Hatoyama Yukio
Hatoyama Yukio | |
---|---|
鳩山 由紀夫 | |
Chân dung do Văn phòng Quan hệ Công chúng Nội các công bố (2007) | |
Thủ tướng thứ 93 của Nhật Bản | |
Nhiệm kỳ 16 tháng 9 năm 2009 – 8 tháng 6 năm 2010 265 ngày | |
Thiên hoàng | Akihito |
Phó Thủ tướng | Kan Naoto |
Tiền nhiệm | Asō Tarō |
Kế nhiệm | Kan Naoto |
Hạ Nghị sĩ đại diện cho Khu vực 9 Hokkaido | |
Nhiệm kỳ 23 tháng 6 năm 1986 – 16 tháng 12 năm 2012 26 năm, 176 ngày | |
Tiền nhiệm | Khu bầu cử được thành lập |
Kế nhiệm | Horii Manabu |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 11 tháng 2 năm 1947 (77 tuổi) Bunkyō, Tokyo, Nhật Bản |
Đảng chính trị | Đảng Dân chủ Tự do (Trước năm 1993) Tân Đảng Sakigake (1993–1996) Đảng Dân chủ (1996–1998) Đảng Dân chủ Nhật Bản (1998–2012) |
Phối ngẫu | Hatoyama Miyuki (1975–nay) |
Con cái | 1 |
Cha mẹ | Hatoyama Iichirō |
Alma mater | Đại học Tokyo Đại học Stanford Đại học Hồng Kông [1] |
Chuyên nghiệp | Kỹ sư Giáo sư |
Tôn giáo | Baptist[2] |
Chữ ký | |
Website | Official website Official Twitter |
Hatoyama Yukio (Nhật:
Xuất thân
[sửa | sửa mã nguồn]Hatoyama Yukio xuất thân trong một gia đình danh giá. Ông nội của ông là Hatoyama Ichirō, Thủ tướng Nhật Bản thời kỳ 1954-1956 và là một trong người sáng lập ra Đảng Dân chủ Tự do. Ông ngoại của ông là Ishibashi Shujiro, người sáng lập Công ty Bridgestone. Cha của ông, Hatoyama Iichiro từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Người anh trai của ông, Hatoyama Kunio, cũng là một chính trị gia nổi tiếng ở Nhật Bản và là Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong nội các của Abe Shinzo và Fukuda Yasuo, Bộ trưởng Bộ Tổng hợp trong nội các của Aso Taro cho đến ngày 12 tháng 6 năm 2009.
Trước khi trở thành chính trị gia, Hatoyama Yukio từng là giảng viên của Đại học Công nghệ Tokyo và Đại học Senshu. Ông học đại học ở Đại học Tokyo và lấy bằng tiến sĩ cơ khí tại Đại học Stanford.[4]
Sự nghiệp chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1986, Hatoyama với tư cách là đại diện của Đảng Dân chủ Tự do trở thành nghị sĩ Hạ nghị viện. Năm 1993, Hatoyama cùng một số đảng viên khác của đảng này rút khỏi đảng và thành lập Shinto Sakigake. Sau đó, đến năm 1996, Hatoyama cùng Kan Naoto rút khỏi Shinto Sakigake để thành lập Đảng Dân chủ. Cuộc vận động thành lập đảng mới tốn hàng tỷ yên nhưng được mẹ của Hatoyama tài trợ.[5]
Năm 1999, Hatoyama trở thành Chủ tịch Đảng Dân chủ và là lãnh đạo phe đối lập trong Quốc hội. Năm 2002, ông từ chức do những rắc rối xung quanh việc sáp nhập Đảng Dân chủ với Đảng Tự do. Ông làm Tổng Thư ký Đảng Dân chủ cho đến khi quay trở lại làm Chủ tịch Đảng vào tháng 5 năm 2009.
Ngày 8 tháng 6 năm 2010, ông Hatoyama quyết định từ chức vì đã không thực hiện được cam kết di dời căn cứ quân sự Futenma của Hoa Kỳ ra khỏi đảo Okinawa.[6]
Hình ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “CityU to confer honorary doctoral degrees on three distinguished persons”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2017.
- ^ Gheddo, Piero. “Japan turning the page, closer to the Church's social doctrine”. Asia News. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
- ^ New Prime Minister Hatoyama forms DPJ-led Cabinet[liên kết hỏng]
- ^ Tiểu sử Hatoyama Yukio(tiếng Anh)
- ^ Takahashi, Kosuke. "Japan on the brink of a new era Lưu trữ 2009-10-02 tại Wayback Machine", Asia Times, 29 tháng 8 năm 2009
- ^ Thủ tướng Nhật từ chức
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hatoyama Yukio. |