Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên tắc tập trung dân chủ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Không có tóm lược sửa đổi
Lumerita (thảo luận | đóng góp)
n Lumerita đã đổi Đường lối tập trung dân chủ thành Nguyên tắc tập trung dân chủ qua đổi hướng
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 08:59, ngày 18 tháng 9 năm 2015

Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức cộng sản và được trình bày trong điều lệ chính thức của các Đảng Cộng sản. Lenin, người đầu tiên nhắc tới khái niệm "Tập trung dân chủ", giải thích rằng tập trung dân chủtự do trong thảo luận nhưng thống nhất trong hành động[1] Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kêu gọi thực thi mặc dù có thể có cách định nghĩa khác.

Theo điều lệ chính thức của các đảng cộng sản, tất cả các cơ quan lãnh đạo và các bí thư các cấp được bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại hội toàn thể đảng viên hay đại hội đại biểu đảng viên. Theo quy định chính thức, tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các đại biểu cấp dưới sẽ quyết định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên. Ý nghĩa dân chủ của nguyên tắc này là các cơ quan và chức vụ lãnh đạo được hình thành thông qua bầu cử, các nghị quyết của Đảng chỉ có thể thông qua bởi cơ quan được bầu. Ý nghĩa của tập trung là quyết định của tổ chức Đảng cấp trên là bắt buộc với các tổ chức Đảng cấp dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên phải chấp hành. Mỗi vấn đề của Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra quyết định. Sau khi có quyết định, vấn đề đó phải được thực hiện mà không có sự tranh cãi, chống đối [cần dẫn nguồn]; đảng viên dù có ý kiến khác khi phát biểu công khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ không được theo ý mình. Trên thực tế, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ vì nó có thể tập trung sức mạnh của tập thể vào một mục tiêu cụ thể và che giấu những bất đồng trong nội bộ.

Việc thực hiện nguyên tắc này được một số nhà nghiên cứu về chính trị cho rằng đã làm cho chủ nghĩa xã hội mà các đảng cộng sản theo đuổi biến thành chủ nghĩa toàn trị [cần dẫn nguồn]. Một số nhà nghiên cứu khác phủ nhận giả thuyết này. Karl Popper, nhà triết học người Áo cho rằng đây chính là nguyên nhân làm cho xã hội do các Đảng Cộng sản nắm quyền trở thành một "xã hội đóng" đối lập với "xã hội mở" (xã hội cho phép người dân bày tỏ sự bất đồng chính kiến) mà ông đề xướng.[2]. Tuy nhiên các học giả cánh tả lại cho rằng quy tắc Tập trung dân chủ là một phương pháp phù hợp để duy trì sự dân chủ nhưng vẫn đảm bảo sự thống nhất cao trong Đảng, tránh những tình trạng chia rẽ gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Có thể hiểu quy tắc Tập trung dân chủ là một mô hình thu nhỏ của hình thức bầu cử nghị viện khi người dân bầu ra quốc hội và quốc hội ra luật để khống chế hành vi của nhân dân, ở đây, Nhân dân là Đảng viên.

Hồ Chí Minh thì viết "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, thế là vừa dân chủ, vừa tập trung."[3]

Nguyên tắc tập trung dân chủ kiểu Lenin

Nguyên tắc tập trung dân chủ được Lenin phát triển trong tác phẩm "Làm gì?" (1901/1902), mà dựa vào đảng SPDĐế chế Đức. Lenin đòi hỏi trong cuốn sách này:

  1. Một mặt tập trung hóa bộ máy đảng, có nghĩa là, cấp dưới phải tuân theo cấp trên (cấp trên có quyền ra lệnh cho cấp dưới),
  2. Mặt khác những người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước cử tri, và cử tri phải có quyền hạ bệ giới lãnh đạo.
  3. Một kỷ luật đảng nghiêm túc, tại mọi cấp theo đó tiểu số phải tuân theo đa số.

Cấu trúc của đảng theo Lenin được viết chính sác hơn trong tác phẩm "Ein Schritt vorwärts, zwei Schritte zurück" (Một bước tiến, hai bước lùi) (1904). Trong đó Lenin viết, cấu trúc đảng thì có một phần nào quan liêu, bởi vì nó được tổ chức từ trên xuống dưới.

Đường lối chính trị tập trung này được gọi là dân chủ, vì các cấp cao hơn được bầu từ các cấp dưới, và phải chịu trách nhiệm trước cấp dưới và như vậy đại diện cho quyết định của đa số đảng viên, trong khi cấp dưới chỉ đại diện cho một số đảng viên mà thôi. Do sự bầu cử và hạ bệ do bầu cử mà có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, nó tránh được tình trạng lợi dụng quyền lực.

Việc kiểm soát này tuy nhiên bị các nguyên tắc khác cản trở: mặc dù Lenin cho mỗi người có quyền chỉ trích, nhưng lại cấm hình thành các nhóm. Điều này gây lợi thế cho người đang có quyền lãnh đạo đối với người đối lập và cuối cùng đưa tới việc lựa chọn những người ứng cử theo ý người lãnh đạo đảng.

Ý tưởng của đường lối tập trung dân chủ, mà được bàn thảo tại đại hội thứ 2 đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga vào 30 tháng 7 năm 1903 tại London, có lẽ đã góp phần đưa tới việc phân chia ra thành nhóm Bolschewiki (Đa số), mà ủng hộ, và Menschewiki (thiểu số), chống lại học thuyết Lenin. Theo thời gian học thuyết không thỏa hiệp và quá khích này đã lôi cuốn rất nhiều người theo nhóm Bolschewiki. Đặc biệt Rosa Luxemburg và sau này cả Leo Trotzki đã chỉ trích việc lợi dụng từ tập trung dân chủ.

Tại Cộng hòa Weimar 1919 những cuộc thảo luận về tập trung dân chủ cũng góp phần đưa tới việc tách rời khỏi đảng Cộng sản Đức và thành lập đảng công nhân Cộng sản Đức, phát triển ra chủ nghĩa Cộng sản Hội đồng Công nhân.

Dưới sự tham dự của Lenin tại hội nghị thứ 2 của Đệ tam Quốc tế 1920, đường lối tập trung dân chủ được chấp thuận là nguyên tắc tổ chức đảng và có hiệu lực cho tất cả các đảng cộng sản.

Tập trung dân chủ tại Đông Đức

Dưới chế độ Đông Đức tập trung dân chủ được hiểu như là một hình thức tổ chức các tổ chức quần chúng và chính quyền khác hẳn với Nguyên tắc lãnh tụ (Führerprinzip) và dân chủ tư sản. Nó gồm có các nguyên tắc dưới đây:

  • Các nhà lãnh đạo được lựa chọn từ dưới lên trên
  • Các ứng cử viên được nhóm lãnh đạo chọn ra trước
  • Tất cả các cơ quan lãnh đạo phải chịu trách nhiệm và có thể bị hạ bệ
  • Các cơ quan lãnh đạo phải luôn được kiểm soát bởi người dân bầu
  • Quyền ra lệnh từ cấp trên xuống cấp dưới
  • Quyền tham dự của mọi người để giải quyết những vấn đề chủ yếu

Trên thực tế thì quyền ra lệnh của cấp trên là điểm chủ yếu. Những quyết định về nội dung và nhân viên của cấp trên phải được tuân theo. Việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chỉ có trên mặt giấy tờ. Được chọn qua cuộc bầu cử mở là những ứng cử viên mà cấp trên đưa ra. Được thực hiện không phải yếu tố dân chủ mà là nguyên tắc tập trung.[4].

Các cấp gồm có tổ chức căn bản (hãng xưởng, trường học, các lãnh thổ), huyện, tỉnh và trung ương. Các người lãnh đạo được bầu được hỗ trợ bởi các nhân viên chính thức. Nhóm lãnh đạo tự chọn lấy người từ dưới vào nhóm, cho nên các hình thức dân chủ chỉ là rỗng tếch vô nghĩa.

Chú thích

  1. ^ Lenin, V. (1906). “Report on the Unity Congress of the R.S.D.L.P.” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2008.
  2. ^ 1945: Die offene Gesellschaft und ihre Feinde ("Xã hội mở và những kẻ thù của nó") (2 cuốn) ISBN 3-16-148068-6ISBN 3-16-148069-4
  3. ^ Dân chủ tập trung, Báo Cứu quốc số 2329, 4/5/1953
  4. ^ Klaus Marxen, Gerhard Werle, Toralf Rummler, Petra Schäfter: Strafjustiz und DDR-Unrecht, 2002, ISBN 3-89949-007-X, Seite 655