Yamamoto Gonnohyōe

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Yamamoto Gonnohyōe

山本 權兵衞
Thủ tướng thứ 16 và 22 của Nhật Bản
Nhiệm kỳ
2 tháng 9 năm 1923 – 7 tháng 1 năm 1924
Thiên hoàngĐại Chính
Nhiếp chínhHirohito
Tiền nhiệmUchida Kōsai (Quyền)
Kế nhiệmKiyoura Keigo
Nhiệm kỳ
20 tháng 2 năm 1913 – 16 tháng 4 năm 1914
Thiên hoàngĐại Chính
Tiền nhiệmKatsura Tarō
Kế nhiệmŌkuma Shigenobu
Thông tin cá nhân
Sinh26 tháng 11 năm 1852
Kagoshima, Lãnh thổ Satsuma, Nhật Bản
Mất8 tháng 12 năm 1933 (81 tuổi)
Đế quốc Nhật Bản
Nơi an nghỉNghĩa trang Aoyama, Tokyo
Đảng chính trịĐộc lập
Tặng thưởngHuân chương Hoa cúc (dây đeo cổ và dây kim tuyến lớn)
Huân chương Cánh diều Vàng (hạng nhất)
Huân chương Thánh Michael và Thánh George (danh dự)
Chữ ký
Phục vụ trong quân đội
ThuộcĐế quốc Nhật Bản
Phục vụHải quân Đế quốc Nhật Bản
Năm tại ngũ1879–1928
Cấp bậcĐô đốc
Tham chiếnChiến tranh Boshin
Chiến tranh Thanh-Nhật
Chiến tranh Nga-Nhật

Yamamoto Gonnohyōe (山本 権兵衛 (Sơn Bản Quyền Binh Vệ)? Sơn Bản Quyền Binh Vệ) (sinh 26 tháng 11 năm 1852 - mất 8 tháng 12 năm 1933), còn được gọi là Gonnohyōe, là một đô đốc trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản và là thủ tướng thứ 16 (20 tháng 2 năm 1931 - 16 tháng 4 năm 1914) và 22 (2 tháng 9 năm 1923 - 7 tháng 1 năm 1924) của Nhật Bản. Ông được phong tước bá.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Yamamoto sinh tại Kagoshima thuộc phiên Satsuma (tỉnh Kagoshima ngày nay), là con của một võ sĩ (samurai) phục vụ trong thị tộc Shimazu. Hồi trẻ, ông tham gia Chiến tranh Anh–Tát Ma và sau đó gia nhập lực lượng súng trường của Satsuma; trong chiến tranh Boshin chấm dứt thời kỳ của Mạc phủ Tokugawa, ông tham chiến tại Trận Toba–Fushimi và các chiến trường khác, ông cũng là thành viên của đội tàu đã truy đuổi Enomoto Takeaki tới Hokkaidō năm 1869.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]