy giảm rõ rệt. Ông nhiều lần sang Liên Xô chữa bệnh vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Theo một số nguồn, do lý do sức khỏe, ông không trực tiếp dẫn đầu đoàn đại biểu Đại hội V viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hình ảnh Lê Duẩn lúc này cho thấy ông đã già yếu và gặp khó khăn khi phát biểu trước Đại hội.[153]

Tại Đại hội này, phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ tiếp tục củng cố quyền lực bằng cách bố trí các thân tín vào những vị trí chủ chốt trong Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư khóa VBộ Chính trị khóa V. Nhiều nhân vật ôn hòa, những người thân cận cũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng một số cá nhân thân Trung Quốc hoặc gắn bó với Trường Chinh đều bị loại khỏi các cơ quan lãnh đạo. Trường hợp điển hình nhất là Võ Nguyên Giáp, người bị gạt ra khỏi Bộ Chính trị không phải vì bất đồng ý thức hệ mà vì yếu tố chính trị. Ngoài ra, Nguyễn Duy TrinhLê Thanh Nghị cũng bị loại vì lập trường ôn hòa; Trần Quốc Hoàn, Lê Văn LươngNguyễn Văn Linh mất vị trí do có liên hệ với Trường Chinh và được thay thế bởi các quân nhân gồm Đỗ Mười, Lê Đức AnhĐồng Sĩ Nguyên. Việc bổ nhiệm Nguyễn Đức TâmNguyễn Cơ Thạch giúp củng cố thêm thế lực của Lê Đức Thọ. Nhờ những điều chỉnh này, liên minh giữa Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nắm giữ thế thượng phong tại Ban Chấp hành Trung ương khóa V.[154]

Mộ phần của Lê Duẩn tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội

Bản báo cáo chính trị của Lê Duẩn trước Đại hội V được xem là mang tính tự phê bình sâu sắc. Trong đó, ông thừa nhận những hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ trích tình trạng tham nhũng chính trị, kinh tế cũng như hiện tượng bảo thủ trong bộ máy — minh chứng qua việc Ban Chấp hành Trung ương khi đó chỉ có duy nhất một thành viên dưới 60 tuổi.[155] Tình hình nội bộ Đảng lúc này trở nên căng thẳng, đặc biệt tại Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nơi xảy ra xung đột giữa các phe phái thực dụng và bảo thủ.[156] Tuy vậy, cũng từ những mâu thuẫn này, Lê Duẩn và các đồng minh bắt đầu xúc tiến những bước đi đầu tiên nhằm mở cửa và cải cách kinh tế.[157]

Sau Đại hội, Lê Duẩn bị đau tim và phải sang Liên Xô chữa trị. Mặc dù vậy, ông vẫn giữ chức Tổng Bí thư cho đến khi qua đời tại Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 1986, hưởng thọ 79 tuổi. Sau khi ông qua đời, Trường Chinh tạm thời đảm nhận vai trò Tổng Bí thư cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm đó, khi Nguyễn Văn Linh được bầu làm người kế nhiệm chính thức.[158]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1927, Lê Duẩn lập gia đình với Lê Thị Sương (1910–2008), người cùng quê Bích La.[13] Sau khi kết hôn, hai người chuyển ra Hà Nội, nơi ông tiếp tục hoạt động cách mạng. Họ có người con trai đầu lòng tên Lê Hãn (sinh năm 1929).[18] Trong giai đoạn này, bà Lê Thị Sương vừa chăm sóc gia đình, vừa tích cực hỗ trợ chồng trong các công việc cách mạng bí mật như cất giữ tài liệu, truyền đơn và liên lạc. Khi người Pháp quay lại Đông Dương, Lê Duẩn trở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào kháng chiến, còn vợ con ông tiếp tục ở lại miền Bắc. Bà Sương đảm đương việc nuôi dạy các con, đồng thời tham gia các hoạt động xã hội và đoàn thể tại địa phương.[159] Ngoài Lê Hãn, hai ông bà có các người con khác gồm: Lê Minh Cừ, con gái, tham gia cách mạng với vai trò giao liên; Lê Tuyết Hồng, kết hôn với Hồ Ngọc Đại, Giáo sư, Tiến sĩ chuyên ngành giáo dục và Lê Thị Muội (1942–2008), người sau này trở thành Phó Giáo sư, Tiến sĩ chuyên ngành sinh học.

Trong thời gian lãnh đạo cách mạng tại miền Nam, Lê Duẩn lập gia đình lần thứ hai với Nguyễn Thụy Nga (1925–2018), quê Đồng Nai. Cuộc hôn nhân này diễn ra năm 1950 tại miền Tây Nam Bộ, được tổ chức theo sự sắp xếp của tổ chức Đảng. Bà Nguyễn Thụy Nga tham gia kháng chiến và sau năm 1975 tiếp tục công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh, từng giữ các chức vụ như Phó ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang và Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng. Lê Duẩn và Nguyễn Thụy Nga có ba người con. Người con gái lớn là Lê Vũ Anh (1950–1981), kết hôn với giáo sư toán học Viktor Pavlovich Maslov tại Moskva, qua đời do tai biến sản khoa. Các con của bà sau đó sinh sống tại châu Âu. Người con trai thứ hai là Lê Kiên Thành (sinh năm 1955), từng học tại Liên Xô, về nước làm kinh doanh và giữ nhiều vị trí lãnh đạo doanh nghiệp, đồng thời có đóng góp trong lĩnh vực thể thao. Con trai út là Lê Kiên Trung (sinh năm 1958), công tác trong ngành công an, từng giữ chức Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.

Tư tưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Duẩn là một nhà lãnh đạo mang tư tưởng dân tộc sâu sắc, đồng thời kiên định với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.[160] Trong thời chiến, ông luôn đề cao khẩu hiệu "ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội", coi đó là phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Ông nhấn mạnh rằng bảo vệ nền độc lập quốc gia và xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau và việc phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa phải đi liền với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.[161]

Trong hoạt động thực tiễn, Lê Duẩn thường được đánh giá là người thực dụng và linh hoạt. Ông chủ trương vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin, tìm kiếm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Cách hiểu của Lê Duẩn về chủ nghĩa xã hội mang đậm tính quản lý nhà nước, tập trung cao độ và thiên về điều hành từ trên xuống.[160] Theo ông, chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc thống nhất, tập trung và quản lý cao, nhưng đồng thời phải gắn với lợi ích thiết thực của nhân dân. Ông thường xuyên nhấn mạnh rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó cán bộ, đảng viên phải chăm lo đầy đủ đời sống cho nhân dân, không phân biệt "bên này, bên kia", vì tất cả đều là công dân nước Việt Nam.[162]

"Ba làn sóng cách mạng"

[sửa | sửa mã nguồn]
Sức mạnh của chúng ta là sức mạnh của hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn liền với 'ba làn sóng cách mạng' của thời đại

Lê Duẩn, Thư gửi đồng chí Bảy Cường về kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị, ngày 10 tháng 10 năm 1974.[163]

Trong khoảng thập niên 1960 và 1970, Lê Duẩn đã xây dựng và phát triển một học thuyết mà ông gọi là "Ba làn sóng cách mạng". Học thuyết này nhấn mạnh rằng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới đồng thời tồn tại và phát triển mạnh mẽ ba phong trào cách mạng lớn (hay ba "làn sóng") cùng tấn công chủ nghĩa đế quốcchủ nghĩa tư bản.[164] Ba làn sóng cách mạng bao gồm: phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn cầu (tiêu biểu là Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu), phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tại các nước tư bản phát triển (các nước Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản) và phong trào giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, trong đó ông đánh giá Việt Nam là trung tâm và là tiên phong của phong trào này.[165]

Theo Lê Duẩn, ba làn sóng cách mạng này không tồn tại độc lập mà tương tác, bổ trợ và cộng hưởng thành một "sức mạnh tổng hợp của thời đại", giúp phong trào cách mạng thế giới chuyển sang thế tấn công chiến lược trước các thế lực đế quốc. Ông lập luận rằng Việt Nam là quốc gia duy nhất mà cả ba làn sóng này hội tụ đầy đủ, đặc biệt trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam. Chiến thắng của Việt Nam trong cuộc chiến với người Mỹ được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định là thắng lợi không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà còn là biểu tượng của sự thắng lợi chung của ba làn sóng cách mạng trên phạm vi toàn cầu, tạo động lực thúc đẩy các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khác và làm suy yếu hệ thống chủ nghĩa đế quốc.[166]

Sau năm 1975, lý thuyết ba làn sóng cách mạng không chỉ trở thành nền tảng tư tưởng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam, mà còn được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng rộng rãi để lý giải vai trò, vị thế quốc tế của quốc gia trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, các quốc gia thuộc thế giới thứ baphong trào không liên kết.[167] Tuy nhiên, sau Chiến tranh Lạnh và đặc biệt là từ thời kỳ Đổi mới (1986) trở đi, khái niệm này ít được nhắc đến trong các văn kiện chính thức, do bối cảnh quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam có nhiều thay đổi.[168]

Làm chủ tập thể

[sửa | sửa mã nguồn]
…Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bởi mục đích của Đảng là thiết lập chủ nghĩa xã hội, đem lại quyền làm chủ tập thể cho nhân dân lao động […] Thật vậy, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng đi đầu trong cuộc giải phóng xã hội khỏi ách áp bức dân tộc và áp bức giai cấp; chỉ có giai cấp công nhân mới tiêu biểu được cho chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, đó là giai cấp gắn liền với nền công nghiệp lớn hiện đại, mà chỉ với lực lượng sản xuất tiên tiến và hùng mạnh này thì mới cải tạo được triệt để xã hội cũ và mới thiết lập được nền tảng vật chất vững chắc cho chế độ mới…

Lê Duẩn, phát biểu tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS Việt Nam (Khóa IV), tháng 9 năm 1980.

Lê Duẩn kế thừa và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về chế độ do nhân dân làm chủ, coi đây là nền tảng tư tưởng chính trị quan trọng. Từ Đại hội lần thứ III (1960), ông đã đề cao vai trò làm chủ của nhân dân lao động. Tại Đại hội lần thứ IV, ông xác định rõ hai nhiệm vụ trọng tâm: "phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân" và "nắm vững chuyên chính vô sản thông qua việc tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và xây dựng Nhà nước vững mạnh". Theo Lê Duẩn, xây dựng chế độ làm chủ tập thể đồng nghĩa với việc kiến tạo một xã hội trong đó cộng đồng có tổ chức đóng vai trò chủ thể tối cao. Hệ thống quan hệ xã hội, theo ông, phải phản ánh đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.

Tư tưởng làm chủ tập thể của Lê Duẩn mang tính thứ bậc rõ ràng: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Ông khẳng định rằng Đảng giữ vai trò lãnh đạo tối cao, song không làm thay nhân dân hoặc tước đi quyền làm chủ của họ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng thì không thể thiết lập và duy trì chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Dù vậy, trên thực tế, Lê Duẩn tỏ ra không ủng hộ những biểu hiện của quyền làm chủ vượt ra ngoài khuôn khổ nhà nước. Trong một số trường hợp, ông phản đối các đề xuất mở rộng quyền lợi kinh tế cho nông dân. Khi một số cán bộ đề xuất tại Đại hội Đảng về việc nâng giá thu mua sản phẩm nông nghiệp để tăng thu nhập cho nông dân, Lê Duẩn đã chỉ trích gay gắt ý kiến này.[160] Đối với ông, quyền làm chủ tập thể chỉ có thể được đảm bảo trong khuôn khổ quản lý hành chính và tập quyền của nhà nước.[169]

Quan điểm này được thể chế hóa trong Hiến pháp Việt Nam 1980, nơi tư tưởng làm chủ tập thể trở thành phiên bản riêng về chủ quyền nhân dân do Lê Duẩn đề xuất. Theo hiến pháp, quyền làm chủ tập thể của nhân dân được bảo đảm trên tất cả các lĩnh vực thông qua sự tham gia vào công việc nhà nước và các tổ chức quần chúng. Trên lý thuyết, những tổ chức này đóng vai trò tích cực trong quản lý nhà nước, có quyền đề xuất dự luật trước Quốc hội.[170] Lê Duẩn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của tập thể hóa trong nông nghiệp. Theo ông, quyền sở hữu đất đai phản ánh "cuộc đấu tranh giữa hai con đường — sản xuất tập thể và sản xuất tư nhân; sản xuất xã hội chủ nghĩa quy mô lớn và sản xuất nhỏ lẻ, manh mún".[171] Từ đó, ông coi tập thể hóa là phương án tất yếu nhằm thay thế chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy sản xuất quy mô lớn.[171]

Tuy nhiên, đến cuối những năm 1970, mô hình hợp tác xã truyền thống bắt đầu bộc lộ hạn chế. Việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp dần trở thành thông lệ và được hợp pháp hóa vào năm 1981. Đối với phe bảo thủ, đây là một sự nhượng bộ, gợi nhớ đến Chính sách kinh tế mới của Vladimir Ilyich Lenin. Trong khi đó, phe cải cách lại coi chính sách khoán là phương thức thích ứng mới để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới, phá vỡ lý luận "hai con đường" mà Lê Duẩn từng khẳng định.[171] Trong thực tế lãnh đạo, Lê Duẩn cũng cho thấy sự linh hoạt nhất định khi điều chỉnh các nguyên lý giáo điều. Ông từng tuyên bố rằng Việt Nam cần "thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp ngay lập tức, ngay cả khi công nghiệp lớn chưa được xây dựng", bởi Việt Nam đang ở vào hoàn cảnh đặc biệt chưa từng có.[172] Theo ông, chìa khóa của chủ nghĩa xã hội không nằm ở công nghiệp hóa đơn thuần mà ở sự phân công lao động mới, với các hợp tác xã gắn kết chặt chẽ với khu vực kinh tế nhà nước, tạo nên nền kinh tế thống nhất dưới sự chỉ đạo của nhà nước.[173]

Trong bài diễn văn mừng chiến thắng sau cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa VI năm 1976, Lê Duẩn nhấn mạnh nhiệm vụ hoàn thiện chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thông qua việc xóa bỏ hoàn toàn sở hữu tư nhân và tàn dư của chủ nghĩa tư bản, đồng thời phát động cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.[174] Tại đây, Đảng sẽ tập trung xóa bỏ tầng lớp tư sản mại bản và những "tàn dư của giai cấp địa chủ phong kiến".[174] Thuật ngữ "tư sản mại bản" mà Lê Duẩn sử dụng để chỉ các tầng lớp làm giàu thông qua buôn bán và giao dịch với người phương Tây.[174] Tuy nhiên, ông không công khai rằng ngoài việc loại bỏ tư sản mại bản và địa chủ, chính quyền mới còn hướng tới xóa bỏ toàn bộ tầng lớp tư sản ở miền Nam.[175]

Dân tộc độc lập

[sửa | sửa mã nguồn]

Lập trường kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc thể hiện rõ trong thái độ của Lê Duẩn đối với các cường quốc. Ông từng nhấn mạnh quan điểm "không được sợ Mỹ, đồng thời không sợ cả Liên Xô và Trung Quốc".[176] Trong Chiến tranh Việt Nam, ông nhiều lần từ chối những đề nghị viện trợ có điều kiện từ Trung Quốc. Điển hình là việc ông kiên quyết bác bỏ kế hoạch đưa hai vạn quân Trung Quốc vào Việt Nam, cho rằng đây là âm mưu khống chế và xâm phạm chủ quyền.[177] Trong các cuộc gặp trực tiếp với lãnh đạo Trung Quốc, Lê Duẩn luôn giữ thái độ cứng rắn. Năm 1963, tại Vũ Hán, ông được cho là đã đáp lại Mao Trạch Đông rằng Việt Nam đã từng đánh bại quân Nguyên, Minh, Thanh và nếu cần thiết, sẽ tiếp tục đánh bại bất cứ thế lực xâm lược nào, kể cả Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[178] Tại cuộc gặp với Chu Ân Lai năm 1971, ông cũng khẳng định dứt khoát: "Việt Nam là của chúng tôi; không phải của đồng chí".[179]

Theo một số nhà nghiên cứu, Lê Duẩn có thể nhượng bộ về phương diện chiến thuật, nhưng "tuyệt đối không nhượng bộ những điều nguy hại cho an ninh quốc gia". Trong các văn kiện cuối thập niên 1970, tinh thần dân tộc này kết hợp với lý tưởng quốc tế vô sản đã trở thành nền tảng tư tưởng của Lê Duẩn. Theo Stein Tønnesson, ông luôn coi Việt Nam là dân tộc tiên phong trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời đề cao niềm tự hào dân tộc như một nguồn động lực mạnh mẽ.[180] Con trai ông, Thiếu tướng Lê Kiên Trung, cũng cho biết Lê Duẩn luôn giữ vững lập trường độc lập. Ngay cả sau chiến tranh, tên ông không xuất hiện trong các hình ảnh biểu trưng cho mối quan hệ Việt – Trung tại cửa khẩu Hữu Nghị. Theo Lê Kiên Trung, điều đó phản ánh quyết tâm của ông trong việc bảo vệ từng tấc đất lãnh thổ.[181]

Lê Duẩn được đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến lịch sử Việt Nam hiện đại, với vai trò nổi bật trên cả ba lĩnh vực chính trị, quân sự và kinh tế. Theo quan điểm chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông có đóng góp đặc biệt lớn trong việc hoạch định đường lối cách mạng miền Nam, trực tiếp chỉ đạo các chiến dịch quân sự quyết định trong Chiến tranh Việt Nam, đồng thời tham gia định hướng mô hình phát triển kinh tế sau thống nhất. Trong thời kỳ trước và trong kháng chiến chống Mỹ, Lê Duẩn được ghi nhận là người khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh vũ trang nhằm thống nhất đất nước. Năm 1956, ông soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam, văn kiện sau này trở thành cơ sở cho Nghị quyết 15 (1959), chính thức mở đường cho phong trào đấu tranh vũ trang. Theo cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, bản đề cương này được hoàn thiện ngay tại Sài Gòn. Trong cuộc kháng chiến, ông giữ vai trò chỉ đạo cao nhất đối với các chiến dịch lớn như Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).

Trong lãnh đạo, ông được cho là người gắn bó sâu sát với thực tiễn. Theo lời kể của Trần Phương, ông luôn nhấn mạnh việc đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho người dân, coi đó là nhiệm vụ cơ bản của chính quyền. Ông từng gay gắt phê phán Chính phủ khi đời sống người dân gặp khó khăn về những mặt tối thiểu như rau muống và nước sạch. Về chỉ đạo chiến tranh, nhiều cán bộ đảng đánh giá cao "sự nhạy bén và quyết đoán" của Lê Duẩn. Theo Võ Văn Kiệt, chính sự chỉ đạo kịp thời của ông sau Hiệp định Paris đã giúp quân đội Việt Nam giữ vững thế chủ động trên chiến trường. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng ghi nhận tinh thần trao đổi dân chủ và khả năng lãnh đạo quân sự của ông. Trong đời tư, Lê Duẩn được mô tả là người kín tiếng. Theo lời con trai ông, Thiếu tướng Lê Kiên Trung, ông không viết hồi ký hay giải thích nhiều về các quyết sách. Gia đình và một số đồng sự cho rằng ông là người "chịu thiệt thòi" khi ít được nhắc đến trong sử sách dù có vai trò quan trọng trong thắng lợi của cách mạng.

Kinh tế xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]
Trong thời kỳ bao cấp, việc phân phối lương thực và hàng hóa thiết yếu bằng tem phiếu (hình) trở thành phương thức chủ yếu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng các nhu yếu phẩm.

Ở lĩnh vực kinh tế, các chủ trương do Lê Duẩn đề xuất và thúc đẩy sau năm 1975, đặc biệt là mô hình kinh tế tập trung bao cấp, đã để lại nhiều tranh cãi. Ngay sau khi đất nước thống nhất, chính phủ dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà nghiên cứu như Giáo sư Đặng Phong, các chính sách làm chủ tập thể và quản lý kinh tế cấp huyện đã gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Việc phân phối lương thực và hàng hóa thiết yếu bằng tem phiếu trở nên phổ biến, gây ra tình trạng thiếu hụt trầm trọng các mặt hàng thiết yếu. Tại các đô thị lớn, hình ảnh người dân phải xếp hàng dài để mua lương thực trở thành ký ức chung của cả một thế hệ. Tình trạng suy dinh dưỡng và đói kém xảy ra phổ biến, nhất là ở các vùng nông thôn và đô thị phía Nam, dẫn tới việc Việt Nam phải nhờ vào viện trợ lương thực từ quốc tế trong giai đoạn này.

Các chính sách cải tạo xã hội, đặc biệt là cải tạo công thương nghiệp và xây dựng vùng kinh tế mới, đã dẫn đến biến động dân số quy mô lớn. Hàng trăm nghìn người thuộc diện "ngụy quân, ngụy quyền" bị đưa vào các trại cải tạo hoặc buộc phải chuyển đến các vùng kinh tế mới. Đồng thời, vào cuối những năm 1970, một làn sóng di cư lớn ra nước ngoài đã diễn ra khi hàng trăm nghìn người tìm đường vượt biên, tạo nên hiện tượng "thuyền nhân". Cuộc di cư này bao gồm nhiều thành phần xã hội: trí thức, doanh nhân, thường dân, đã góp phần làm thay đổi cấu trúc nhân khẩu học và gây ra hiện tượng "chảy máu chất xám", để lại khoảng trống về lực lượng kinh tế.

Chính sách cứng rắn của chính phủ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn đối với cộng đồng Hoa kiều giai đoạn hậu chiến để lại nhiều tác động lâu dài. Về mặt kinh tế, chính sách này đạt được mục tiêu loại bỏ đáng kể sự chi phối kinh tế của tầng lớp tư sản người Hoa, điều thường thấy tại các quốc gia lân cận như Thái Lan, Malaysia hay Indonesia. Kết quả là Việt Nam đã không hình thành một tầng lớp tài phiệt người Hoa có khả năng kiểm soát phần lớn các nguồn lực kinh tế quốc gia như ở những nước láng giềng. Xét về khía cạnh an ninh và chính trị, các biện pháp quyết liệt như quốc hữu hóa doanh nghiệp, cưỡng chế hồi hương và thúc đẩy đồng hóa văn hóa đã giúp chính quyền Việt Nam giảm bớt lo ngại về lòng trung thành chính trị của cộng đồng người Hoa, nhất là trong bối cảnh căng thẳng leo thang với Trung Quốc vào cuối thập niên 1970.

Tuy nhiên, chính sách này cũng dẫn tới những tổn thất đáng kể cả về kinh tế và đối ngoại. Việc thực hiện quốc hữu hóa tài sản của cộng đồng Hoa kiều và làn sóng di cư ồ ạt đã gây ra sự đứt gãy nghiêm trọng trong các hoạt động thương mại và phân phối hàng hóa, góp phần làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam vào thời điểm đó. Đặc biệt, các biện pháp trên đã làm gia tăng căng thẳng ngoại giao với Trung Quốc, góp phần vào nguyên nhân xảy ra cuộc Chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979, khiến Việt Nam rơi vào tình trạng bị cô lập quốc tế trong suốt một thập niên kế tiếp.[182] Về lâu dài, Việt Nam mất đi một tầng lớp doanh nhân có kinh nghiệm và tiềm lực vốn rất cần thiết cho quá trình tái thiết sau chiến tranh, tạo nên một khoảng trống kinh tế mà phải tới sau thời kỳ Đổi mới, Việt Nam mới từng bước khắc phục được.

Mặc dù vậy, ông vẫn được các học giả Việt Nam nhìn nhận là nhà lãnh đạo có "tư duy chiến lược, biết điều chỉnh quan điểm khi cần thiết". Năm 1985, chính ông là người đưa khái niệm "kinh tế nhiều thành phần" vào Nghị quyết của Bộ Chính trị, đặt nền móng cho công cuộc Đổi mới. Lê Duẩn từng bày tỏ sự ủng hộ đối với các sáng kiến đổi mới từ cơ sở, tiêu biểu như chính sách khoán hộ ở Vĩnh Phúc do Kim Ngọc khởi xướng. Dù không công khai bảo vệ, ông được cho là đã thể hiện sự đồng tình và tiếc nuối khi sáng kiến này bị đình chỉ. Theo trợ lý Đậu Ngọc Xuân, Lê Duẩn từng trực tiếp thăm hỏi và động viên Kim Ngọc. Tuy nhiên, các cải cách kinh tế được thực hiện hạn chế vào những năm 1981–1985 không đủ để đảo ngược tình thế. Đến khi ông qua đời năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng, đặt ra yêu cầu cấp thiết về đổi mới, dẫn đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI vào cuối năm 1986 với chủ trương "Đổi mới toàn diện".[182]

Cước chú

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Khóa sinh": Học trò chữ Nho đã đậu kỳ thi sát hạch ở địa phương trong chế độ thi cử cũ.
  2. ^ Khoá học năm 1924–1925, Trường Quốc học Huế cho tuyển 20 học sinh. Những ai đỗ từ thứ 21 đến thứ 24 sẽ được học dự thính khoảng 6 tháng. Sau 6 tháng, nếu trong số 20 học sinh thi đỗ chính thức không ai đau ốm hoặc vì lý do chính trị buộc phải thôi học thì những học sinh dự thính cũng sẽ buộc phải nghỉ học.[9]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tønnesson & Goscha (2007), tr. 457.
  2. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 4.
  3. ^ a b c Shane-Armstrong (2003), tr. 216.
  4. ^ Nguyễn Liên Hằng (2012), tr. 54.
  5. ^ Nguyễn Liên Hằng (2017).
  6. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 5.
  7. ^ a b Nhiều tác giả (2007), tr. 6.
  8. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 7.
  9. ^ a b Nhiều tác giả (2007), tr. 8.
  10. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 7–8.
  11. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 9.
  12. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 10.
  13. ^ a b Nhiều tác giả (2007), tr. 11.
  14. ^ Tucker (2011), tr. 637.
  15. ^ Currey (2005), tr. 229.
  16. ^ Sawinski (2001), tr. 211.
  17. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 12.
  18. ^ a b c d Nhiều tác giả (2007), tr. 13.
  19. ^ Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 3.
  20. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 30-31.
  21. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 32.
  22. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 34.
  23. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 35–38.
  24. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 47.
  25. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 48.
  26. ^ Honey (1962), tr. 26.
  27. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 50.
  28. ^ Devillers (1962), tr. 17.
  29. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 56, 58.
  30. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 56.
  31. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 57.
  32. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 58–59.
  33. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 58.
  34. ^ Lê Doãn Tá (2022).
  35. ^ Devillers (1962), tr. 18.
  36. ^ Honey (1962), tr. 32.
  37. ^ Honey (1962), tr. 29.
  38. ^ a b Brocheux (2007), tr. 174.
  39. ^ a b Ang (2002), tr. 10.
  40. ^ Brocheux (2007), tr. 170.
  41. ^ Roberts (2006), tr. 482.
  42. ^ Woods (2002), tr. 74.
  43. ^ Trung (2002), tr. 54.
  44. ^ Van & Cooper (1983), tr. 69.
  45. ^ a b c Balazs (2010).
  46. ^ Van & Cooper (1983), tr. 70–71.
  47. ^ Van & Cooper (1983), tr. 71–72.
  48. ^ Rothrock (2006), tr. 55–56.
  49. ^ Rothrock (2006), tr. 70.
  50. ^ Jones (2003), tr. 213.
  51. ^ Jones (2003), tr. 240.
  52. ^ a b Duiker (1994), tr. 357.
  53. ^ Nguyễn Liên Hằng (2006), tr. 27.
  54. ^ Karnow (1991), tr. 544–55.
  55. ^ Hoàng Ngọc Lung (1978), tr. 98-108.
  56. ^ Roberts (2006), tr. 33.
  57. ^ Rothrock (2006), tr. 354.
  58. ^ Christie (1998), tr. 291.
  59. ^ Sagan & Denney (1982).
  60. ^ a b JCSA & SSRC (1988), tr. 2.
  61. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 3.
  62. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 1.
  63. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 1–2.
  64. ^ a b JCSA & SSRC (1988), tr. 88.
  65. ^ Van & Cooper (1983), tr. 62.
  66. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 82.
  67. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 78.
  68. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 79–80.
  69. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 80.
  70. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 81, 87.
  71. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 81.
  72. ^ Võ (1990), tr. 81.
  73. ^ St. John (2006), tr. 45.
  74. ^ a b c JCSA & SSRC (1988), tr. 5.
  75. ^ St. John (2006), tr. 48.
  76. ^ Võ (1990), tr. 107.
  77. ^ Tretiak (1979).
  78. ^ Evans & Rowley (1984), tr. 49.
  79. ^ a b Chanda (1986), tr. 239.
  80. ^ Evans & Rowley (1984), tr. 53.
  81. ^ Evans & Rowley (1984), tr. 54.
  82. ^ Wang (2024), tr. 94.
  83. ^ Wang (2024), tr. 95.
  84. ^ Wang (2024), tr. 93.
  85. ^ Evans & Rowley (1984), tr. 50.
  86. ^ Ngô Vĩnh Long (2025), tr. 307.
  87. ^ Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 5.
  88. ^ a b Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 6.
  89. ^ Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 6–8.
  90. ^ a b Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 10.
  91. ^ a b Werner (2015), tr. 40.
  92. ^ Werner (2015), tr. 40–41.
  93. ^ Werner (2015), tr. 41.
  94. ^ Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 10–11.
  95. ^ Đỗ Quang Hưng (2013), tr. 11.
  96. ^ Chanda (1986), tr. 185.
  97. ^ Van & Cooper (1983), tr. 227–228.
  98. ^ Chanda (1986), tr. 186.
  99. ^ a b Van & Cooper (1983), tr. 228.
  100. ^ Chanda (1986), tr. 245.
  101. ^ a b Europa Publications (2002), tr. 1419–1420.
  102. ^ Van & Cooper (1983), tr. 229.
  103. ^ Trung (1982), tr. 242.
  104. ^ Trung (1982), tr. 243.
  105. ^ Trung (1982), tr. 244.
  106. ^ Van & Cooper (1983), tr. 230.
  107. ^ Zemtsov & Farrar (2007), tr. 277.
  108. ^ Zemtsov & Farrar (2007), tr. 291.
  109. ^ Khoo (2011), tr. 34–35.
  110. ^ Chanda (1986), tr. 238.
  111. ^ Khoo (2011), tr. 69–70.
  112. ^ Khoo (2011), tr. 97.
  113. ^ Khoo (2011), tr. 98.
  114. ^ Ang (2016), tr. 87.
  115. ^ Khoo (2011), tr. 117.
  116. ^ Khoo (2011), tr. 118.
  117. ^ Khoo (2011), tr. 100.
  118. ^ Khoo (2011), tr. 119.
  119. ^ Khoo (2011), tr. 123.
  120. ^ Ang (2016), tr. 88.
  121. ^ Võ (1990), tr. 98.
  122. ^ a b Quinn-Judge (2006), tr. 166.
  123. ^ a b c Morris (1999), tr. 96.
  124. ^ Morris (1999), tr. 97.
  125. ^ Morris (1999), tr. 93.
  126. ^ Morris (1999), tr. 94.
  127. ^ Morris (1999), tr. 95.
  128. ^ Mosyakov (2017), tr. 66.
  129. ^ Mosyakov (2017), tr. 67.
  130. ^ a b Morris (1999), tr. 98.
  131. ^ Path (2020), tr. 19–21.
  132. ^ Path (2020), tr. 61.
  133. ^ Morris (1999), tr. 99.
  134. ^ a b Morris (1999), tr. 100.
  135. ^ a b Morris (1999), tr. 102.
  136. ^ Morris (1999), tr. 103.
  137. ^ a b Morris (1999), tr. 105.
  138. ^ Morris (1999), tr. 106–107.
  139. ^ Morris (1999), tr. 108.
  140. ^ Morris (1999), tr. 109.
  141. ^ Morris (1999), tr. 110.
  142. ^ a b Viện Smithsonian (2017), tr. 341.
  143. ^ a b c Morris (1999), tr. 111.
  144. ^ Swann (2009), tr. 108.
  145. ^ a b c Ang (2016), tr. 89.
  146. ^ Chanda (1986), tr. 328.
  147. ^ Chanda (1986), tr. 325.
  148. ^ Chanda (1986), tr. 357.
  149. ^ Chen (1987), tr. 114.
  150. ^ Ang (2016), tr. 90.
  151. ^ TIME (1979)
  152. ^ Ang (2016), tr. 91.
  153. ^ Van & Cooper (1983), tr. 64.
  154. ^ Trung (1982), tr. 237–238.
  155. ^ Trung (1982), tr. 239–240.
  156. ^ Trung (1982), tr. 240–241.
  157. ^ Stern (1987), tr. 350.
  158. ^ Corfield (2008), tr. 111–112.
  159. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 17.
  160. ^ a b c JCSA & SSRC (1988), tr. 140.
  161. ^ Võ (1990), tr. 63.
  162. ^ Trần Đại Quang (2017).
  163. ^ Đỗ Diệu Khuê (2022), tr. 271.
  164. ^ Đỗ Diệu Khuê (2022), tr. 282, 284.
  165. ^ Đỗ Diệu Khuê (2022), tr. 282.
  166. ^ Đỗ Diệu Khuê (2022), tr. 285.
  167. ^ Đỗ Diệu Khuê (2022), tr. 292.
  168. ^ Đỗ Diệu Khuê (2022), tr. 297–98.
  169. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 141–142.
  170. ^ Public Domain Bài này có sử dụng tư liệu từ các nguồn có bản quyền thuộc về công chúng. Cima, Ronald J. (tháng 12 năm 1987). Vietnam: A Country Study. Federal Research Division. Constitutional Evolution.
  171. ^ a b c JCSA & SSRC (1988), tr. 141.
  172. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 137.
  173. ^ JCSA & SSRC (1988), tr. 138.
  174. ^ a b c Van & Cooper (1983), tr. 25.
  175. ^ Van & Cooper (1983), tr. 26.
  176. ^ Tuyết Nhung (2023).
  177. ^ Tønnesson & Goscha (2007), tr. 467–69.
  178. ^ Tønnesson & Goscha (2007), tr. 464.
  179. ^ Tønnesson & Goscha (2007), tr. 465.
  180. ^ Tønnesson & Goscha (2007), tr. 455–60.
  181. ^ Lê Kiên Trung (2014).
  182. ^ a b Grossman, Curriden & Huynh (2019), § What Prompted Doi Moi?.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nhiều tác giả (2007). Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Lê Duẩn Tiểu sử (PDF). Hà Nội: Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật.
  • Lê Minh Nghĩa; Đống Ngạc; Đức Lượng; và đồng nghiệp (2007). Lê Duẩn Tuyển tập (Tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật.
  • Lê Minh Nghĩa; Đống Ngạc; Đức Lượng; và đồng nghiệp (2007). Lê Duẩn Tuyển tập (Tập 2). Hà Nội: Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật.
  • Lê Minh Nghĩa; Đống Ngạc; Đức Lượng; và đồng nghiệp (2007). Lê Duẩn Tuyển tập (Tập 3). Hà Nội: Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật.

Ngoại ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ang, Cheng Guan (1997). Vietnamese Communists' Relations with China and the Second Indochina Conflict, 1956–1962 [Quan hệ của những người cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956–1962] (bằng tiếng Anh). McFarland & Company. ISBN 9780786404049.
  • Ang, Cheng Guan (2002). The Vietnam War From the Other Side: The Vietnamese Communists' Perspective [Chiến tranh Việt Nam từ phía bên kia: Góc nhìn của những người cộng sản Việt Nam] (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 9780700716159.
  • Ang, Cheng Guan (2016). "China's Influence Over Vietnam in War and Peace" [Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam trong chiến tranh và hòa bình]. Trong Goh, Evelyn (biên tập). Rising China's Influence in Developing Asia [Ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc tại châu Á đang phát triển] (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. doi:10.1093/acprof:oso/9780198758518.003.0004. ISBN 978-0-19-875851-8. OCLC 1066410382.
  • Brocheux, Pierre (2007). Ho Chi Minh: a Biography [Hồ Chí Minh: Tiểu sử] (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. ISBN 978-1107622265.
  • Chanda, Nayan (1986). Brother Enemy: The War After the War [Anh Em Thù Địch: Chiến tranh Sau Chiến Tranh] (bằng tiếng Anh). San Diego: Harcourt Brace Jovanovich. ISBN 978-0-15-114420-4.
  • Chen, King (1987). China's War With Vietnam, 1979: Issues, Decisions and Implications [Cuộc chiến Trung Quốc với Việt Nam năm 1979: Các vấn đề, quyết định và hệ quả] (bằng tiếng Anh). Hoover Press. ISBN 9780817985721.
  • Christie, Clive J. (1998). Southeast Asia in the Twentieth Century: a Reader [Đông Nam Á trong thế kỷ XX: Tuyển tập] (bằng tiếng Anh). I.B. Tauris. ISBN 9781860640636.
  • Corfield, Justin (2008). The History of Vietnam [Lịch sử Việt Nam] (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. ISBN 9780313341946.
  • Currey, Cecil B. (2005). Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam's Gen. Vo Nguyen Giap [Chiến thắng bằng mọi giá: Thiên tài của Đại tướng Võ Nguyên Giáp] (bằng tiếng Anh). Potomac Books, Inc. ISBN 9781612340104.
  • Duiker, William J. (1994). U.S. Containment Policy and the Conflict in Indochina [Chính sách kiềm chế của Hoa Kỳ và cuộc xung đột ở Đông Dương] (bằng tiếng Anh). Stanford University Press. ISBN 9780804722834.
  • Đỗ Diệu Khuê (2022). "Victory of the aggregate strength of the era: Lê Duẩn, Vietnam and the three revolutionary tidal waves" [Chiến thắng của sức mạnh tổng hợp thời đại: Lê Duẩn, Việt Nam và ba làn sóng cách mạng lịch sử]. Trong Galway, Matthew; Oper, Marc H. (biên tập). Experiments with Marxism-Leninism in Cold War Southeast Asia [Những thử nghiệm với chủ nghĩa Marx-Lenin ở Đông Nam Á thời Chiến tranh Lạnh] (ấn bản thứ 1). ANU Press. tr. 271–298. ISBN 978-1-76046-529-2.
  • Europa Publications (2002). Far East and Australasia [Viễn Đông và Châu Úc] (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 9781857431339.
  • Evans, Grant; Rowley, Kelvin (1984). Red brotherhood at war: Indochina since the fall of Saigon [Tình anh em đỏ trong chiến tranh: Đông Dương kể từ sau khi Sài Gòn thất thủ] (bằng tiếng Anh). London: Verso. ISBN 978-0-86091-090-9.
  • Hoàng Ngọc Lung (1978). The General Offensives of 1968–69 [Các cuộc tổng tấn công năm 1968–1969] (bằng tiếng Anh). General Research Corporation. tr. 98–108. ASIN B003TFDXYI.
  • Joint Committee on Southeast Asia of the American Council of Learned Societies; Social Science Research Council (1988). Postwar Vietnam: Dilemmas in Socialist Development [Việt Nam hậu chiến: Những nan giải trong phát triển xã hội chủ nghĩa] (bằng tiếng Anh). Southeast Asia Program Publications. ISBN 9780877271208.
  • Jones, Howard (2003). Death of a Generation: How the Assassinations of Diem and JFK prolonged the Vietnam War [Cái chết của một thế hệ: Hai vụ ám sát Diệm và JFK kéo dài cuộc chiến tranh Việt Nam như thế nào] (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN 9780195052862.
  • Karnow, Stanley (1991). Vietnam: A History [Việt Nam: Một lịch sử] (bằng tiếng Anh). Penguin. ISBN 978-0670842186.
  • Khoo, Nicholas (2011). Collateral Damage: Sino–Soviet Rivalry and the Termination of the Sino–Vietnamese Alliance [Tổn thất phụ: Sự kình địch Trung–Xô và chấm dứt liên minh Trung–Việt] (bằng tiếng Anh). Columbia University Press. ISBN 9780231150781.
  • Mosyakov, Dmitry (2017). "The Khmer Rouge and the Vietnamese Communists: A History of Their Relations as Told in the Soviet Archives" [Khmer Đỏ và những người cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ qua các tài liệu lưu trữ Liên Xô]. Trong Cook, Susan E. (biên tập). Genocide in Cambodia and Rwanda [Diệt chủng ở Campuchia và Rwanda] (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 1). Routledge. tr. 41–72. ISBN 978-0-203-79084-7.
  • Ngô Vĩnh Long (2025). "Vietnam after "Liberation"" [Việt Nam sau “Giải phóng”]. Trong Nguyễn Liên Hằng (biên tập). The Cambridge History of the Vietnam War: Volume 3: Endings and Aftermaths [Lịch sử chiến tranh Việt Nam của Cambridge: Tập 3: Kết thúc và hậu quả] (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 299–312. ISBN 978-1-107-10512-6.
  • Nguyễn Liên Hằng (2012). Hanoi's War [Cuộc chiến của Hà Nội] (bằng tiếng Anh). University of North Carolina Press. ISBN 9780807882696.
  • Lomperis, Timothy J. (1996). From People's War to People's Rule: Insurgency, Intervention and the Lessons of Vietnam [Từ chiến tranh nhân dân đến quyền lực nhân dân: Cuộc nổi dậy, can thiệp và bài học từ Việt Nam] (bằng tiếng Anh). University of North Carolina Press. ISBN 9780807845776.
  • Morris, Stephen J. (1999). Why Vietnam invaded Cambodia: Political Culture and Causes of War [Vì sao Việt Nam xâm lược Campuchia: Văn hóa chính trị và nguyên nhân chiến tranh] (bằng tiếng Anh). Chicago: Stanford University Press. ISBN 978-0-8047-3049-5.
  • Ooi, Keat Gin (2004). Southeast Asia: a Historical Encyclopedia, from Angkor Wat to East Timor [Đông Nam Á: Bách khoa toàn thư lịch sử, từ Angkor Wat đến Đông Timor] (bằng tiếng Anh). Quyển 2. ABC-CLIO. ISBN 9781576077702.
  • Quinn-Judge, Sophie (2006). Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919–1941 [Hồ Chí Minh: Những năm tháng mất tích, 1919–1941] (bằng tiếng Anh). University of California Press. ISBN 9780520235335.
  • Kiernan, Ben (2006). "External and Indigenous Sources of Khmer Rouge Ideology". Trong Westad, Odd A.; Sophie (biên tập). The Third Indochina War: Conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972–79 [Cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba: Xung đột giữa Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia, 1972–1979] (bằng tiếng Anh). New York: Routledge. ISBN 978-0-415-39058-3.
  • Roberts, Priscilla Mary (2006). Behind the Bamboo Curtain: China, Vietnam and the World Beyond Asia [Sau bức màn tre: Trung Quốc, Việt Nam và thế giới ngoài châu Á] (bằng tiếng Anh). Stanford University Press. ISBN 9780804755023.
  • Rothrock, James (2006). Divided We Fall: How Disunity Leads to Defeat [Chia rẽ tất bại: Sự bất hòa dẫn đến thất bại như thế nào] (bằng tiếng Anh). AuthorHouse. ISBN 9781425911072.
  • Path, Kosal (2020). Vietnam's Strategic Thinking During the Third Indochina War [Tư duy chiến lược của Việt Nam trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba] (bằng tiếng Anh). Madison, Wisconsin: University of Wisconsin Press. ISBN 978-0-299-32270-0. JSTOR j.ctvvsqc44. OCLC 1141125016.
  • Sawinski, Diane M. (2001). Vietnam War: Biographies [Chiến tranh Việt Nam: Tiểu sử] (bằng tiếng Anh). U.X.L. ISBN 9780787648862.
  • Shane-Armstrong, R. (2003). The Vietnam War [Chiến tranh Việt Nam] (bằng tiếng Anh). University of Wisconsin. ISBN 9780737714333.* St. John, Ronald Bruce (2006). Revolution, Reform and Regionalism in Southeast Asia: Cambodia, Laos and Vietnam [Cách mạng, cải cách và chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á: Campuchia, Lào và Việt Nam] (bằng tiếng Anh). Taylor & Francis. ISBN 9780415701846.
  • Swann, Wim (2009). 21st Century Cambodia: View and Vision [Campuchia thế kỷ XXI: Góc nhìn và viễn cảnh] (bằng tiếng Anh). Global Vision Publishing House. ISBN 978-81-8220-278-8.
  • Tønnesson, Stein; Goscha, Christopher E. (2007). "Le Duan and the Break with China". Trong Roberts, Priscilla (biên tập). Behind the Bamboo Curtain: China, Vietnam, and the World beyond Asia [Sau bức màn tre: Trung Quốc, Việt Nam và thế giới ngoài châu Á] (bằng tiếng Anh). Chicago, IL: Stanford University Press. doi:10.1515/9781503626218. ISBN 978-1-5036-2621-8.
  • Trung, Thai Quang (2002). Collective Leadership and Factionalism: an Essay on Ho Chi Minh's Legacy [Lãnh đạo tập thể và bè phái: Một bài luận về di sản của Hồ Chí Minh] (bằng tiếng Anh). Institute of Southeast Asian Studies. ISBN 9789971988012.
  • Tucker, Spencer C. (2011). The Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social and Military History [Bách khoa toàn thư chiến tranh Việt Nam: Lịch sử chính trị, xã hội và quân sự] (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. ISBN 9781851099610.
  • Van, Canh Nguyen; Cooper, Earle (1983). Vietnam under Communism, 1975–1982 [Việt Nam dưới chế độ cộng sản, 1975–1982] (bằng tiếng Anh). Hoover Press. ISBN 9780817978518.
  • Viện Smithsonian (2017). The Vietnam War: The Definitive Illustrated History [Chiến tranh Việt Nam: Lịch sử minh họa toàn diện] (bằng tiếng Anh). New York: Dorling Kindersley Limited. ISBN 978-0-241-48718-1. OCLC 975027182.
  • Võ, Nhân Trí (1990). Vietnam's Economic Policy since 1975 [Chính sách kinh tế của Việt Nam từ năm 1975] (bằng tiếng Anh). Institute of Southeast Asian Studies. ISBN 9789813035546.
  • Wang, Frances Yaping (2024). The Art of State Persuasion: China's Strategic Use of Media in Interstate Disputes [Nghệ thuật thuyết phục của nhà nước: Cách Trung Quốc sử dụng truyền thông trong các tranh chấp liên quốc gia] (bằng tiếng Anh). Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 978-0-19-775751-2.
  • Werner, Jayne S. (2015). "God and the Vietnamese Revolution: Religious Organizations in the Emergence of Today's Vietnam" [Thượng đế và cách mạng Việt Nam: Các tổ chức tôn giáo trong sự hình thành Việt Nam ngày nay]. Trong Ngo, T. Tam; Quijada, Justine B. (biên tập). Atheist Secularism and its Discontents: A Comparative Study of Religion and Communism in Eurasia [Chủ nghĩa thế tục vô thần và những bất mãn: Nghiên cứu so sánh về tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản tại Á – Âu] (bằng tiếng Anh). London: Palgrave Macmillan. tr. 29–53. doi:10.1057/9781137438386. ISBN 978-1-137-43838-6.
  • Woods, L. Shelton (2002). Vietnam: a Global Studies Handbook [Việt Nam: Sổ tay nghiên cứu toàn cầu] (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. ISBN 9781576074169.
  • Zemtsov, Ilya; Farrar, John (2007). Gorbachev: The Man and the System [Gorbachev: Con người và hệ thống] (bằng tiếng Anh). Transaction Publishers. ISBN 9781412807173.

Tạp chí nghiên cứu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Burton, Bruce (1979). "Contending Explanations of the 1979 Sino-Vietnamese War" [Những cách giải thích đối lập về cuộc chiến tranh Trung–Việt năm 1979]. International Journal (bằng tiếng Anh). 34 (4). Sage Publications: 699–722. doi:10.2307/40201820. ISSN 0020-7020.
  • Chang, Pao-Min (1982). "Peking, Hanoi, and the Ethnic Chinese of Vietnam" [Bắc Kinh, Hà Nội và người Hoa ở Việt Nam]. Asian Affairs (bằng tiếng Anh). 9 (4). Taylor & Francis: 195–207. ISSN 0092-7678.
  • Đỗ Quang Hưng (2013). "Lê Duẩn và thế giới tôn giáo". Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (4). Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam: 3–11. ISSN 1859-0403.
  • Devillers, Philippe (tháng 3 năm 1962). "The Struggle for the Unification of Vietnam" [Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước Việt Nam]. The China Quarterly (bằng tiếng Anh). 9: 2–23. doi:10.1017/S0305741000025182.
  • Honey, P. J. (tháng 3 năm 1962). "The Position of the DRV Leadership and the Succession to Ho Chi Minh" [Vị thế của ban lãnh đạo VNDCCH và vấn đề kế nhiệm Hồ Chí Minh]. The China Quarterly (bằng tiếng Anh). 9: 24–36. doi:10.1017/S0305741000025194. ISSN 1468-2648.
  • Lüthi, Lorenz M. (2009). "Beyond Betrayal: Beijing, Moscow, and the Paris Negotiations, 1971–1973" [Hơn cả phản bội: Bắc Kinh, Moskva và các cuộc đàm phán Paris, 1971–1973]. Journal of Cold War Studies (bằng tiếng Anh). 11 (1). The MIT Press: 57–107. ISSN 1520-3972.
  • Nguyễn Liên Hằng (2006). "The War Politburo: North Vietnam's Diplomatic and Political Road to the Tet Offensive" [Bộ Chính trị thời chiến: Con đường ngoại giao và chính trị của miền Bắc Việt Nam dẫn tới Tổng tiến công Tết Mậu Thân]. Journal of Vietnamese Studies (bằng tiếng Anh). 1 (1–2). doi:10.1525/vs.2006.1.1-2.4.
  • Nguyễn Xuân Thắng (tháng 4 năm 2017). "Đồng chí Lê Duẩn – Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng" (PDF). Tạp chí Cộng sản (894). Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: 26–31. ISSN 2734-9063.
  • Mạch Quang Thắng (ngày 22 tháng 2 năm 2017). "Đồng chí Lê Duẩn – Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh" (PDF). Tạp chí Lý luận Chính trị (2). Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: 97–100. ISSN 2734-9063.
  • Path, Kosal (2012). "China's Economic Sanctions against Vietnam, 1975—1978" [Các biện pháp trừng phạt kinh tế của Trung Quốc đối với Việt Nam, 1975—1978]. The China Quarterly (bằng tiếng Anh) (212). Cambridge University Press: 1040–1058. ISSN 0305-7410.
  • Stern, Lewis M. (1987). "The Vietnamese Communist Party in 1986: Party Reform Initiatives, the Scramble towards Economic Revitalization and the Road to the Sixth National Congress" [Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986: Các sáng kiến cải tổ, cuộc chạy đua phục hồi kinh tế và con đường tới Đại hội VI]. Southeast Asian Affairs (bằng tiếng Anh). 4 (1). Institute of Southeast Asian Studies: 345–363. JSTOR 27908584.
  • Tran, Quan Tue (2012). "Remembering the Boat People Exodus: A Tale of Two Memorials" [Tưởng nhớ cuộc di cư của thuyền nhân: Câu chuyện về hai đài tưởng niệm]. Journal of Vietnamese Studies (bằng tiếng Anh). 7 (3). University of California Press: 80–121. doi:10.1525/vs.2012.7.3.80. ISSN 1559-372X.
  • Tretiak, Daniel (1979). "China's Vietnam War and Its Consequences" [Cuộc chiến tranh Việt Nam của Trung Quốc và những hệ quả]. The China Quarterly (bằng tiếng Anh). 80 (80). Cambridge University Press: 740–767. doi:10.1017/S0305741000046038. JSTOR 653041. S2CID 154494165.
  • Trung, Thai Quang (tháng 9 năm 1982). "The Fifth Congress of the Vietnamese Communist Party" [Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam]. Contemporary Southeast Asia (bằng tiếng Anh). 4 (1). Institute of Southeast Asian Studies: 236–245. JSTOR 25797712.
  • van der Kroeff, Justus M. (1979). "The Vietnamese Refugee Problem" [Vấn đề người tị nạn Việt Nam]. World Affairs (bằng tiếng Anh). 142 (1). Wiley: 3–16. ISSN 0043-8200.

Trực tuyến

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Anh

[sửa | sửa mã nguồn]