Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trung Kỳ”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 58: | Dòng 58: | ||
Pháp thiết lập một văn phòng đại diện ngoại giao tại Huế từ giữa năm 1875. Tháng 4 năm 1876 ([[Tự Đức]] 28), trụ sở tòa Đại diện Ngoại giao được khởi công xây dựng và hoàn thành vào tháng 7 năm 1878. Nhân viên đứng đầu được gọi là Đại diện Ngoại giao (''Chargés d'Affaires''). |
Pháp thiết lập một văn phòng đại diện ngoại giao tại Huế từ giữa năm 1875. Tháng 4 năm 1876 ([[Tự Đức]] 28), trụ sở tòa Đại diện Ngoại giao được khởi công xây dựng và hoàn thành vào tháng 7 năm 1878. Nhân viên đứng đầu được gọi là Đại diện Ngoại giao (''Chargés d'Affaires''). |
||
Sau [[hòa ước Quý Mùi, 1883|hiệp ước Harmand]] ký ngày [[25 tháng 8]] năm [[1883]], Đại diện Ngoại giao đổi thành [[Công sứ]] (''Résident'') tại [[Huế]] thay mặt cho chính quyền bảo hộ của Pháp tại Trung Kỳ. Năm 1885, chính phủ Pháp đặt ra "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (''Résident général de l'Annam et du Tonkin''), còn gọi là Tổng sứ, thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Quyền hành của Toàn quyền Lưỡng kỳ ngang với [[Thống đốc Nam Kỳ]] và độc lập đối với Thống đốc Nam Kỳ. Toàn quyền Lưỡng kỳ nắm mọi quyền dân sự, quân sự, chủ trì, mọi quan hệ đối ngoại của Nam triều và mọi quan hệ giữa giới cầm quyền Pháp và Nam Kỳ. Dưới quyền trực tiếp của Toàn quyền Lưỡng kỳ là một hệ thống quan lại thực dân Pháp giúp việc: đứng đầu Bắc Kỳ là Thống sứ Bắc Kỳ (''Résident supérieur du Tonkin''); đứng đầu Trung Kỳ là Khâm sứ Trung Kỳ (''Résident supérieur de l’Annam'') và đứng đầu mỗi tỉnh ở cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Công sứ (Résident) và Phó sứ (Résident adjoint). |
Sau [[hòa ước Quý Mùi, 1883|hiệp ước Harmand]] ký ngày [[25 tháng 8]] năm [[1883]], Đại diện Ngoại giao đổi thành [[Công sứ]] (''Résident'') tại [[Huế]] thay mặt cho chính quyền bảo hộ của Pháp tại Trung Kỳ. Năm 1885, chính phủ Pháp đặt ra "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (''Résident général de l'Annam et du Tonkin''), còn gọi là Tổng Trú sứ hay Tổng sứ, thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Quyền hành của Toàn quyền Lưỡng kỳ ngang với [[Thống đốc Nam Kỳ]] và độc lập đối với Thống đốc Nam Kỳ. Toàn quyền Lưỡng kỳ nắm mọi quyền dân sự, quân sự, chủ trì, mọi quan hệ đối ngoại của Nam triều và mọi quan hệ giữa giới cầm quyền Pháp và Nam Kỳ. Dưới quyền trực tiếp của Toàn quyền Lưỡng kỳ là một hệ thống quan lại thực dân Pháp giúp việc: đứng đầu Bắc Kỳ là Thống sứ Bắc Kỳ (''Résident supérieur du Tonkin''); đứng đầu Trung Kỳ là Khâm sứ Trung Kỳ (''Résident supérieur de l’Annam'') và đứng đầu mỗi tỉnh ở cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Công sứ (Résident) và Phó sứ (Résident adjoint). |
||
Chức Tổng Trú sứ bị bãi bỏ năm [[1889]], chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (''Résident supérieur d'Annam''), còn được gọi là Đại trú sứ, được đặt ra để đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều. |
Chức Tổng Trú sứ bị bãi bỏ năm [[1889]], chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (''Résident supérieur d'Annam''), còn được gọi là Đại trú sứ, được đặt ra để đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều. |
Phiên bản lúc 03:42, ngày 23 tháng 2 năm 2018
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
中圻
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
1884–1945 1945–1949 | |||||||||||||
Quốc kỳ | |||||||||||||
Trung Kỳ nằm ở miền trung Việt Nam (màu vàng) | |||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||
Vị thế | Xứ bảo hộ của Pháp; lãnh thổ của Liên bang Đông Dương | ||||||||||||
Thủ đô | Huế | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Pháp, Tiếng Việt | ||||||||||||
Tôn giáo chính | Phật giáo, Nho giáo | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
• Thành lập | 1884 | ||||||||||||
• Giải thể | 1949 | ||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Đồng bạc Đông Dương | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Việt Nam |
Trung Kỳ (chữ Hán: 中圻) là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra cho phần giữa của Việt Nam năm 1834. Người Pháp sau khi chiếm toàn bộ Việt Nam năm 1884, đã đặt Trung Kỳ thành một xứ bảo hộ nằm trong Đông Dương thuộc Pháp, và gọi là Đế quốc An Nam. Trung Kỳ là một trong ba kỳ tạo nên nước Việt Nam. Sau khi Việt Nam giành được độc lập (1945), tên gọi này được thay bằng tên gọi Trung Bộ. Việt Nam Cộng hòa thì thay bằng tên gọi Trung phần (để chỉ phần đất Trung Kỳ thuộc Việt Nam Cộng hòa).
Lịch sử
Trung Kỳ thời nhà Nguyễn độc lập thì tâm điểm là kinh thành Huế, tức phủ Thừa Thiên (承天) do triều đình trực tiếp quản lý. Năm tỉnh phía bắc Huế gọi là Hữu Kỳ:
- Thanh Hóa (清化),
- Nghệ An (乂安),
- Hà Tĩnh (河靜),
- Quảng Bình (廣平),
- Quảng Trị (廣治)).
Và sáu tỉnh phía nam, gọi là Tả Kỳ gồm:
- Quảng Nam (廣南),
- Quảng Ngãi (廣義),
- Bình Định (平定),
- Phú Yên (富安),
- Khánh Hòa (慶和), và
- Bình Thuận (平順)).
Nhà Nguyễn đặt ra chức tổng đốc quản hạt từ 2 đến 3 tỉnh. Các tỉnh Trung Kỳ thường đặt dưới quyền quản hạt của 6 vị tổng đốc (thường là tổng đốc Thanh Hóa, tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), tổng đốc Bình-Trị (Quảng Bình và Quảng Trị), tổng đốc Nam-Ngãi (Quảng Nam và Quảng Ngãi), tổng đốc Bình-Phú (Bình Định và Phú Yên), tổng đốc Thuận-Khánh (Bình Thuận và Khánh Hòa)), và 1 vị phủ doãn phủ Thừa Thiên. Đứng đầu mỗi tỉnh Trung Kỳ, cũng giống toàn bộ 30 tỉnh trong cả nước (trừ phủ Thừa Thiên), đều là một viên quan tuần phủ. Cương vực Trung Kỳ thời nhà Nguyễn bao gồm cả những phần đất nay thuộc về lãnh thổ Lào (là những vùng đất thuộc địa giới các tỉnh bắc Trung Kỳ từ Thanh Hóa đến Quảng Trị) và 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (chưa phân biệt rõ ràng và trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Nhưng Trung Kỳ không bao gồm Tây Nguyên. Đà Nẵng và Ninh Thuận ngày nay, vào thời nhà Nguyễn đã nằm trong Trung Kỳ nhưng thuộc địa giới của 2 tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận (Đà Nẵng thuộc Quảng Nam, Ninh Thuận thuộc Bình Thuận). Trừ 3 tỉnh bắc Trung Kỳ là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh (là đất của người Việt cổ), thì phần lớn còn lại của Trung Kỳ (từ đèo Ngang đến hết Bình Thuận) từng là đất đai của vương quốc Chăm Pa.
Theo hiệp ước Harmand ký ngày 25 tháng 8 năm 1883 thì Trung Kỳ (tiếng Pháp gọi là Annam) kéo dài từ địa giới phía bắc tỉnh Bình Thuận đến Đèo Ngang (tức là tách 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía bắc và tỉnh Bình Thuận ở phía nam ra khỏi Trung Kỳ (An Nam)). Pháp đặt một viên Công sứ (Résident) tại Huế thay mặt cho chính quyền bảo hộ của Pháp tại Trung Kỳ. Hiệp ước Patenôtre ký ngày 6 tháng 6 năm 1884 quy định lại ranh giới Trung Kỳ: từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở ra đến địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình (như trước năm 1883). Thực dân Pháp đặt chức "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (Résident général de l'Annam et du Tonkin), gọi tắt là Tổng sứ,thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Chức Tổng sứ bị bãi bỏ năm 1889, Khâm sứ Trung Kỳ đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều.
Danh sách các khâm sứ Trung Kỳ
Pháp thiết lập một văn phòng đại diện ngoại giao tại Huế từ giữa năm 1875. Tháng 4 năm 1876 (Tự Đức 28), trụ sở tòa Đại diện Ngoại giao được khởi công xây dựng và hoàn thành vào tháng 7 năm 1878. Nhân viên đứng đầu được gọi là Đại diện Ngoại giao (Chargés d'Affaires).
Sau hiệp ước Harmand ký ngày 25 tháng 8 năm 1883, Đại diện Ngoại giao đổi thành Công sứ (Résident) tại Huế thay mặt cho chính quyền bảo hộ của Pháp tại Trung Kỳ. Năm 1885, chính phủ Pháp đặt ra "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (Résident général de l'Annam et du Tonkin), còn gọi là Tổng Trú sứ hay Tổng sứ, thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Quyền hành của Toàn quyền Lưỡng kỳ ngang với Thống đốc Nam Kỳ và độc lập đối với Thống đốc Nam Kỳ. Toàn quyền Lưỡng kỳ nắm mọi quyền dân sự, quân sự, chủ trì, mọi quan hệ đối ngoại của Nam triều và mọi quan hệ giữa giới cầm quyền Pháp và Nam Kỳ. Dưới quyền trực tiếp của Toàn quyền Lưỡng kỳ là một hệ thống quan lại thực dân Pháp giúp việc: đứng đầu Bắc Kỳ là Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin); đứng đầu Trung Kỳ là Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur de l’Annam) và đứng đầu mỗi tỉnh ở cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Công sứ (Résident) và Phó sứ (Résident adjoint).
Chức Tổng Trú sứ bị bãi bỏ năm 1889, chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam), còn được gọi là Đại trú sứ, được đặt ra để đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều.
Thời kỳ Đại diện Ngoại giao (1875-1884)
Tên | Năm sinh - năm mất | Thời gian tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|
Pierre Paul Rheinart | 1840-1902 | 30 tháng 7, 1875 - 13 tháng 12, 1876 | Lần thứ nhất |
Paul Louis Félix Philastre | 1837-1907 | 14 tháng 12, 1876 - 3 tháng 7, 1879 | |
Pierre Paul Rheinart | 1840-1902 | 3 tháng 7, 1879 - 5 tháng 10, 1880 | Lần thứ hai |
Louis Eugène Palasne de Champeaux | 1840-1889 | 6 tháng 10, 1880 - 17 tháng 8, 1881 | |
Pierre Paul Rheinart | 1840-1902 | 18 tháng 8, 1881 - tháng 7, 1883 | Lần thứ ba |
François Jules Harmand | 1845-1921 | tháng 7, 1883 - 10 tháng 6, 1884 | Người ký Hòa ước Quý Mùi, 1883 |
Thời kỳ Công sứ (1884-1886)
Tên | Năm sinh - năm mất | Thời gian tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|
Pierre Paul Rheinart | 1840-1902 | 11 tháng 6, 1884 - 30 tháng 9, 1884 | Sử dụng lâm thời chức danh Công sứ (Résident) |
Victor Gabriel Lemaire | 1839-1907 | 1 tháng 10, 1884 - 31 tháng 5, 1885 | Từ chức vì bất đồng với de Courcy |
Louis Eugène Palasne de Champeaux | 1840-1889 | 31 tháng 5, 1885 - 26 tháng 1, 1886 | Lâm thời |
Thời kỳ Tổng sứ (1885-1889)
Tên | Năm sinh - năm mất | Thời gian tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|
Philippe Marie André Roussel de Courcy | 1827-1887 | 14 tháng 4, 1885 - 20 tháng 1, 1886 | Trung tướng, Bá tước de Courcy, tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp. Đại diện toàn quyền tại Trung - Bắc Kỳ |
Charles Auguste Louis Warnet | 1828–1913 | 27 tháng 1, 1886 - 7 tháng 4, 1886 | Thiếu tướng. Tạm quyền |
Paul Bert | 1833-1886 | 8 tháng 4, 1886 - 11 tháng 11, 1886 | Quan chức dân sự đầu tiên. Bắt đầu sử dụng chức vụ Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ (Résident général de l'Annam et du Tonkin). |
Paulin François Alexandre Vial | 1831-1907 | 12 tháng 11, 1886 - 28 tháng 1, 1887 | Tạm quyền |
Paul Louis Georges Bihouard | 1846-19?? | 29 tháng 1, 1887 - 11 tháng 9, 1887 | Lần thứ nhất |
Thiếu tá Berger (??) | ????-???? | 11 tháng 9, 1887 - 27 tháng 10, 1887 | Tạm quyền lần thứ nhất |
Paul Louis Georges Bihouard | 1846-19?? | 27 tháng 10, 1887 - 17 tháng 11, 1887 | Lần thứ hai |
Thiếu tá Berger (??) | ????-???? | 17 tháng 11, 1887 - 25 tháng 6, 1888 | Tạm quyền lần thứ hai |
Eusèbe Irénée Parreau | ????-???? | 25 tháng 6, 1888 - 8 tháng 9, 1888 | Tạm quyền lần thứ nhất |
Pierre Paul Rheinart | 1840-1902 | 8 tháng 9, 1888 - tháng 5, 1889 | |
Eusèbe Irénée Parreau | ????-???? | 9 tháng 5, 1889 | Tạm quyền lần thứ hai cho đến khi chức vụ Tổng sứ bị bãi bỏ. |
Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế (1886-1945)
Tên | Năm sinh - năm mất | Thời gian tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|
Charles Dillon | ????-???? | 27 tháng 1, 1886 - 1888 | Sử dụng chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam) |
Séraphin Hector | 1846-???? | 1888-1889 | Lần thứ nhất |
Léon Jean Laurent Chavassieux | 1848-1895 | 1889 | Về sau làm Toàn quyền Đông Dương |
Séraphin Hector | 1846-???? | 1889- tháng 10, 1891 | Lần thứ hai. Chức vụ Tổng sứ Trung-Bắc Kỳ bãi bỏ. |
Ernest Albert Brière | 1848-???? | tháng 10, 1891 - 1897 | |
Jean Calixte Alexis Auvergne | 1859-1942 | 1897 - tháng 3, 1898 | Lần thứ nhất |
Léon Jules Pol Boulloche | 1855-19?? | tháng 3, 1898 - 1900 | |
Jean Calixte Alexis Auvergne | 1859-1942 | 9 tháng 5 năm 1901 - 1904 | Lần thứ hai |
Jean-Ernest Moulié | ????-???? | 1904 - 1906 | |
Fernand Ernest Levecque | 1852-19?? | 1906 - 1908 | |
Élie Jean-Henri Groleau | 1859-19?? | 1908 - 1910 | |
Henri Victor Sestier | 1857-19?? | 1910 - 1912 | |
Georges Marie Joseph Mahé | ????-???? | 1912 - 1913 | Là người chủ trương cướp phá lăng tẩm ở Huế. |
Jean François Eugène Charles | ????-???? | 1913 - 1920 | Được xem là cha nuôi của Hoàng tử Vĩnh Thụy |
Pierre Marie Antonie Pasquier | 1877-1934 | 1920 - 1927 | Về sau làm Toàn quyền Đông Dương |
Jules Fries | ????-???? | 1927 - 1928 | |
Aristide Eugène Le Fol | ????-???? | 1928 - 1931 | |
Yves Charles Châtel | 1865-1944 | 1931 - 1934 | |
Maurice Fernand Graffeuil | ????-???? | 1943 - 1940 | |
Émile Louis François Grandjean | ????-???? | 1940 - 1944 | |
Jean Maurice Norbert Haelewyn | 1901-1945 | 1944 - 9 tháng 3 năm 1945 | Khâm sứ Trung Kỳ cuối cùng. |
Thời kỳ Công sứ Nhật tại Trung Bộ (1945)
Tên | Năm sinh - năm mất | Thời gian tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|
Yokoyama Masayuki | 1892-1978 | 9 tháng 3 năm 1945 - tháng 9 năm 1945 |
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Pháp tìm cách trở lại phục hồi quyền thống trị tại Việt Nam, vì vậy đã đặt chức vụ Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Trung và Bắc Kỳ. Chức vụ này có chức năng gần tương đương với chức vụ Tổng sứ Trung Bắc Kỳ trước kia, nhưng đặt trụ sở ở Hà Nội.