Thành viên:NhacNy2412/nháp/Chu Hi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
NhacNy2412/nháp/Chu Hi
Chu Hi
Sinh(1130-10-08)8 tháng 10, 1130
Vưu Khê, Phúc Kiến, Nhà Tống
Mất23 tháng 4, 1200(1200-04-23) (69 tuổi)
Tên khácTự: Nguyên Hối (元晦)
Hiệu: Hối Am (晦庵)
Nghề nghiệpNhà triết học, chính trị gia, nhà văn, nhà sử học, nhà thư pháp
Thời kỳNam Tống
VùngTriết học Trung Quốc
Trường pháiNho giáo, Lý học
NhacNy2412/nháp/Chu Hi
Tên Chu Hi viết dưới dạng khải thư
Tiếng Trung朱熹
Tên tiếng Trung thay thế
Tiếng Trung朱子
Nghĩa đen"Master Zhu"
Tượng Chu Hi tại Bạch Lộc Động thư viện ở Lư Sơn

Chu Hi (tiếng Trung: 朱熹, [ʈʂú ɕí]; 18 tháng 10 năm 113023 tháng 4 năm 1200) tự Nguyên Hối (元晦) hoặc Trọng Hối (仲晦), trai hiệu[a] Hối Am (晦庵), là một nhà thư pháp, nhà sử học, nhà triết học, nhà chính trị và nhà văn Trung Quốc thời nhà Tống. Đối với triết học Trung Quốc, ông có các đóng góp về việc biên tập và bình luận cho Tứ thư, hình thành nền tảng quan trọng cho khoa cử xuyên suốt các triều đại Trung Quốc từ năm 1313 đến năm 1905. Ông là người đã phát triển học thuyết lí – khí của Trình HạoTrình Di, đã đưa Lý học Tống Nho lên thành một hệ thống duy tâm khách quan hoàn chỉnh, được gọi là Trình Chu lí học.[1] Những học thuyết của ông đã góp phần định hình cơ bản con người Trung Hoa cũng như thế giới quan cho hậu thế, cũng vì vậy mà ông được người đời tôn xưng "Chu Tử".

Ông là một học giả uyên bác, có kiến thức uyên thâm về những tác phẩm kinh điển, các loại bình thư,[b] sử ký, cũng như các tác phẩm của nhiều bậc tiền bối.[2][3] Khi trưởng thành, ông thường tránh né các loại công vụ,[4] nhưng ông vẫn nhiều lần đủ khả năng đứng vào hàng ngũ đại thần triều đình.[1] Chu Hi đã viết, biên soạn và hiệu đính gần một trăm cuốn sách và trao đổi thư từ với hàng chục học giả khác. Ông đóng vai trò như một người thầy của các nhóm sĩ phu, nhiều người trong số họ đã chọn học theo ông trong nhiều năm.

Cuộc đời

Thời niên thiếu

Chu Hi là người gốc huyện Vụ Nguyên, Huy Châu (vốn thuộc An Huy, đến năm 1952 đổi thành thuộc tỉnh Giang Tây). Ông là cháu chín đời của Chu Khôi (朱瓌),[c][d] thuộc dòng dõi họ Chu ở Tử Dương,[e] cùng dòng tộc với họ Chu ở Phượng Dương,[f] đều là hậu duệ của Chu Kính Tắc (朱敬則), một đại thần kiêm sử gia thời Đường Thái Tông. Chu Hi sinh vào giờ Ngọ ngày 19 tháng 9 (âm lịch) năm Kiếm Viêm thứ 4 (1130) triều Tống Cao Tông tại Trịnh Thị thảo đường (鄭氏草堂) nay là Nam Khê thư viện của huyện Vưu Khê,[5] tỉnh Phúc Kiến, nơi cha ông là Chu Tùng đang đảm nhiệm chức vụ Huyện úy.[6]

Chu Hi tiếp thu nền giáo dục Nho học từ sớm, lên 5 tuổi đã đọc được Hiếu Kinh. Ông đề vào sách 8 chữ "若不如此, 便不成人" (Nếu không như vậy, liền không thành người).[7] Năm Thiệu Hưng thứ 7 (1137), Chu Tùng được triệu tập về kinh đô. Trước khi đi, ông đã đưa vợ là Chúc thị cùng con trai Chu Hi về sống ở Phổ Thành. Đến năm 1140, Chu Tùng bị buộc từ quan sau khi phản đối chính sách hòa nghị với người Nữ Chân,[8] dâng thư chủ trường kháng Kim, chọc giận Tần Cối.[9][10] Từ đó, Chu Hi bắt đầu nhận được sự giáo dục của cha về những tác phẩm kinh điển của Nho gia.[11] Nhiều giai thoại đã kể lại rằng, Chu Hi là một đứa trẻ thông minh sớm.[12][13] Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã tò mò về trận đồ bát quái, từng hỏi cha mình về trời và những thứ bên ngoài bầu trời.[14][15] Từ sớm ông đã được truyền cảm hứng bởi câu nói tất cả mọi người đều có thể trở thành một nhà hiền triết của Mạnh Tử.[16]

Năm 1143, Chu Tùng qua đời vì bệnh. Trước khi lâm chung, ông đã phó thác Chu Hi cho Lưu Tử Vũ,[g] lại viết thư nhờ cậy ba người bạn có học vấn và tu dưỡng thâm hậu là Lưu Tử Huy, Lưu Miễn Chi và Hồ Hiến thay mình dạy dỗ Chu Hi.[17][18] Cả bốn người đều là người Ngũ Phu, Sùng An (nay là thành phố Vũ Di Sơn). Lưu Tử Vũ xem Chu Hi như con trai ruột, sắp xếp một viện riêng cho ông ở lại, đặt tên là "Tử Dương lâu" (紫阳楼).[19][20] Nơi này hiện là một trong những danh thắng hàng đầu ở Ngũ Phu.[21][22] Năm 1147, Chu Hi 18 tuổi thi đỗ Hương cống. Mùa xuân năm 1148, Lưu Miễn Chi đã gả con gái cả của mình là Lưu Thanh Tứ cho Chu Hi.[23][24] Đến tháng 3 cùng năm, Chu Hi đến Lâm An (nay là Hàng Châu) tham gia thi Hội, đứng hạng 90 đệ ngũ giáp trên bảng Vương Tá,[25] đỗ Tiến sĩ.[26][18]

Con đường làm quan

Năm 1151, Chu Hi được triều đình phong làm Chủ bộ huyện Đồng An thuộc Tuyền Châu, đến năm 1153 thì ông chính thức đến Đồng An nhậm chức.[h][27] Trong thời gian tại nhiệm, ông rất nghiêm túc với công việc, thường xuyên xem xét các sổ sách thuế má, lại lấy giáo dục làm đầu. Đối với việc làm quan của ông, sách ghi chép địa phương có rất nhiều lời khen.[28] Ông làm quan đến năm 1156 thì nghỉ.[29] Từ năm 1153 ông đã bắt đầu thăm hỏi và trao đổi với Lý Đồng (李侗), một người theo truyền thống Nho giáo của Trình Hạo và Trình Di.[30] Hai năm sau khi hết nhiệm kỳ chính thức, ông nhận thấy những vấn nạn trong giáo dục ảnh hưởng đến sự phát triển của quốc gia, một lần nữa bước lên con đường tầm sư học đạo, quyết tâm theo học Lý Đồng. Đến năm 1160 thì Chu Hi chính thức trở thành học trò của Lý Đồng.[31] Đây cũng là người đã mang sự ảnh hưởng của Phật Giáo đến Chu Hi.[32]

Năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162), Tống Hiếu Tông lên ngôi, xuống "Chiếu cầu trực ngôn" (诏求直言).[i] Chu Hi nghe chiếu dâng thư, trình lên ý kiến của mình nhưng dưới danh nghĩa của Lý Đồng.[33] Trong tấu sớ, ông chỉ rõ tình cảnh của triều Tống đương thời: "Biên cảnh lãnh thổ của tổ tiên chưa khôi phục, nỗi hổ thẹn nhục nhã với tông miếu chưa trừ, quan hệ với người Nhung nghị hòa bất thường, con dân khốn khổ đến cùng cực"; kịch liệt phản đối tiếp tục chính sách hòa nghị.[34] Tháng 11 năm sau, ông được triệu vào kinh thành Lâm An, đến nói trước mặt Tống Hiếu Tông,[35] bởi Lý Đồng vừa qua đời vào ngày 15 tháng 10.[36] Ông dâng 3 tờ trát lên cho Hoàng đế, mỗi tờ trát có một nội dung khác nhau bao gồm: nên chú trọng nghiên cứu Nho giáo thay vì Phật giáo, phản đối hòa nghị với nhà Kim và phản đối sủng tín nịnh thần.[36] Ba tờ trát của ông đã bao quát được cả giáo dục, ngoại giao và nội trị. Nhưng lúc bấy giờ triều đình đã chủ trương hòa nghị, chủ trương kháng Kim của Chu Hi không được tiếp thu. Tháng 11, triều đình phong cho Chu Hi làm Tiến sĩ Võ học của Quốc Tử giám, nhưng ông từ chối không nhận, xin quay về Phúc Kiến. Năm 1164, ông trở về để tang cho Lý Đồng.[37]

Đây có thể xem là một dấu mốc trên con đường học thuật của Chu Hi, cũng từ đây là ông dồn toàn bộ tâm huyết của mình vào việc nghiên cứu, viết và tranh luận với các học giả đương thời. Mãi đến năm 1178, ông một lần nữa bước chân vào quan trường dưới sự tiến cử của Sử Hạo (史浩).[38] Tống Hiếu Tông giao cho ông quản lý Nam Khang quân (南康軍) kiêm việc khuyến nông.[39] Dù ông đã từ chối nhiều lần nhưng triều đình không đồng ý. Cuối cùng vào năm 1179, ông đã đến nhậm chức Quận trưởng Nam Khang quân.[40][41] Đây cũng là nơi ông đã mời nhiều danh sư, làm phong phú thêm kho sách, lập ra một bộ giáo quy và hồi sinh Bạch Lộc Động thư viện (白鹿洞書院).[42][43] Bộ "Bạch Lộc Động thư viện giáo quy" không chỉ là nền tảng cho việc quản lý thư viện trường học Trung Quốc mãi 700 năm sau mà còn là đầu đề cho nhiều nghiên cứu chế độ giáo dục trên thế giới.[44]

Gia đình

  • Cha: Chu Tùng (朱松; 1097 – 1143), tự Kiều Niên (乔年), hiệu Vi Trai (韦斋), đỗ Tiến sĩ năm 1118,[26] làm quan đến Viên ngoại lang của Bộ Lại.
  • Đích thê: Lưu Thanh Tứ (nhũ danh Tứ Nương), trưởng nữ của Lưu Miễn Chi, sau khi qua đời được truy phong Thạc nhân (硕人).[45][46] Bà gả cho Chu Hi năm 16 tuổi và sinh cho ông tất cả 8 người con, 3 nam, 5 nữ. Năm Thuần Hi thứ 3 (1176) triều Tống Hiếu Tông, bà qua đời khi chỉ 44 tuổi. Đến tháng 2 năm sau, bà được an táng tại thôn Sùng Chính, huyện Kiến Dương.[47]
  • Con trai:[48]
    1. Chu Thục (朱塾; 1153 – 1191), tự Thụ Chi (受之), từ nhỏ thông minh, rất được Chu Hi thương yêu, nhưng vì tính tình lười nhác mà Chu Hi đã gửi ông đến nhà Lữ Tổ Khiêm (呂祖謙) để học tập,[48] làm quan đến Tổng lĩnh Hồ Nam.[49] Về sau, Chu Thục cưới trưởng nữ của Phan Cảnh Hiến (潘景宪),[50] có hai người con trai là Chu Trấn, Chu Giam và một người con gái gả cho Tông thất nhà Tống là Triệu Sư Hạ (赵师夏).[j][51] Chu Trấn cưới con gái Tống Lý Tông, sinh được Chu Lâm và Chu Bân. Chu Giam cưới con gái của Hoàng Phủ, cháu nội của Hoàng Triệt, cháu ngoại của Trần Lương Hãn.
    2. Chu Chỉnh (朱整; 1154 – 1210), tự Văn Chi (文之), từng có một thời gian thay anh trai quản lý việc trong nhà, coi sóc việc in ấn sách của nhà họ Chu, về sau cưới con gái của Lưu Phục (刘复).[49]
    3. Chu Tại (朱在; 1161 – 1239), tự Kính Chi (敬之), cưới em gái của Lữ Tổ Khiêm.[48]
  • Con gái:
    1. Chu Tốn (朱巽), gả cho cháu trai của Lưu Tử Huy, cháu ngoại của Phạm Như Khuê (范如圭), sinh một người con trai là Lưu Dịch.
    2. Chu Đoái (朱兑), gả cho Hoàng Kiền (黄干), một trong Tứ đại truyền nhân của Chu Môn.
    3. Chu Tị (朱巳), từ nhỏ thông minh, giỏi thư pháp và âm luật, vốn hứa gả cho Triệu Sư Uyên (赵师渊), em trai Triệu Sư Hạ, nhưng chỉ mới 15 tuổi đã qua đời, được chôn cất bên cạnh mộ mẹ.
    4. Chu Quý (朱癸), gả cho Phạm Nguyên Dụ (范元裕), con trai một học trò của Chu Hi là Phạm Niệm Đức (范念德).
    5. Con gái út chết yểu.

Tên

Trong cuộc đời của Chu Hi, ông đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm kinh điển, để lại nhiều giá trị cho đời sau. Đi kèm theo những tác phẩm đó là những tên chữ, tên hiệu, bút danh, và những danh xưng khác của ông. Khi còn nhỏ, ông có tiểu danh[k] là Trầm Lang (沈郎)[52] và tiểu tự là Quý Duyên (季延).[l][54] Đến tuổi trưởng thành, người thầy Lưu Tử Huy đã làm lễ thành nhân cho Chu Hi và chính thức đặt tên tự cho ông là Nguyên Hối (元晦).[55][56] Hầu hết các sử liệu đều ghi chép, tên tự của Chu Hi vốn là Nguyên Hối, sau đổi thành Trọng Hối (仲晦).[57] Trên thực tế, cả đời Chu Hi đều tự xưng là "Trọng Hối",[58] còn tên chữ "Nguyên Hối" chỉ xuất hiện khi một người khác nhắc đến ông. Chỉ có một lần đặc biệt là khi Chu Hi nhắc đến tên Nguyên Hối này vốn do "Lưu Tiên sinh" đặt cho mình.[59]

  • Tên tự: Nguyên Hối (元晦),[55] sau đổi thành Trọng Hối (仲晦)
  • Nhũ danh:[m] Trầm Lang (沈郎)
  • Tiểu tự: Quý Duyên (季延)
  • Tên hiệu: Hối Am (晦庵), sau 60 tuổi xưng Hối Ông (晦翁)
  • Vãn hiệu: Độn Ông (遯翁), Thương Châu Bệnh Tẩu (沧洲病叟)
  • Biệt xưng: Tử Dương (紫阳), Vân Cốc Lão nhân (云谷老人),

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Trai hiệu, còn xưng là trai danh, thất danh, am hiệu, thường là tên thư phòng của văn nhân nhã sĩ thời xưa, cho thấy gia thế, thân thế, trình độ và cả ước nguyện của chủ nhân.
  2. ^ Sách để bình phẩm, bình luận về một người hay một chủ thể nào đó.
  3. ^ Chu Khôi (朱瓌) hay Chu Côi (朱瑰) là Phủ quân của Vụ Nguyên Trà viện (婺源茶院) vào thời Ngũ đại Thập quốc
  4. ^ Trong quyển 1 "Chi phái nguyên lưu" của "Chu Tử văn tập đại toàn loại biên" có ghi chép: "一世茶院公諱瓌,字古僚,號舜臣,其先吳郡人。唐廣明間,黃巢作亂,避地歙之黃墩。天中佑中,以刺史陶雅命,總卒三千,戍婺源而督其征賦,巡轄浮梁、德、興、祁門四縣,民賴以安,因家婺源,是為婺源朱氏始祖。"
    Lược dịch: Công của Nhất Thế Trà viện húy Khôi, tự Cổ Liêu, hiệu Thuấn Thần, trước là người quận Ngô; gặp loạn Hoàng Sào, lánh đi. Sau lấy thân phận Thứ sử, cùng 3000 quân đóng giữ Vụ Nguyên, giám sát tô thuế, tuần tra bốn huyện Phù Lương, Đức, Hưng, Kỳ Môn, yên lòng dân. Vì nhà ở Vụ Nguyên, trở thành thủy tổ của Vụ Nguyên Chu thị.
  5. ^ Một trấn thuộc huyện Vụ Nguyên
  6. ^ Họ Chu ở Phượng Dương hay Phượng Dương Chu thị (tiếng Trung: 鳳陽朱氏 chính là Hoàng tộc nhà Minh
  7. ^ Lưu Tử Vũ (刘子羽; 1086 – 1186) là một quan viên, tướng lĩnh vào đầu thời kỳ Nam Tống. Ông nhiều lần theo cha là Tư Chính điện Đại học sĩ Lưu Cáp xuất chinh, sau nổi danh nhờ công trạng trong công cuộc chống lại quân Kim.
  8. ^ Vào thời Nam Tống, công việc của Chủ bộ là quản lý việc xuất nạp của đồ của công, phụ trách ghi chép sổ sách; lại hỗ trợ Huyện lệnh quản lý các công việc liên quan đến giấy tờ sổ sách, phú thuế, giáo dục,...
  9. ^ Chiếu thư thỉnh cầu lời nói thẳng.
  10. ^ Triệu Sư Hạ là hậu duệ của Yến vương Triệu Đức Chiêu
  11. ^ Tiểu danh (小名) hay Nhũ danh (乳名) thường dùng với ý nghĩa là tên mụ, tên húy, tên lúc nhỏ khi chưa được đặt tên chính thức. Một cách tương đối, "tiểu danh" đối ứng với "đại danh" (大名) trong xã hội cũ có cách sử dụng tương tự với "tên ở nhà" (hoặc tên cúng cơm) và "tên chính thức" trong xã hội hiện nay.
  12. ^ Quý () vốn lấy từ "quý tử", chỉ người con trai út; Duyên () lại lấy từ Duyên Bình (延平), một cách gọi khác của "Nam Kiếm" (南剑). Vưu Khê, nơi Chu Hi sinh ra, vốn thuộc Nam Kiếm.[53]
  13. ^ Tiểu danh (小名) hay Nhũ danh (乳名) thường dùng với ý nghĩa là tên mụ, tên húy, tên lúc nhỏ khi chưa được đặt tên chính thức. Một cách tương đối, "tiểu danh" đối ứng với "đại danh" (大名) trong xã hội cũ có cách sử dụng tương tự với "tên ở nhà" (hoặc tên cúng cơm) và "tên chính thức" trong xã hội hiện nay.

Tham khảo

  1. ^ a b Ebrey (1993), tr. 172.
  2. ^ Ebrey (1999), tr. 153.
  3. ^ de Bary (2008), tr. 216.
  4. ^ Confucius & Slingerland (2006), tr. 148–91.
  5. ^ Triệu (1985), tr. 283.
  6. ^ Lâm & Khương (2013), tr. 431.
  7. ^ Trần Mộng Lôi (1985), tr. 1450.
  8. ^ Ivanhoe (2019), tr. 2.
  9. ^ Mạc (2000), tr. 11.
  10. ^ Chu (2005), tr. 35.
  11. ^ Lưu (2000).
  12. ^ Trần (2000), tr. 21.
  13. ^ Vương (1998), tr. 2.
  14. ^ Brown (2017), tr. 733.
  15. ^ Höchsmann (2004), tr. 149.
  16. ^ Thompson, Kirill (2017). Zalta, Edward N. (biên tập). The Stanford Encyclopedia of Philosophy . Metaphysics Research Lab, Stanford University.
  17. ^ Thúc (1992), tr. 38.
  18. ^ a b Ng (2020), tr. 18.
  19. ^ Cao (1987), tr. 93.
  20. ^ Tống (2020).
  21. ^ Văn (2010).
  22. ^ Thúc (1992), tr. 39.
  23. ^ Trần (2013).
  24. ^ Thúc (2008), tr. 43.
  25. ^ Lưu Hữu Bình (1994), tr. 134.
  26. ^ a b Mote (2003), tr. 340.
  27. ^ Triệu (2012), tr. 6.
  28. ^ Triệu (2012), tr. 7.
  29. ^ Takanashi (2014), tr. 262.
  30. ^ Adler (2014), tr. 36.
  31. ^ Ng (2020), tr. 20.
  32. ^ Makeham (2018), tr. 148.
  33. ^ Trương (2013), tr. 763.
  34. ^ Lâm & Khương (2013), tr. 330.
  35. ^ Trương (2013), tr. 764.
  36. ^ a b Ng (2020), tr. 41.
  37. ^ Vương (1998), tr. 25.
  38. ^ Trương (2013), tr. 767.
  39. ^ Vương (1998), tr. 87.
  40. ^ Trương (2013), tr. 767–68.
  41. ^ Vương (1998), tr. 88.
  42. ^ Gardner (1990), tr. 3–6.
  43. ^ Vạn & Cao (2018), tr. 33.
  44. ^ de Bary (2008), tr. 465.
  45. ^ Trâu (1993), tr. 271.
  46. ^ Thúc (1992), tr. 63.
  47. ^ Lưu (2011), tr. 301.
  48. ^ a b c Lưu (2011), tr. 302.
  49. ^ a b Lý & Tào (2004), tr. 29.
  50. ^ Vương (2006), tr. 145.
  51. ^ Thúc (1992), tr. 324.
  52. ^ Thúc (1992), tr. 33.
  53. ^ Cao & 1987 (318).
  54. ^ Trương (2013), tr. 11.
  55. ^ a b Lâm & Khương (2013), tr. 324.
  56. ^ Vương (1998), tr. 5.
  57. ^ Mạnh (2003), tr. 1.
  58. ^ Cao (1987), tr. 321.
  59. ^ Trần (2007), tr. 21.

Nguồn

  • Trần, Phong Tường; Dư, Anh Thì (2002). 中國通史 [Trung Quốc thông sử]. Công ty xuất bản Thư viện Ngũ Nam. ISBN 9789571128818.
  • Trần, Vinh Diệp (2007). 朱子新探索 [Nghiên cứu mới về Chu Hi]. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hoa Đông. ISBN 9787561751985.

Liên kết ngoài