Itō Hirobumi
Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. |
Itō Hirobumi | |||||
---|---|---|---|---|---|
伊藤 博文 | |||||
![]() | |||||
Chủ tịch Hội đồng Cơ mật | |||||
Nhiệm kỳ 30 tháng 4 năm 1888 – 30 tháng 10 năm 1889 1 năm, 183 ngày | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập | ||||
Kế nhiệm | Oki Takato | ||||
Nhiệm kỳ 1 tháng 6 năm 1891 – 8 tháng 8 năm 1892 1 năm, 68 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Oki Takato | ||||
Kế nhiệm | Oki Takato | ||||
Nhiệm kỳ 13 tháng 7 năm 1903 – 21 tháng 12 năm 1905 2 năm, 161 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Saionji Kinmochi | ||||
Kế nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Nhiệm kỳ 14 tháng 6 năm 1909 – 26 tháng 10 năm 1909 134 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Kế nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Thủ tướng thứ 1, 5, 7, 10 của Nhật Bản [1] | |||||
Nhiệm kỳ 19 tháng 10 năm 1900 – 10 tháng 5 năm 1901 203 ngày | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Kế nhiệm | Saionji Kinmochi (Quyền) | ||||
Nhiệm kỳ 12 tháng 1 năm 1898 – 30 tháng 6 năm 1898 169 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Matsukata Masayoshi | ||||
Kế nhiệm | Ōkuma Shigenobu | ||||
Nhiệm kỳ 8 tháng 8 năm 1892 – 31 tháng 8 năm 1896 4 năm, 23 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Matsukata Masayoshi | ||||
Kế nhiệm | Kuroda Kiyotaka (Quyền) | ||||
Nhiệm kỳ 22 tháng 12 năm 1885 – 30 tháng 4 năm 1888 2 năm, 130 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập | ||||
Kế nhiệm | Kuroda Kiyotaka | ||||
Bộ trưởng Ngoại giao | |||||
Nhiệm kỳ tháng 9 năm 1887 – tháng 2 năm 1888 | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Inoue Kaoru | ||||
Kế nhiệm | Ōkuma Shigenobu | ||||
Thống sứ của Triều Tiên | |||||
Nhiệm kỳ 21 tháng 12 năm 1905 – 14 tháng 6 năm 1909 3 năm, 175 ngày | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập | ||||
Kế nhiệm | Sone Arasuke | ||||
Thông tin cá nhân | |||||
Sinh | Hayashi Risuke 16 tháng 10 năm 1841 Tsukari, Yamaguchi, Nhật Bản | ||||
Mất | 26 tháng 10 năm 1909 (68 tuổi) Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang, Nhà Thanh | ||||
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Hirobumi Ito, Tokyo, Nhật Bản | ||||
Đảng chính trị | Độc lập (Trước năm 1900) Hiệp hội Lập hiến về Hữu nghị Chính trị (1900–1909) | ||||
Phối ngẫu | Itō Umeko | ||||
Con cái | ba con trai, hai con gái | ||||
Cha | Itō Jūzō | ||||
Alma mater | Shoka Sonjuku Đại học London | ||||
Chữ ký | ![]() | ||||
Tên tiếng Nhật | |||||
Kanji | 伊藤 博文 | ||||
Hiragana | いとう ひろぶみ | ||||
Katakana | イトウ ヒロブミ | ||||
|
Itō Hirobumi (伊藤 博文 (Y Đằng Bác Văn) Itō Hirobumi) (16 tháng 10 năm 1841 – 26 tháng 10 năm 1909, cũng được gọi là Hirofumi/Hakubun và Shunsuke thời trẻ) là một chính khách người Nhật, Toàn quyền Triều Tiên, bốn lần là Thủ tướng Nhật Bản (thứ 1, 5, 7 và 10) và là một nguyên lão. Itō bị ám sát bởi An Trọng Căn, một nhà cách mạng Triều Tiên chống lại sự sáp nhập Triều Tiên vào Đế quốc Nhật Bản. Trớ trêu thay, cái chết của Itō đã làm đẩy nhanh quá trình cuối cùng của việc chinh phục Triều Tiên.
Thủ tướng Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]
- Thứ 1: 22 tháng 12 năm 1885 - 30 tháng 4 năm 1888: 861 ngày
- Thứ 5: 8 tháng 8 năm 1892 - 31 tháng 8 năm 1896: 1485 ngày
- Thứ 7: 12 tháng 1 năm 1898 - 30 tháng 6 năm 1898: 170 ngày
- Thứ 10: 19 tháng 10 năm 1900 - 10 tháng 5 năm 1901: 204 ngày
Những năm đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]
Itō là con nuôi của Hayashi Jūzō (林十蔵 - Lâm Thập Tạng), một samurai thuộc tầng lớp thấp từ Hagi, phiên Chōshū (長州 Trường Châu) (hiện nay thuộc tỉnh Yamaguchi). Ông theo học Yoshida Shoin (吉田松陰 - Cát Điền Tùng Am) tại Shoka Sonjuku và sau này gia nhập phong trào Sonnō joi (尊皇攘夷 - Tôn hoàng nhương di), cùng với Kido Takayoshi (木戸孝允 - Mộc Hộ Hiếu Doãn). Itō được chọn là một trong nhóm Chōshū ngũ kiệt học tập tại Đại học London vào năm 1863, và kinh nghiệm của ông ở Anh đã làm ông vững tin sự cần thiết phải đi theo con đường của phương Tây của Nhật Bản.
Vào năm 1864, Itō quay lại Nhật Bản cùng với bạn học là Inoue Kaoru, cố gắng khuyến cáo phiên tộc Chōshū không nên gây chiến với các thế lực nước ngoài (Trận đánh bom Shimonoseki) về quyền được đi qua Eo biển Shimonoseki. Vào lúc đó, ông gặp Ernest Satow lần đầu tiên, sau này trở thành một người bạn lâu năm.
Sự nghiệp chính trị[sửa | sửa mã nguồn]
Sau cuộc Cải cách Minh Trị, Itō được phong chức tỉnh trưởng tỉnh Hyōgo, tư vấn trẻ tuổi cho Bộ Ngoại giao, và được gửi sang Hoa Kỳ vào năm 1870 để học hỏi hệ thống tiền tệ của phương Tây. Quay trở lại Nhật Bản vào năm 1871, ông thiết lập hệ thống thuế cho Nhật. Cũng trong cuối năm đó, ông được gửi đi cùng với phái đoàn Iwakura vòng quan thế giới với tư cách phó đoàn, trong chuyến đi này ông đã lấy được lòng tin của Okubo Toshimichi.
Vào năm 1873, Itō trở thành cố vấn chính thức, Bộ trưởng Bộ Công chính, và vào năm 1875 là chủ tịch của Hội đồng các tỉnh trưởng. Sau khi Okubo bị ám sát, ông nắm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ và nắm chắc một vị trí trung tâm trong nhà nước Minh Trị. Vào năm 1881 ông buộc Okuma Shigenobu từ chức để nắm toàn bộ quyền hành.
Itō đi đến châu Âu vào năm 1882 để học hỏi hiến pháp của các nước này, đi vắng khỏi Nhật trong gần 18 tháng. Trong khi viết ra một bản hiến pháp cho Nhật Bản, ông cũng viết nên Luật dân sự hoàng gia đầu tiên và thiết lập hệ thống nghị viện quý tộc Nhật Bản (kazoku) vào năm 1884.
Vào năm 1885, ông thương thuyết Hòa ước Thiên Tân với Lý Hồng Chương, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với triều đình nhà Thanh của Trung Quốc. Năm đó ông cũng tạo ra hệ thống chính phủ đầu tiên của Nhật Bản.
Với vai trò Thủ tướng[sửa | sửa mã nguồn]
Cũng vào năm 1885, dựa trên các ý tưởng của châu Âu, Itō thiết lập một hệ thống chính phủ, thay thế Daijō-kan như là một cơ quan nhà nước đưa ra các quyết định, và vào 22 tháng 12 năm 1885, ông trở thành Thủ tướng Nhật Bản đầu tiên.
Vào 30 tháng 4 năm 1888, Itō từ chức thủ tướng, nhưng lại đứng đầu một Cơ mật viện để nắm quyền lực đằng sau hậu trường. Vào năm 1889, ông cũng trở thành nguyên lão đầu tiên. Bản Hiến pháp Minh Trị được thông qua vào tháng 2 năm 1889.
Ông vẫn là một người có nhiều thế lực trong khi Kuroda Kiyotaka và Yamagata Aritomo, các đối thủ chính trị của ông, là thủ tướng.
Trong suốt nhiệm kì thủ tướng thứ hai của Itō (8 tháng 8 năm 1892 – 31 tháng 8 năm 1896), ông ủng hộ Chiến tranh Thanh-Nhật và thương lượng Hòa ước Shimonoseki vào tháng 3 năm 1895 với ngoại trưởng Mutsu Munemitsu đang lâm bệnh. Trong Hòa ước Thương mại và hàng hải Anh - Nhật vào năm 1894, ông đã thành công trong việc gỡ bỏ một số điều khoản không bình đẳng đã làm suy yếu quan hệ ngoại giao của Nhật kể từ đầu thời kì Minh Trị.
Trong suốt nhiệm kì thứ 3 làm thủ tướng (12 tháng 1 năm 1898 – 30 tháng 6 năm 1899), Itō đã gặp nhiều vấn đề trong chính trị giữa các đảng. Cả hai ông Jiyuto và Shimpoto đều chống lại luật thuế đất đai mới ban hành của ông, và để trả đũa, Itō giải tán Quốc hội và kêu gọi một cuộc bầu cử mới. Kết quả, cả hai đảng sáp nhập lại thành Kenseito, chiếm đa số ghế trong quốc hội, và buộc Itō phải từ chức. Bài học đó dạy cho Itō nhu cầu phải thành lập một đảng chính trị ủng hộ nhà nước, và do đó ông tổ chức thành lập Rikken Seiyukai vào năm 1900.
Itō đắc cử thủ tướng nhiệm kì thứ 4 từ 19 tháng 10 năm 1900 - 10 tháng 5 năm 1901, lần này thì phải đương đầu với sự đối lập về chính trị từ Thượng viện Nhật. Lo lắng sẽ bị đâm sau lưng về mặt chính trị, ông từ chức vào năm 1901, nhưng vẫn giữ vai trò lãnh đạo Cơ mật viện khi chức thủ tướng luân phiên thay đổi giữa Saionji Kinmochi và Katsura Taro.
Vai trò Toàn quyền Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Vào tháng 11 năm 1905, theo sau Chiến tranh Nga-Nhật, nhà nước Triều Tiên đã ký Hòa ước Ất Tỵ, làm Nhật trở thành nước bảo hộ của Triều Tiên. Itō trở thành Toàn quyền Triều Tiên đầu tiên vào 21 tháng 12 năm 1905. Ông buộc Triều Tiên Cao Tông phải thoái vị vào năm 1907 để Triều Tiên Thuần Tông lên thay, và thúc đẩy thông qua Hòa ước sáp nhập Nhật-Triều Tiên năm 1907, để Nhật có thể điều khiển toàn bộ nội vụ của Triều Tiên. Mặc cho sự nhiệt tình của ông trong vụ sáp nhập này, đối thủ chính trị của ông, Lục quân Đế quốc Nhật Bản do Yamagata Aritomo lãnh đạo, đã cho là ông làm trì hoãn việc chinh phục thuộc địa Triều Tiên, do đó Itō phải từ chức vào 14 tháng 6 năm 1909.
Bị ám sát[sửa | sửa mã nguồn]
Ito Hirobumi đã đến Cáp Nhĩ Tân, Trung Quốc vào sáng ngày 26 tháng 10 năm 1909 để gặp một sứ giả người Nga ở đây. Trong lúc ông đang chờ sứ giả người Nga đến, An Jung-geun, một nhà cách mạng Triều Tiên, đã nhanh chóng xuất hiện và rút súng bắn 7 phát đạn vào người ông từ phía sau lưng. Thủ tướng Ito đã chết ngay sau đó do bị trúng 3 phát đạn ở lưng.
Giả thuyết[sửa | sửa mã nguồn]
Nếu không bị ám sát, Ito có thể vẫn theo quân Đồng minh và đưa Chiến tranh thế giới thứ nhất đến kết thúc với phần thắng nghiêng về Liên quân Mỹ-Anh-Nga-Nhật, còn Triều Tiên vẫn là đất của Nhật Bản. Phim Lost Memories 2009 do Hàn Quốc sản xuất dựa trên giả thuyết này.
Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Hamada Kengi (1936). Prince Ito. Tokyo: Sanseido Co.
- Johnston, John T.M. (1917). World patriots. New York: World Patriots Co.
- Kusunoki Sei'ichirō (1991). Nihon shi omoshiro suiri: Nazo no satsujin jiken wo oe. Tokyo: Futami bunko.
- Nakamura Kaju (1910). Prince Ito, the man and the statesman, a brief history of his life. New York: Japanese-American commercial weekly and Anraku Pub. Co.
- Palmer, Frederick (1910). Marquis Ito: the great man of Japan. n.p.
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Itō Hirobumi. |