Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn Lang”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đẹp,độc,lạ
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7: Dòng 7:
Tên nước Văn Lang, cũng là tên bộ tộc mạnh nhất đã thống nhất 15 bộ tộc, theo một số suy đoán có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ ''Blang'' hay ''Klang'', mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại [[chim]] họ tôn kính như vật tổ.
Tên nước Văn Lang, cũng là tên bộ tộc mạnh nhất đã thống nhất 15 bộ tộc, theo một số suy đoán có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ ''Blang'' hay ''Klang'', mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại [[chim]] họ tôn kính như vật tổ.


Trong truyền thống của [[người Mường]], tổ tiên của họ là hai con chim ''Ay'' và ''Ua'' (hay ''Klang'' và ''Klao''). Một cách tương tự, tên gọi của [[Mê Linh]] có nguồn gốc là ''Mling,'' cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh nằm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng<ref>Trần Quốc Vượng,"Từ truyện ngụ ngôn đến lịch sử", sđd, trang 148-155</ref>. Một điểm khác, chữ '''Hồng''' trong từ [[Hồng Bàng]], thời kỳ thượng cổ của Kinh Dương vương, chỉ một con [[chim nước]] thuộc [[họ diệc]]
Trong truyền thống của [[người Mường]], tổ tiên của họ là hai con chim ''Ay'' và ''Ua'' (hay ''Klang'' và ''Klao''). Một cách tương tự, tên gọi của [[Mê Linh]] có nguồn gốc là ''Mling,'' cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh nằm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng<ref>Trần Quốc Vượng,"Từ truyện ngụ ngôn đến lịch sử", sđd, trang 148-155</ref>. Một điểm khác, chữ '''Hồng''' trong từ [[Hồng Bàng]], thời kỳ thượng cổ của Kinh Dương vương, chỉ một con [[chim nước]] thuộc [[họ diệc]].

=))


==Truyền thuyết khởi đầu==
==Truyền thuyết khởi đầu==
Dòng 16: Dòng 14:
Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ vào khoảng năm [[2879 TCN]] , sinh ra người con là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi (Âu Việt) và 50 người con theo cha xuống biển (Lạc Việt). Con trưởng của Lạc Long Quân là Vua Hùng cai trị nước Văn Lang (bộ tộc Lạc Việt), truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm [[258 TCN]] (tức là thế kỷ thứ III TCN) bởi An Dương Vương (bộ tộc Âu Việt). An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu-Lạc. Vì vậy quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới ''4000 năm văn hiến.''
Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ vào khoảng năm [[2879 TCN]] , sinh ra người con là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi (Âu Việt) và 50 người con theo cha xuống biển (Lạc Việt). Con trưởng của Lạc Long Quân là Vua Hùng cai trị nước Văn Lang (bộ tộc Lạc Việt), truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm [[258 TCN]] (tức là thế kỷ thứ III TCN) bởi An Dương Vương (bộ tộc Âu Việt). An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu-Lạc. Vì vậy quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới ''4000 năm văn hiến.''


:Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ ''[[Đại Việt sử lược]]'' vào [[thế kỷ 13]] thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt (15 bộ) khác vào khoảng [[thế kỷ 7]] TCN cùng thời với vua [[Chu Trang Vương]] của [[nhà Chu]] - [[Trung Quốc]]. Ông lên ngôi xưng hiệu là [[Hùng Vương]], đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang.<ref>Từ Văn Lang đến Thăng Long - Quá trình tìm chọn kinh đô muôn đời của đất nước [http://baotangnhanhoc.org/vi/index.php?option=com_content&view=article&id=734:t-vn-lang-n-thng-long--qua-trinh-tim-chn-kinh-o-muon-i-ca-t-nc-&catid=29:bai-nghien-cu-lch-s&Itemid=37]</ref> Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia [[Trung Quốc]] nên gọi kinh đô thời Văn Lang là [[Phong Châu (kinh đô)|Phong Châu]].<ref>[http://www.ictnews.vn/home/1000-nam-Thang-Long/102/Tu-Phong-Chau-ve-Co-Loa-Buoc-ngoat-lich-su/32339/index.ict]</ref> Trong bộ [[Việt sử lược]] có dành những dòng sau cho các vua Hùng.
:Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ ''[[Đại Việt sử lược]]'' vào [[thế kỷ 13]] thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt (15 bộ) khác vào khoảng [[thế kỷ 7]] TCN cùng thời với vua [[Chu Trang Vương]] của [[nhà Chu]] - [[Trung Quốc]]. Ông lên ngôi xưng hiệu là [[Hùng Vương]], đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang.<ref>Từ Văn Lang đến Thăng Long - Quá trình tìm chọn kinh đô muôn đời của đất nước [http://baotangnhanhoc.org/vi/index.php?option=com_content&view=article&id=734:t-vn-lang-n-thng-long--qua-trinh-tim-chn-kinh-o-muon-i-ca-t-nc-&catid=29:bai-nghien-cu-lch-s&Itemid=37]</ref> Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia [[Trung Quốc]] nên gọi kinh đô thời Văn Lang là [[Phong Châu (kinh đô)|Phong Châu]].<ref>[http://www.ictnews.vn/home/1000-nam-Thang-Long/102/Tu-Phong-Chau-ve-Co-Loa-Buoc-ngoat-lich-su/32339/index.ict]</ref> Trong bộ [[Việt sử lược]] có dành những dòng sau cho các vua Hùng
:<blockquote>''"Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."''<ref>{{Chú thích web|url = http://thuvienso.thuvienbrvt.com.vn/doc/viet-su-luoc-tran-quoc-vuong-dich-219843.html|tiêu đề = Việt Sử lược}}</ref></blockquote>
:<blockquote>''"Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."''<ref>{{Chú thích web|url = http://thuvienso.thuvienbrvt.com.vn/doc/viet-su-luoc-tran-quoc-vuong-dich-219843.html|tiêu đề = Việt Sử lược}}</ref></blockquote>


Dòng 40: Dòng 38:
#[[Văn Lang (bộ)|Văn Lang]] (文郎)
#[[Văn Lang (bộ)|Văn Lang]] (文郎)
#Quế Lâm (桂林)
#Quế Lâm (桂林)
#Tượng Quận (象郡)
#Tượng Quận (象郡)
#Táo (苹果)


Theo "[[Việt sử lược]]" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là:
Theo "[[Việt sử lược]]" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là:
Dòng 59: Dòng 56:
#Hoài Hoan (懷驩)
#Hoài Hoan (懷驩)
#Cửu Đức (九德)
#Cửu Đức (九德)
#Táo (苹果)

Kinh đô đặt tại [[bộ Văn Lang]].
Kinh đô đặt tại [[bộ Văn Lang]].


Dòng 79: Dòng 74:
#Cửu Đức (九德)
#Cửu Đức (九德)
#[[Văn Lang (bộ)|Văn Lang]] (文郎)
#[[Văn Lang (bộ)|Văn Lang]] (文郎)
#Táo (苹果)


[[Tập tin:Văn Lang.jpg|thế=Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.|nhỏ|Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.]]
[[Tập tin:Văn Lang.jpg|thế=Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.|nhỏ|Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.]]
Dòng 92: Dòng 86:


==Kết thúc==
==Kết thúc==
Cuối thời [[Hồng Bàng]], theo ''ĐVSKTT'' cũng như theo ''Đại Việt sử lược'', do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là [[An Dương Vương|Thục Phán]] sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sáp nhập và thành lập nước [[Âu Lạc]].=((
Cuối thời [[Hồng Bàng]], theo ''ĐVSKTT'' cũng như theo ''Đại Việt sử lược'', do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là [[An Dương Vương|Thục Phán]] sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sáp nhập và thành lập nước [[Âu Lạc]].


==Tham khảo==
==Tham khảo==
Dòng 101: Dòng 95:


==Xem thêm==
==Xem thêm==
{{columns-list|colwidth=22 đứa =))|
{{columns-list|colwidth=25em|
*[[Hùng Vương]]
*[[Hùng Vương]]
*[[Hồng Bàng]]
*[[Hồng Bàng]]
Dòng 122: Dòng 116:
*[[Âu Lạc]]
*[[Âu Lạc]]
*[[Nam Việt]]
*[[Nam Việt]]
}}
*[[Táo]]
*[[=))]]}}


==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==

Phiên bản lúc 14:00, ngày 6 tháng 12 năm 2019

Tên gọi Việt Nam Map of Vietnam showing the conquest of the south (nam tiến, 1069-1757).
2879–2524 TCN Xích Quỷ (truyền thuyết)
Thế kỷ 7–258 TCN Văn Lang
258-179 TCN Âu Lạc
204–111 TCN Nam Việt
111 TCN–40 CN Giao Chỉ
40–43 Lĩnh Nam
43–203 Giao Chỉ
203–544 Giao Châu
544–602 Vạn Xuân
602–679 Giao Châu
679–757 An Nam
757–766 Trấn Nam
768–866 An Nam
866–967 Tĩnh Hải quân
968–1054 Đại Cồ Việt
1054–1400 Đại Việt
1400–1407 Đại Ngu
1407–1427 Giao Chỉ
1428–1804 Đại Việt
1804–1839 Việt Nam
1839–1945 Đại Nam
1887–1954 Đông Dương
(Bắc/Trung/Nam Kỳ)
từ 1945 Việt Nam
Bản mẫu chính
Sinh vật định danh
Lịch sử Việt Nam
Loạt bài
Lịch sử Đông Nam Á
Bản đồ Đông Nam Á
Bản đồ Đông Nam Á

Đông Nam Á thời tiền sử

Những nền văn minh đầu tiên
   Văn hóa Đông Sơn
   Văn hóa Sa Huỳnh
   Văn hóa Óc Eo
   Văn hóa Mã Lai
   Văn hóa Java
   Văn hóa Môn - Khmer
Các vương quốc đầu đầu tiên


   Xích Quỷ (2879TCN - 2524TCN)
   Văn Lang (2524TCN - 258TCN)
   Âu Lạc (258TCN-208TCN)
   Lâm Ấp (192 - 605)
   Phù Nam (1 - 630)
   Chân Lạp (550 - 717)
   Dvaravati (TK 6 - TK 11)
   Malayu (TK 4 - TK 7)
   Langkasuka (TK 4 - TK 7)
   Pan Pan (TK 4 - TK 7)
   Sailendra (732 - giữa TK 9)
   Medang (giữa TK 9 - 1049)
   Pyu (TK 3 - TK 9)
   Hariphunchai (TK 8 - TK 13)

Các quốc gia phong kiến hình thành
   Đại Việt (938 - 1887)
   Chăm Pa (TK 7 - 1693)
   Vương quốc Khmer (877 - 1863)
   Pagan (TK 9 - TK 13)
   Sukhothai (1238 - 1448)
   Ayutthaya (1351 - 1767)
   Lan Na (1254 - TK 17)
   Lan Xang (1353 - TK 18)
   Kediri (1049 - 1221)
   Majapahit (1293 - 1527)
   Srivijaya (TK 8 - TK 13)
   Melaka (1402 - 1511)
Giao lưu về văn hóa - tôn giáo
   Phật giáo đại thừa
   Phật giáo tiểu thừa
   Hindu giáo
   Hồi giáo
   Công giáo
   Ảnh hưởng của Ấn Độ
   Ảnh hưởng của Trung Hoa
Thực dân hóa từ Châu Âu
   Thuộc địa Hà Lan
   Thuộc địa Bồ Đào Nha
   Thuộc địa Anh
   Thuộc địa Tây Ban Nha
   Thuộc địa Pháp
Các phong trào dân tộc đầu thế kỷ 20
Đông Nam Á hiện nay

Xem thêm

sửa

Văn Lang (chữ Hán: 文郎) là nhà nước đầu tiên theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các Hùng Vương.

Nguồn gốc tên gọi Văn Lang

Tên nước Văn Lang, cũng là tên bộ tộc mạnh nhất đã thống nhất 15 bộ tộc, theo một số suy đoán có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ Blang hay Klang, mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại chim họ tôn kính như vật tổ.

Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim AyUa (hay KlangKlao). Một cách tương tự, tên gọi của Mê Linh có nguồn gốc là Mling, cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh nằm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng[1]. Một điểm khác, chữ Hồng trong từ Hồng Bàng, thời kỳ thượng cổ của Kinh Dương vương, chỉ một con chim nước thuộc họ diệc.

Truyền thuyết khởi đầu

Theo bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) viết rằng phần ngoại kỷ do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15 chép rằng: Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông, sinh ra Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương hồ Động Đình, sinh ra Lạc Long Quân (theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông). Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai, 50 người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ vào khoảng năm 2879 TCN , sinh ra người con là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi (Âu Việt) và 50 người con theo cha xuống biển (Lạc Việt). Con trưởng của Lạc Long Quân là Vua Hùng cai trị nước Văn Lang (bộ tộc Lạc Việt), truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm 258 TCN (tức là thế kỷ thứ III TCN) bởi An Dương Vương (bộ tộc Âu Việt). An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu-Lạc. Vì vậy quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.

Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ Đại Việt sử lược vào thế kỷ 13 thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt (15 bộ) khác vào khoảng thế kỷ 7 TCN cùng thời với vua Chu Trang Vương của nhà Chu - Trung Quốc. Ông lên ngôi xưng hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang.[2] Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia Trung Quốc nên gọi kinh đô thời Văn Lang là Phong Châu.[3] Trong bộ Việt sử lược có dành những dòng sau cho các vua Hùng

"Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."[4]

Cương vực

Theo "Lĩnh Nam chích quái" (嶺南摭怪), quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:

Nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡), bao gồm:

  1. Việt Thường (越裳)
  2. Giao Chỉ (交趾)
  3. Chu Diên (朱鳶)
  4. Vũ Ninh (武寧)
  5. Phúc Lộc (福祿)
  6. Ninh Hải (寧海)
  7. Dương Tuyền (陽泉)
  8. Lục Hải (陸海)
  9. Hoài Hoan (懷驩)
  10. Cửu Chân (九真)
  11. Nhật Nam (日南)
  12. Chân Định (真定)
  13. Văn Lang (文郎)
  14. Quế Lâm (桂林)
  15. Tượng Quận (象郡)

Theo "Việt sử lược" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là:

  1. Giao Chỉ (交趾)
  2. Việt Thường Thị (越裳氏)
  3. Vũ Ninh (武寧)
  4. Quân Ninh (軍寧)
  5. Gia Ninh (嘉寧)
  6. Ninh Hải (寧海)
  7. Lục Hải (陸海)
  8. Thang Tuyền (湯泉)
  9. Tân Xương (新昌)
  10. Bình Văn (平文)
  11. Văn Lang (文郎)
  12. Cửu Chân (九真)
  13. Nhật Nam (日南)
  14. Hoài Hoan (懷驩)
  15. Cửu Đức (九德)

Kinh đô đặt tại bộ Văn Lang.

Trong "Đại Việt sử ký toàn thư" (大越史記全書), Ngoại kỉ (外紀), quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ (鴻厖氏紀), cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với "Lĩnh Nam chích quái" chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định (武定), Bình Văn (平文), Tân Hưng (新興) và Cửu Đức (九德). Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm:

  1. Giao Chỉ (交趾)
  2. Chu Diên (朱鳶)
  3. Vũ Ninh (武寧)
  4. Phúc Lộc (福祿)
  5. Việt Thường (越裳)
  6. Ninh Hải (寧海)
  7. Dương Tuyền (陽泉)
  8. Lục Hải (陸海)
  9. Vũ Định (武定)
  10. Hoài Hoan (懷驩)
  11. Cửu Chân (九真)
  12. Bình Văn (平文)
  13. Tân Hưng (新興)
  14. Cửu Đức (九德)
  15. Văn Lang (文郎)
Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.
Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.

Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, thậm chí kéo dài tới Thừa Thiên - Huế[5], dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ văn hoá Đông Sơn (từ năm 696 TCN - 682 TCN)

Tổ chức nhà nước

Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu, quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ (làng). Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời (hoặc dòng) vua.

Xã hội có giai cấp có lẽ chưa xuất hiện, nhưng chắc chắn đã xuất hiện sự phân tầng. Theo Lĩnh Nam chích quái, tôi tớ được gọi là xao nếu là nữ, và xung nếu là nam, kẻ bề dưới là hôn. Xao có thể được gắn với sao trong tiếng Thái: con gái, hôn của tiếng Chăm và ho hun của tiếng Jarai và côn huon trong tiếng Thái là những từ dùng để gọi các nô lệ lo việc nhà.

Quan điểm về đặc tính của nhà nước Văn Lang rất đa dạng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong đó có quan điểm của GS. Hà Văn Tấn cho rằng nhà nước Văn Lang chỉ là một cái làng lớn (Hà Văn Tấn, Làng, liên làng và siêu làng (Mấy vấn đề về phương pháp), Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987, in lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nhà xuất bản ĐHQGHN, 2007); quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cho rằng: Nhà nước Văn Lang thực chất là một "nhà nước siêu làng", thể hiện cả ở sự liên kết giữa làng và nước, chứ không chỉ là sự liên kết giữa các làng với nhau. Theo tác giả, tính chất "siêu làng" thể hiện ít nhất ở ba khía cạnh: Thứ nhất, về nội dung, nhà nước mang dáng dấp của một cái làng lớn có tính liên kết mạnh, tính đại diện cao và tính giai cấp yếu. Thứ hai, về phạm vi và tính chất liên kết, quan hệ làng nước mang tính hoà đồng, lưỡng hợp, chưa có sự phân định rạch ròi về chức năng, thẩm quyền giữa làng và nước. Thứ ba, về thời gian, nhà nước Văn Lang dần được hình thành trong một quá trình rất lâu dài (Nguyễn Minh Tuấn, Nhà nước Văn Lang - nhà nước siêu làng, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007).

Kết thúc

Cuối thời Hồng Bàng, theo ĐVSKTT cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là Thục Phán sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sáp nhập và thành lập nước Âu Lạc.

Tham khảo

  1. ^ Trần Quốc Vượng,"Từ truyện ngụ ngôn đến lịch sử", sđd, trang 148-155
  2. ^ Từ Văn Lang đến Thăng Long - Quá trình tìm chọn kinh đô muôn đời của đất nước [1]
  3. ^ [2]
  4. ^ “Việt Sử lược”.
  5. ^ “LỊCH SỬ TT-HUẾ”. Báo Thừa-Thiên-Huế. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)

Xem thêm

Liên kết ngoài