Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khủng long bạo chúa”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 183: Dòng 183:


===Vận động===
===Vận động===
[[File:Tyrannosaurid trackway.png|thumb|Đường dấu chân duy nhất được biết đến của tyrannosaurid (''Bellatoripes fredlundi''), từ [[Thành hệ Wapiti]], [[British Columbia]]]]
Có hai vấn đề chính liên quan đến khả năng di chuyển của ''Tyrannosaurus'': chúng có thể quay người tốt cỡ nào; và tốc độ chạy đường thẳng của chúng là bao nhiêu. Cả hai vấn đề đều dẫn đến tranh luận về loài này là loài săn mồi hay loài ăn xác.
Có hai vấn đề chính liên quan đến khả năng di chuyển của ''Tyrannosaurus'': chúng có thể quay người tốt cỡ nào; và tốc độ chạy đường thẳng của chúng là bao nhiêu. Cả hai vấn đề đều dẫn đến tranh luận về loài này là loài săn mồi hay loài ăn xác.


''Tyrannosaurus'' quay người rất chậm chạp, chúng có thể mất từ ​​một đến hai giây để quay một góc 45° - điều mà con người, được định hướng theo chiều dọc và không có đuôi, có thể quay dưới một giây.[132] Nguyên nhân gây ra sự khó khăn này là [[mômen quán tính]], vì phần lớn khối lượng của ''Tyrannosaurus'' phân bố xa ra khỏi trọng tâm của chúng, giống như một người đang mang theo tấm gỗ nặng theo chiều ngang - mặc dù vậy chúng đã có thể giảm khoảng cách trung bình đó bằng cách còng lưng và đuôi của nó rụt đầu và chân trước của chúng về gần cơ thể hơn, giống như một người trượt băng co tay lại để quay nhanh hơn.
''Tyrannosaurus'' quay người rất chậm chạp, chúng có thể mất từ ​​một đến hai giây để quay một góc 45° - điều mà con người, được định hướng theo chiều dọc và không có đuôi, có thể quay dưới một giây.<ref>{{Cite journal|vauthors=Hutchinson JR, Ng-Thow-Hing V, Anderson FC |title=A 3D interactive method for estimating body segmental parameters in animals: application to the turning and running performance of Tyrannosaurus rex |journal=Journal of Theoretical Biology |volume=246 |issue=4 |pages=660–80 |date=June 2007 |pmid=17363001 |doi=10.1016/j.jtbi.2007.01.023 |url=}}</ref> Nguyên nhân gây ra sự khó khăn này là [[mômen quán tính]], vì phần lớn khối lượng của ''Tyrannosaurus'' phân bố xa ra khỏi trọng tâm của chúng, giống như một người đang mang theo tấm gỗ nặng theo chiều ngang - mặc dù vậy chúng đã có thể giảm khoảng cách trung bình đó bằng cách còng lưng và đuôi của nó rụt đầu và chân trước của chúng về gần cơ thể hơn, giống như một người trượt băng co tay lại để quay nhanh hơn.<ref name="CarrierWalterLee2000TurningPerformance">{{Cite journal|title=Influence of rotational inertia on turning performance of theropod dinosaurs: clues from humans with increased rotational inertia |journal=[[Journal Of Experimental Biology]] |volume=204 |issue=22 |pages=3917–3926 |url=http://jeb.biologists.org/cgi/content/full/204/22/3917 |first1=David R. |last1=Carrier |first2=Rebecca M. |last2=Walter |first3=David V. |last3=Lee |pmid=11807109 |date=November 15, 2001 }}</ref>


Các nhà khoa học đã tạo ra một loạt các ước tính về tốc độ tối đa, chủ yếu là vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), nhưng một vài ước tính nhỏ tới 5–11 m/s (18-40 km/h; 11–25 dặm/giờ), và một vài cao tới 20 m/s (72 km/h; 45 dặm/giờ). Các nhà nghiên cứu phải dựa vào các kỹ thuật ước tính khác nhau bởi vì, trong khi có rất nhiều vết dấu chân của loài chân thú lớn đi bộ, cho đến nay chưa có các vết chân mà chúng chạy - và sự vắng mặt này có thể chỉ ra rằng chúng không chạy.[134] Các nhà khoa học có thể chỉ ra rằng ''Tyrannosaurus'' có xương rỗng và các đặc điểm khác làm nhẹ trọng lượng cơ thể và giữ trọng lượng trong khoảng chỉ 4,5 tấn hoặc giống các động vật khác như [[đà điểu]] và [[ngựa]] với đôi chân dài, linh hoạt có thể đạt được tốc độ cao thông qua các bước sải chậm nhưng dài hơn. Một số người cũng cho rằng ''Tyrannosaurus'' có cơ bắp chân tương đối khỏe hơn so với bất kỳ loài động vật nào ngày nay, có thể cho phép chúng chạy nhanh với tốc độ 40–70 km/h (25–43 dặm/giờ).
Các nhà khoa học đã tạo ra một loạt các ước tính về tốc độ tối đa, chủ yếu là vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), nhưng một vài ước tính nhỏ tới 5–11 m/s (18-40 km/h; 11–25 dặm/giờ), và một vài cao tới 20 m/s (72 km/h; 45 dặm/giờ). Các nhà nghiên cứu phải dựa vào các kỹ thuật ước tính khác nhau bởi vì, trong khi có rất nhiều vết dấu chân của loài chân thú lớn đi bộ, cho đến nay chưa có các vết chân mà chúng chạy - và sự vắng mặt này có thể chỉ ra rằng chúng không chạy.<ref name="Hutchinson2004">{{Cite journal |author=Hutchinson, J.R. |title=Biomechanical Modeling and Sensitivity Analysis of Bipedal Running Ability. II. Extinct Taxa |journal=Journal of Morphology |volume=262 |issue=1 |pages=441–461 |year=2004 |url=http://www.rvc.ac.uk/AboutUs/Staff/jhutchinson/documents/JRH13.pdf |doi=10.1002/jmor.10240 |format=PDF |pmid=15352202 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20081031093050/http://www.rvc.ac.uk/AboutUs/Staff/jhutchinson/documents/JRH13.pdf |archivedate=2008-10-31 |df= }}</ref> Các nhà khoa học có thể chỉ ra rằng ''Tyrannosaurus'' có xương rỗng và các đặc điểm khác làm nhẹ trọng lượng cơ thể và giữ trọng lượng trong khoảng chỉ 4,5 tấn hoặc giống các động vật khác như [[đà điểu]] và [[ngựa]] với đôi chân dài, linh hoạt có thể đạt được tốc độ cao thông qua các bước sải chậm nhưng dài hơn. Một số người cũng cho rằng ''Tyrannosaurus'' có cơ bắp chân tương đối khỏe hơn so với bất kỳ loài động vật nào ngày nay, có thể cho phép chúng chạy nhanh với tốc độ 40–70 km/h (25–43 dặm/giờ).<ref name="HutchinsonGarcia2002TrexSlow">{{Cite journal|vauthors=Hutchinson JR, Garcia M |title=Tyrannosaurus was not a fast runner |journal=Nature |volume=415 |issue=6875 |pages=1018–21 |date=February 2002 |pmid=11875567 |doi=10.1038/4151018a |url=}}</ref>


[[Jack Horner]] và [[Don Lessem]] lập luận vào năm 1993 rằng ''Tyrannosaurus'' rất chậm và có lẽ không thể chạy (không có giai đoạn trong không trung giữa các sải chân), bởi vì tỷ lệ xương đùi đến xương chày dài hơn 1, như trong hầu hết các loài khủng long chân thú lớn và giống như loài [[voi]] hiện đại.[52] Holtz (1998) lưu ý rằng tyrannosaurids và một số nhóm liên quan chặt chẽ với chúng có thành phần chi sau xa hơn (cẳng chân cộng với ngón chân) so với chiều dài xương đùi không giống với hầu hết các loài chân thú khác, và tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng có xuơng bàn chân lồng vào nhau giúp truyền lực sải từ chân đến bàn chân thấp hiệu quả hơn so với các loài khủng long chân thú trước đó. Do đó, ông kết luận rằng tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng là những con khủng long chân thú lớn nhanh nhất.[136] Thomas Holtz Jr. đã lặp lại những dẫn chứng này trong một bài giảng năm 2013 của ông, nói rằng allosaurs khổng lồ có đôi chân ngắn hơn nếu cùng kích thước cơ thể so với ''Tyrannosaurus'', trong khi chân của ''Tyrannosaurus'' thì dài hơn, mảnh hơn và xương bàn chân đan xen hơn với cùng kích thước cơ thể; thuộc tính của loài động vật chuyển động nhanh hơn.
[[Jack Horner]] và [[Don Lessem]] lập luận vào năm 1993 rằng ''Tyrannosaurus'' rất chậm và có lẽ không thể chạy (không có giai đoạn trong không trung giữa các sải chân), bởi vì tỷ lệ xương đùi đến xương chày dài hơn 1, như trong hầu hết các loài khủng long chân thú lớn và giống như loài [[voi]] hiện đại.<ref name="hornerlessem1993"/> Holtz (1998) lưu ý rằng tyrannosaurids và một số nhóm liên quan chặt chẽ với chúng có thành phần chi sau xa hơn (cẳng chân cộng với ngón chân) so với chiều dài xương đùi không giống với hầu hết các loài chân thú khác, và tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng có xuơng bàn chân lồng vào nhau giúp truyền lực sải từ chân đến bàn chân thấp hiệu quả hơn so với các loài khủng long chân thú trước đó. Do đó, ông kết luận rằng tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng là những con khủng long chân thú lớn nhanh nhất.<ref name="Holtz1998TaxonomyCoelurosauria">{{Cite journal|first=Thomas R. |last=Holtz |authorlink=Thomas R. Holtz, Jr. |title=Phylogenetic taxonomy of the Coelurosauria (Dinosauria; Theropoda) |journal=[[Journal Of Paleontology]] |date=May 1, 1996 |volume=70 |issue=3 |pages=536–538 |url=http://jpaleontol.geoscienceworld.org/cgi/content/abstract/70/3/536 |accessdate=October 3, 2008 }}</ref> Thomas Holtz Jr. đã lặp lại những dẫn chứng này trong một bài giảng năm 2013 của ông, nói rằng allosaurs khổng lồ có đôi chân ngắn hơn nếu cùng kích thước cơ thể so với ''Tyrannosaurus'', trong khi chân của ''Tyrannosaurus'' thì dài hơn, mảnh hơn và xương bàn chân đan xen hơn với cùng kích thước cơ thể; thuộc tính của loài động vật chuyển động nhanh hơn.<ref name="HoltzLecture2013"/>
[[File:T. rex versus A. atrox feet.JPG|thumb|Chân của ''T. rex'' cho thấy xương [[arctometatarsalian]] bị nén của phần [[xương bàn chân]] giữa, so sánh với chân của ''[[Allosaurus]]'']]
Một nghiên cứu của Eric Snively và Anthony P. Russel xuất bản năm 2003 cũng phát hiện ra rằng arctometatarsals của tyrannosaurid và dây chằng đàn hồi phối hợp cùng nhau trong cái mà ông gọi là 'mô hình khóa kéo' để tăng cường sức mạnh cho chân của ''Tyrannosaurus'', tăng tính ổn định và tăng sức chống lại sự phân ly hơn so với các họ chân thú khác; trong khi vẫn cho phép khả năng phục hồi mà đã giảm trong bộ đà điểu, ngựa, hươu cao cổ và một số động vật khác với xuơng chân. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dây chằng đàn hồi trong các động vật có xương sống lớn hơn có thể dự trữ và tạo ra năng lượng đàn hồi lớn hơn, có thể cải thiện hiệu quả vận động và giảm năng lượng biến dạng được truyền tới xương. Nghiên cứu cho thấy rằng cơ chế này có thể đã hoạt động rất hiệu quả trong tyrannosaurids. Do đó, nghiên cứu sẽ phải liên quan đến việc xác định loại dây chằng gắn với xuơng bàn chân, sau đó tìm hiểu làm thế nào để chúng có thể phối hợp cùng nhau và so sánh nó với các loại khác của khủng long chân thú và các động vật tương tự hiện đại ngày nay. Các nhà khoa học nhận thấy rằng arctometatarsals có thể đã cho phép tyrannosaurid hấp thụ các lực như giảm tốc tuyến tính, gia tốc pháp tuyến và xoắn hiệu quả hơn so với các loài chân thú khác. Nghiên cứu nêu ra rằng điều này có thể ngụ ý, mặc dù không chứng minh, rằng tyrannosaurids như ''Tyrannosaurus'' có sự nhanh nhẹn hơn so với các loài chân thú lớn khác không có xương arctometatarsus.<ref>{{cite web |url=http://www.ohio.edu/people/es180210/Snively%20pdfs/snively_russell_jmorph_arcto.pdf |title=Archived copy |accessdate=2015-10-17 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150924071555/http://www.ohio.edu/people/es180210/Snively%20pdfs/snively_russell_jmorph_arcto.pdf |archivedate=2015-09-24 |df= }}, Snively, Eric, Russell, Anthony P. (2003) "Kinematic Model of Tyrannosaurid (Dinosauria: Theropoda) Arctometatarsus Function" ''Journal of Morphology''255(2)215–227. {{DOI|10.1002/jmor.10059}}</ref>


Christiansen (1998) ước tính rằng xương chân của ''Tyrannosaurus'' không mạnh hơn đáng kể so với loài voi, tương đối hạn chế ở tốc độ tối đa và không bao giờ chạy (không có thời gian trong không khí), và do đó đề xuất rằng tốc độ tối đa của loài này sẽ vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), tức là tốc độ của một người chạy nước rút. Nhưng ông cũng lưu ý rằng những ước tính như vậy phụ thuộc vào nhiều giả định không rõ ràng.<ref name="Christiansen1998Strength">{{Cite journal|author=Christiansen, P. |title=Strength indicator values of theropod long bones, with comments on limb proportions and cursorial potential |journal=Gaia |year=1998 |volume=15 |pages=241–255 |url=http://www.mnhn.ul.pt/geologia/gaia/19.pdf |format=PDF |issn=0871-5424 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20081031093050/http://www.mnhn.ul.pt/geologia/gaia/19.pdf |archivedate=2008-10-31 |df= }}</ref>
Một nghiên cứu của Eric Snively và Anthony P. Russel xuất bản năm 2003 cũng phát hiện ra rằng arctometatarsals của tyrannosaurid và dây chằng đàn hồi phối hợp cùng nhau trong cái mà ông gọi là 'mô hình khóa kéo' để tăng cường sức mạnh cho chân của ''Tyrannosaurus'', tăng tính ổn định và tăng sức chống lại sự phân ly hơn so với các họ chân thú khác; trong khi vẫn cho phép khả năng phục hồi mà đã giảm trong bộ đà điểu, ngựa, hươu cao cổ và một số động vật khác với xuơng chân. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dây chằng đàn hồi trong các động vật có xương sống lớn hơn có thể dự trữ và tạo ra năng lượng đàn hồi lớn hơn, có thể cải thiện hiệu quả vận động và giảm năng lượng biến dạng được truyền tới xương. Nghiên cứu cho thấy rằng cơ chế này có thể đã hoạt động rất hiệu quả trong tyrannosaurids. Do đó, nghiên cứu sẽ phải liên quan đến việc xác định loại dây chằng gắn với xuơng bàn chân, sau đó tìm hiểu làm thế nào để chúng có thể phối hợp cùng nhau và so sánh nó với các loại khác của khủng long chân thú và các động vật tương tự hiện đại ngày nay. Các nhà khoa học nhận thấy rằng arctometatarsals có thể đã cho phép tyrannosaurid hấp thụ các lực như giảm tốc tuyến tính, gia tốc pháp tuyến và xoắn hiệu quả hơn so với các loài chân thú khác. Nghiên cứu nêu ra rằng điều này có thể ngụ ý, mặc dù không chứng minh, rằng tyrannosaurids như ''Tyrannosaurus'' có sự nhanh nhẹn hơn so với các loài chân thú lớn khác không có xương arctometatarsus.


Farlow và cộng sự (1995) đã lập luận rằng một con ''Tyrannosaurus'' nặng 5,4 tấn đến 7,3 tấn sẽ bị thương nặng hoặc thậm chí tử vong nếu nó ngã trong khi di chuyển nhanh, vì thân nó sẽ va đập vào mặt đất với tốc độ giảm 6 g (gấp sáu lần gia tốc trọng trường, hoặc khoảng 60 m/s²) và cánh tay nhỏ bé của nó không thể làm gì để giảm tác động.<ref name=farlowetal1995/> [[Hươu cao cổ]] được biết là có thể phi nước đại ở tốc độ 50 km/h (31 dặm/giờ), bất chấp nguy cơ chúng có thể bị gãy chân hoặc tệ hơn, có thể gây tử vong ngay cả trong môi trường an toàn như vườn thú.<ref>{{cite web| url=http://www.wildlifesafari.info/giraffe.html |publisher=WildlifeSafari.info |title=Giraffe |accessdate=April 29, 2006}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.zoo.org/page.aspx?pid=2170#1946-1959 |title=Chronological History of Woodland Park Zoo&nbsp;– Chapter 4 |accessdate=October 24, 2014}}</ref> Do đó, ''Tyrannosaurus'' cũng có thể di chuyển nhanh khi cần thiết và phải chấp nhận những rủi ro như vậy.<ref name="Alexander2006DinoBioMechanics">{{Cite journal|author=Alexander, R.M. |title=Dinosaur biomechanics |journal=Proc Biol Sci |date=August 7, 2006 |volume=273 |issue=1596 |pages=1849–1855 |doi=10.1098/rspb.2006.3532 |pmid=16822743 |pmc=1634776}}</ref><ref name="Hanna2002MultipleInjuriesBigAl">{{Cite journal|last=Hanna |first=Rebecca R. |year=2002 |title=Multiple injury and infection in a sub-adult theropod dinosaur (''Allosaurus fragilis'') with comparisons to allosaur pathology in the Cleveland-Lloyd dinosaur quarry collection |journal=Journal of Vertebrate Paleontology |volume=22 |issue=1 |pages=76–90 |doi=10.1671/0272-4634(2002)022[0076:MIAIIA]2.0.CO;2|issn=0272-4634}} catalogs the injuries of the ''Allosaurus'' known as "Big Al"&nbsp;– at least one was attributed to a fall.</ref>
Christiansen (1998) ước tính rằng xương chân của ''Tyrannosaurus'' không mạnh hơn đáng kể so với loài voi, tương đối hạn chế ở tốc độ tối đa và không bao giờ chạy (không có thời gian trong không khí), và do đó đề xuất rằng tốc độ tối đa của loài này sẽ vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), tức là tốc độ của một người chạy nước rút. Nhưng ông cũng lưu ý rằng những ước tính như vậy phụ thuộc vào nhiều giả định không rõ ràng.


Trong một nghiên cứu khác, Gregory S. Paul đã chỉ ra rằng đầu gối linh hoạt và cách di chuyển bằng đầu ngón của ''Tyrannosaurus'' có khả năng thích nghi tốt hơn để chạy so với voi hoặc người, chỉ ra rằng ''Tyrannosaurus'' có một xương chậu lớn và xương cnemial có thể hỗ trợ các cơ lớn cần thiết để chạy . Ông cũng đề cập rằng công thức của Alexander (1989) để tính toán tốc độ bằng sức mạnh của xương chỉ một phần đáng tin cậy. Ông cho rằng công thức đó quá phụ thuộc vào chiều dài xương; làm cho xương dài yếu một cách nhân tạo. Ông cũng chỉ ra rằng nguy cơ bị thương trong chiến đấu có giá trị rủi ro cao hơn so với lúc ngã khi đang chạy, khiến ''Tyrannosaurus'' có thể chọn việc chạy trước khi định chiến đấu.<ref name="GSPaul2000">{{cite journal | last1 = Paul | first1 = Gregory S. | year = 2000 | title = Limb design, function and running performance in ostrich-mimics and tyrannosaurs | journal = Gaia | volume = 15 | pages =257–270 | url = http://gspauldino.com/GaiaLimbdesign.pdf }}</ref>
Farlow và cộng sự (1995) đã lập luận rằng một con ''Tyrannosaurus'' nặng 5,4 tấn đến 7,3 tấn sẽ bị thương nặng hoặc thậm chí tử vong nếu nó ngã trong khi di chuyển nhanh, vì thân nó sẽ va đập vào mặt đất với tốc độ giảm 6 g (gấp sáu lần gia tốc trọng trường, hoặc khoảng 60 m/s²) và cánh tay nhỏ bé của nó không thể làm gì để giảm tác động.[16] [[Hươu cao cổ]] được biết là có thể phi nước đại ở tốc độ 50 km/h (31 dặm/giờ), bất chấp nguy cơ chúng có thể bị gãy chân hoặc tệ hơn, có thể gây tử vong ngay cả trong môi trường an toàn như vườn thú.[139][140] Do đó, ''Tyrannosaurus'' cũng có thể di chuyển nhanh khi cần thiết và phải chấp nhận những rủi ro như vậy.
[[File:Tyrannosaurus rex mmartyniuk.png|thumb|left|Phục dựng dáng đi của ''T.&nbsp;rex'']]
Nghiên cứu gần đây nhất về sự vận động của ''Tyrannosaurus'' chỉ ra rằng chúng không thể hỗ trợ tốc độ nhanh hơn 40 km/h (25 dặm/giờ), tức tốc độ vừa phải khi thực hiện động tác chạy. Ví dụ, một bài báo năm 2002 trên tạp chí ''[[Nature]]'' đã sử dụng một mô hình toán học (dược xác nhận bằng cách áp dụng nó cho ba động vật sống, [[cá sấu]], [[gà]] và con người; sau đó tới tám loài khác bao gồm [[đà điểu châu Úc]] và đà điểu thường<ref name="Hutchinson2004" />) để xác định số lượng cơ cần thiết để một con vật có thể chạy (trên 40 km/h hoặc 25 dặm/giờ).<ref name="HutchinsonGarcia2002TrexSlow"/> Họ phát hiện ra rằng tốc độ tối đa được đề xuất vượt quá 40 km/h (25 dặm/giờ) là không khả thi, bởi vì nó sẽ đòi hỏi cơ bắp chân rất lớn (chiếm hơn khoảng 40-86% tổng khối lượng cơ thể). Ngay cả tốc độ nhanh vừa phải sẽ yêu cầu cơ bắp chân to khỏe. Cuộc thảo luận này rất khó để giải quyết, vì ta không thể biết được cơ bắpchaan của ''Tyrannosaurus'' lớn cỡ nào. Nếu nó nhỏ hơn, chúng chỉ có thể đi bộ hoặc chạy bộ vào khoảng 18 km/h (11 dặm/giờ).<ref name="HutchinsonGarcia2002TrexSlow"/>


Một nghiên cứu trong năm 2007 đã sử dụng các mô hình máy tính để ước tính tốc độ chạy, dựa trên dữ liệu được lấy trực tiếp từ các mẫu hóa thạch, và tuyên bố rằng ''Tyrannosaurus rex'' có tốc độ chạy tối đa là 8 m/s (29 km/h; 18 dặm/giờ). Một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp trung bình sẽ chậm hơn một chút, trong khi một người chạy nước rút có thể đạt tới tốc độ 12 m/s (43 km/h; 27 dặm/giờ). Các mô hình máy tính này dự đoán tốc độ tối đa 17,8 m/s (64 km/h; 40 dặm/giờ) đối với một con ''[[Composognathus]]'' nặng 3 kilôgam (6,6 lb).<ref name="SellersManning2007ProcRSocB">{{Cite journal| title=Estimating dinosaur maximum running speeds using evolutionary robotics
Trong một nghiên cứu khác, Gregory S. Paul đã chỉ ra rằng đầu gối linh hoạt và cách di chuyển bằng đầu ngón của ''Tyrannosaurus'' có khả năng thích nghi tốt hơn để chạy so với voi hoặc người, chỉ ra rằng ''Tyrannosaurus'' có một xương chậu lớn và xương cnemial có thể hỗ trợ các cơ lớn cần thiết để chạy . Ông cũng đề cập rằng công thức của Alexander (1989) để tính toán tốc độ bằng sức mạnh của xương chỉ một phần đáng tin cậy. Ông cho rằng công thức đó quá phụ thuộc vào chiều dài xương; làm cho xương dài yếu một cách nhân tạo. Ông cũng chỉ ra rằng nguy cơ bị thương trong chiến đấu có giá trị rủi ro cao hơn so với lúc ngã khi đang chạy, khiến ''Tyrannosaurus'' có thể chọn việc chạy trước khi định chiến đấu.
|journal=Proc. R. Soc. B |doi=10.1098/rspb.2007.0846 |date=July 2007 |url=http://dinonews.net/rubriq/articles.php5?action=open&ref=2007_sellers_speed |author1=Sellers, W.I. |author2=Manning, P.L. |lastauthoramp=yes |volume=274 |pages=2711–6 | pmid=17711833 | issue=1626 | pmc=2279215}}</ref><ref>{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/6956867.stm|title=T. rex 'would outrun footballer' |last=Seward|first=L|date=August 21, 2007|publisher=BBCNews|accessdate=October 16, 2008}}</ref> (có thể là một cá thể chưa trưởng thành).<ref name=compysize>{{Cite journal|last1=Callison|first1=G.|last2=Quimby |first2=H. M. |year=1984 |title=Tiny dinosaurs: Are they fully grown? |journal=Journal of Vertebrate Paleontology |volume=3 |pages=200–209 |doi=10.1080/02724634.1984.10011975 |url= |issue=4}}</ref>
[[File:Tyrannosaurus muscle mass.png|upright|thumb|Phục dựng cơ bắp của loài ''M. caudofemoralis longus'']]
Trong năm 2010, Scott Persons, một sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Alberta, đã đề xuất rằng tốc độ của ''Tyrannosaurus'' có thể đã được tăng cường bởi các cơ đuôi mạnh.<ref name="anrefjournal">{{cite journal | last1 = Persons | first1 = Scott W. | last2 = Currie | first2 = Philip J. | date = January 2011 | origyear = Article first published online November 12, 2010 | title = The Tail of Tyrannosaurus: Reassessing the Size and Locomotive Importance of the M. caudofemoralis in Non-Avian Theropods | journal = The Anatomical Record | volume = 294 | issue = 1 | pages = 119–131, | doi = 10.1002/ar.21290 | url = http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/ar.21290/full }}</ref> Anh phát hiện ra rằng các loài khủng long chân thú như ''T. rex'' đã có cơ bắp sắp xếp một cách khác so với loài chim và động vật có vú ngày nay nhưng với một số điểm tương đồng với loài bò sát hiện đại.<ref name="arcosaurref">{{cite web|url=http://archosaurmusings.wordpress.com/2010/12/06/guest-post-bulking-up-the-back-end-why-tyrannosaurus-tail-mass-matters/ |title=Guest Post: Bulking-Up the Back End – Why Tyrannosaurus Tail Mass Matters &#124; Dave Hone's Archosaur Musings |website=Archosaurmusings.wordpress.com |date= |accessdate=2015-12-23}}</ref> Ông kết luận rằng các cơ xương chậu (caudofemoralis) liên kết xương đuôi và xương chân trên có thể đã hỗ trợ ''Tyrannosaurus'' trong hoạt động thu hồi chân và tăng cường khả năng chạy, sự nhanh nhẹn và thăng bằng của nó. Cơ caudofemoralis sẽ là một cơ then chốt trong sự co rút của xương đùi; kéo chân lên xương đùi.<ref name="anrefjournal"/> Nghiên cứu cũng phát hiện rằng bộ xương theropod như của ''Tyrannosaurus'' đã có sự thích ứng (chẳng hạn như các quá trình ngang cao ở đốt sống đuôi) để kích thích sự phát triển của các cơ đuôi lớn hơn và khối cơ đuôi của ''Tyrannosaurus'' có thể đã bị đánh giá thấp hơn 25% và có lẽ là thấp hơn nhiều đến 45%. Cơ caudofemoralis được tìm thấy chiếm 58% khối lượng cơ ở đuôi ''Tyrannosaurus''. ''Tyrannosaurus'' cũng có khối lượng cơ caudofemoralis lớn nhất tuyệt đối và tương đối trong số ba sinh vật đã tuyệt chủng trong nghiên cứu. Điều này là bởi vì ''Tyrannosaurus'' cũng có thêm sự thích nghi để kích hoạt các cơ đuôi lớn; sự kéo dài của vòm cong của đuôi. Theo Persons, sự gia tăng khối lượng cơ đuôi đã di chuyển khối tâm gần hơn về phần sau và hông mà sẽ làm giảm lực căng trên các cơ chân để hỗ trợ trọng lượng của nó; cải thiện sự cân bằng tổng thể và sự nhanh nhẹn của nó. Điều này cũng sẽ làm cho chúng ít nặng hơn, do đó làm giảm mômen quán tính. Anh cũng lưu ý rằng đuôi của chúng rất giàu gân và vách ngăn có thể dùng để chứa thế năng đàn hồi, và do đó cải thiện hiệu quả của sự vận động. Persons cho biết thêm rằng điều này có nghĩa là khủng long chân thú không giống chim thực sự có đuôi rộng hơn so với các mô tả trước đây, như rộng hoặc rộng hơn bên trên phần lưng bụng gần điểm dưới.<ref name="anrefjournal"/><ref name="arcosaurref"/>


Heinrich Mallison từ [[Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Berlin]] cũng trình bày một lý thuyết vào năm 2011, cho rằng ''Tyrannosaurus'' và nhiều loài khủng long khác có thể đạt được tốc độ tương đối cao thông qua các bước tiến ngắn nhưng nhanh thay vì những bước tiến dài được sử dụng bởi các loài chim và động vật có vú hiện đại khi chạy. Điều này, theo Mallison, sẽ có thể đạt được bất kể sức mạnh của khớp và làm giảm nhu cầu cho khối lượng cơ bắp bổ sung ở chân, đặc biệt là ở mắt cá chân. Để hỗ trợ cho lý thuyết của mình, Mallison đã đánh giá các chi của nhiều loài khủng long khác nhau và thấy rằng chúng khác với những loài động vật có vú và chim hiện đại; có chiều dài sải chân bị giới hạn bởi bộ xương của chúng, nhưng cũng có cơ bắp tương đối lớn ở chân sau. Ông đã tìm thấy một vài điểm tương đồng giữa các cơ trong khủng long và người đi bộ; có khối lượng cơ ít hơn ở mắt cá chân nhưng nhiều hơn ở chân sau. John Hutchinson rất thận trọng về lý thuyết này, cho thấy rằng trước tiên họ phải nhìn vào cơ bắp khủng long để xem tần suất chúng co giật.<ref name="HeinrichPowerwalkingNature">{{Cite journal|last=Kaplan |first=Matt |date=November 7, 2011 |title=Tyrannosaurs were power-walkers |journal=Nature |doi=10.1038/news.2011.631 |url=http://www.nature.com/news/2011/111107/full/news.2011.631.html |accessdate=August 23, 2013}}</ref>
Nghiên cứu gần đây nhất về sự vận động của ''Tyrannosaurus'' chỉ ra rằng chúng không thể hỗ trợ tốc độ nhanh hơn 40 km/h (25 dặm/giờ), tức tốc độ vừa phải khi thực hiện động tác chạy. Ví dụ, một bài báo năm 2002 trên tạp chí ''[[Nature]]'' đã sử dụng một mô hình toán học (dược xác nhận bằng cách áp dụng nó cho ba động vật sống, [[cá sấu]], [[gà]] và con người; sau đó tới tám loài khác bao gồm [[đà điểu châu Úc]] và đà điểu thường[134]) để xác định số lượng cơ cần thiết để một con vật có thể chạy (trên 40 km/h hoặc 25 dặm/giờ).[135] Họ phát hiện ra rằng tốc độ tối đa được đề xuất vượt quá 40 km/h (25 dặm/giờ) là không khả thi, bởi vì nó sẽ đòi hỏi cơ bắp chân rất lớn (chiếm hơn khoảng 40-86% tổng khối lượng cơ thể). Ngay cả tốc độ nhanh vừa phải sẽ yêu cầu cơ bắp chân to khỏe. Cuộc thảo luận này rất khó để giải quyết, vì ta không thể biết được cơ bắpchaan của ''Tyrannosaurus'' lớn cỡ nào. Nếu nó nhỏ hơn, chúng chỉ có thể đi bộ hoặc chạy bộ vào khoảng 18 km/h (11 dặm/giờ).


Một nghiên cứu vào tháng 7 năm 2017 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi William Sellers từ Đại học Manchester phát hiện ra rằng một con ''Tyrannosaurus'' trưởng thành không có khả năng chạy do trọng lượng lớn. Nghiên cứu đã sử dụng công nghệ máy tính mới nhất để kiểm tra những phát hiện. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng hai hệ thống cơ khí cấu trúc khác nhau để tạo ra mô hình máy tính. Trọng lượng dùng để giải quyết cho tính toán của họ là một ước tính bảo thủ 7 tấn. Mô hình cho thấy tốc độ đạt được trên 11 dặm/giờ (18 km/h) có lẽ sẽ làm gãy vỡ xương chân của ''Tyrannosaurus''. Phát hiện này có nghĩa là hoạt động chạy là không thể cho những loài khủng long chân thú khổng lồ khác như ''[[Giganotosaurus]]'', ''[[Mapusaurus]]'' và ''[[Acrocanthosaurus]]''.<ref>{{Cite journal|last=Sellers|first=William I.|last2=Pond|first2=Stuart B.|last3=Brassey|first3=Charlotte A.|last4=Manning|first4=Philip L.|last5=Bates|first5=Karl T.|date=2017-07-18|title=Investigating the running abilities of Tyrannosaurus rex using stress-constrained multibody dynamic analysis|url=https://peerj.com/articles/3420/|journal=PeerJ|language=en|volume=5|pages=e3420|doi=10.7717/peerj.3420|pmid=28740745|pmc=5518979|issn=2167-8359}}</ref>
Một nghiên cứu trong năm 2007 đã sử dụng các mô hình máy tính để ước tính tốc độ chạy, dựa trên dữ liệu được lấy trực tiếp từ các mẫu hóa thạch, và tuyên bố rằng ''Tyrannosaurus rex'' có tốc độ chạy tối đa là 8 m/s (29 km/h; 18 dặm/giờ). Một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp trung bình sẽ chậm hơn một chút, trong khi một người chạy nước rút có thể đạt tới tốc độ 12 m/s (43 km/h; 27 dặm/giờ). Các mô hình máy tính này dự đoán tốc độ tối đa 17,8 m/s (64 km/h; 40 dặm/giờ) đối với một con ''[[Composognathus]]'' nặng 3 kilôgam (6,6 lb) [144] [145].


Một nghiên cứu khác vào tháng 7 năm 2017 bởi các nhà nghiên cứu từ [[Trung tâm Nghiên cứu Đa dạng Sinh học Tích hợp Đức]] (iDiv) đã phát hiện ra rằng tốc độ tối đa của ''Tyrannosaurus'' là vào khoảng 17 dặm/giờ (27 km/h). Các loài khủng long khác bao gồm ''[[Triceratops]]'', ''[[Velociraptor]]'' và ''[[Brachiosaurus]]'' cũng được phân tích trong nghiên cứu này, cũng như nhiều loài động vật sống như voi, [[báo đốm]] và [[thỏ]]. Tốc độ của ''Tyrannosaurus'' được tính bằng cách phân tích thừa số trọng lượng kết hợp với môi trường mà chúng đi (trong trường hợp của khủng long chân thú, đất) và bởi các giả định rằng: thứ nhất; động vật đạt được tốc độ tối đa của chúng trong thời gian chạy nước rút tương đối ngắn, và thứ hai; Định luật chuyển động của Newton cho rằng khối lượng phải vượt qua quán tính. Nghiên cứu phát hiện rằng động vật lớn như ''Tyrannosaurus'' xả ra năng lượng dự trữ rất lâu trước khi chúng đạt tới tốc độ tối đa lý thuyết của chúng, dẫn đến mối quan hệ giống một [[đường parabol]] giữa kích thước và tốc độ. Phương trình có thể tính toán tốc độ tối đa của một con vật với độ chính xác vào khoảng 90% và có thể áp dụng cho cả động vật sống và đã tuyệt chủng.<ref>{{cite web|title=Why Tyrannosaurus was a slow runner and why the largest are not always the fastest|url=https://www.sciencedaily.com/releases/2017/07/170717115657.htm|website=ScienceDaily|accessdate=2017-11-10|language=en|date=17 July 2017}}</ref><ref>{{cite journal|last1=Hirt|first1=MR|last2=Jetz|first2=W|last3=Rall|first3=BC|last4=Brose|first4=U|title=A general scaling law reveals why the largest animals are not the fastest.|journal=Nature Ecology & Evolution|date=August 2017|volume=1|issue=8|pages=1116–1122|doi=10.1038/s41559-017-0241-4|pmid=29046579}}</ref>
Trong năm 2010, Scott Persons, một sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Alberta, đã đề xuất rằng tốc độ của ''Tyrannosaurus'' có thể đã được tăng cường bởi các cơ đuôi mạnh.[147] Anh phát hiện ra rằng các loài khủng long chân thú như ''T. rex'' đã có cơ bắp sắp xếp một cách khác so với loài chim và động vật có vú ngày nay nhưng với một số điểm tương đồng với loài bò sát hiện đại.[148] Ông kết luận rằng các cơ xương chậu (caudofemoralis) liên kết xương đuôi và xương chân trên có thể đã hỗ trợ ''Tyrannosaurus'' trong hoạt động thu hồi chân và tăng cường khả năng chạy, sự nhanh nhẹn và thăng bằng của nó. Cơ caudofemoralis sẽ là một cơ then chốt trong sự co rút của xương đùi; kéo chân lên xương đùi.[147] Nghiên cứu cũng phát hiện rằng bộ xương theropod như của ''Tyrannosaurus'' đã có sự thích ứng (chẳng hạn như các quá trình ngang cao ở đốt sống đuôi) để kích thích sự phát triển của các cơ đuôi lớn hơn và khối cơ đuôi của ''Tyrannosaurus'' có thể đã bị đánh giá thấp hơn 25% và có lẽ là thấp hơn nhiều đến 45%. Cơ caudofemoralis được tìm thấy chiếm 58% khối lượng cơ ở đuôi ''Tyrannosaurus''. ''Tyrannosaurus'' cũng có khối lượng cơ caudofemoralis lớn nhất tuyệt đối và tương đối trong số ba sinh vật đã tuyệt chủng trong nghiên cứu. Điều này là bởi vì ''Tyrannosaurus'' cũng có thêm sự thích nghi để kích hoạt các cơ đuôi lớn; sự kéo dài của vòm cong của đuôi. Theo Persons, sự gia tăng khối lượng cơ đuôi đã di chuyển khối tâm gần hơn về phần sau và hông mà sẽ làm giảm lực căng trên các cơ chân để hỗ trợ trọng lượng của nó; cải thiện sự cân bằng tổng thể và sự nhanh nhẹn của nó. Điều này cũng sẽ làm cho chúng ít nặng hơn, do đó làm giảm mômen quán tính. Anh cũng lưu ý rằng đuôi của chúng rất giàu gân và vách ngăn có thể dùng để chứa thế năng đàn hồi, và do đó cải thiện hiệu quả của sự vận động. Persons cho biết thêm rằng điều này có nghĩa là khủng long chân thú không giống chim thực sự có đuôi rộng hơn so với các mô tả trước đây, như rộng hoặc rộng hơn bên trên phần lưng bụng gần điểm dưới. [147] [148]


Những người cho rằng ''Tyrannosaurus'' không có khả năng chạy ước tính tốc độ tối đa của ''Tyrannosaurus'' là khoảng 17 km/h (11 dặm/giờ). Tốc độ này vẫn còn nhanh hơn so với các loài mà chúng săn mồi, như [[hadrosaurids]] và [[ceratopsians]].<ref name="HutchinsonGarcia2002TrexSlow"/> Ngoài ra, một số người ủng hộ ý tưởng rằng ''Tyrannosaurus'' là một động vật ăn thịt cho rằng tốc độ chạy của tyrannosaur là không quan trọng, vì nó có thể chậm nhưng vẫn nhanh hơn con mồi tiềm năng của nó.<ref name="manning2008">{{Cite book|author=Manning P|editor1=Carpenter, Kenneth |editor2=Larson, Peter E. |title=Tyrannosaurus rex, the Tyrant King (Life of the Past)|chapter=T. rex speed trap |publisher=Indiana University Press |location=Bloomington |year=2008 |pages=205–228 |isbn=978-0-253-35087-9 |oclc= |doi= }}</ref> [[Thomas Holtz]] cũng lưu ý rằng ''Tyrannosaurus'' có chiều dài tương đối lớn hơn so với những con vật mà nó săn bắt: khủng long mỏ vịt và khủng long sừng.<ref name="HoltzLecture2013"/> Paul và Christiansen (2000) đã lập luận rằng ít nhất những con Ceratopsian sau này đã có chân trước thẳng đứng và những loài lớn hơn có thể nhanh như [[tê giác]].<ref name="PaulChristiansen2000NeoceratopsianForelimbPosture">{{Cite journal| title=Forelimb posture in neoceratopsian dinosaurs: implications for gait and locomotion | journal=Paleobiology | volume=26 | issue=3 |date=September 2000 | url=http://www.bioone.org/perlserv/?request=get-document&doi=10.1666%2F0094-8373(2000)026%3C0450%3AFPINDI%3E2.0.CO%3B2 | pages=450–465 |author1=Paul, G.S. |author2=Christiansen, P. |lastauthoramp=yes | doi=10.1666/0094-8373(2000)026<0450:FPINDI>2.0.CO;2| issn=0094-8373 }}</ref> Hồi phục vết thương trên hóa thạch của ceratopsian bởi một vết cắn chứng tỏ chúng là con mồi của ''tyrannosaurus''. Nếu các loài Ceratopsian sống bên cạnh ''Tyrannosaurus'' nhanh nhẹn, điều đó khiến các nhà khoa học phải nghi ngờ về lập luận rằng ''Tyrannosaurus'' không cần phải nhanh để bắt con mồi.<ref name="Hanna2002MultipleInjuriesBigAl"/>
Heinrich Mallison từ [[Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Berlin]] cũng trình bày một lý thuyết vào năm 2011, cho rằng ''Tyrannosaurus'' và nhiều loài khủng long khác có thể đạt được tốc độ tương đối cao thông qua các bước tiến ngắn nhưng nhanh thay vì những bước tiến dài được sử dụng bởi các loài chim và động vật có vú hiện đại khi chạy. Điều này, theo Mallison, sẽ có thể đạt được bất kể sức mạnh của khớp và làm giảm nhu cầu cho khối lượng cơ bắp bổ sung ở chân, đặc biệt là ở mắt cá chân. Để hỗ trợ cho lý thuyết của mình, Mallison đã đánh giá các chi của nhiều loài khủng long khác nhau và thấy rằng chúng khác với những loài động vật có vú và chim hiện đại; có chiều dài sải chân bị giới hạn bởi bộ xương của chúng, nhưng cũng có cơ bắp tương đối lớn ở chân sau. Ông đã tìm thấy một vài điểm tương đồng giữa các cơ trong khủng long và người đi bộ; có khối lượng cơ ít hơn ở mắt cá chân nhưng nhiều hơn ở chân sau. John Hutchinson rất thận trọng về lý thuyết này, cho thấy rằng trước tiên họ phải nhìn vào cơ bắp khủng long để xem tần suất chúng co giật.

Một nghiên cứu vào tháng 7 năm 2017 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi William Sellers từ Đại học Manchester phát hiện ra rằng một con ''Tyrannosaurus'' trưởng thành không có khả năng chạy do trọng lượng lớn. Nghiên cứu đã sử dụng công nghệ máy tính mới nhất để kiểm tra những phát hiện. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng hai hệ thống cơ khí cấu trúc khác nhau để tạo ra mô hình máy tính. Trọng lượng dùng để giải quyết cho tính toán của họ là một ước tính bảo thủ 7 tấn. Mô hình cho thấy tốc độ đạt được trên 11 dặm/giờ (18 km/h) có lẽ sẽ làm gãy vỡ xương chân của ''Tyrannosaurus''. Phát hiện này có nghĩa là hoạt động chạy là không thể cho những loài khủng long chân thú khổng lồ khác như ''[[Giganotosaurus]]'', ''[[Mapusaurus]]'' và ''[[Acrocanthosaurus]]''.

Một nghiên cứu khác vào tháng 7 năm 2017 bởi các nhà nghiên cứu từ [[Trung tâm Nghiên cứu Đa dạng Sinh học Tích hợp Đức]] (iDiv) đã phát hiện ra rằng tốc độ tối đa của ''Tyrannosaurus'' là vào khoảng 17 dặm/giờ (27 km/h). Các loài khủng long khác bao gồm ''[[Triceratops]]'', ''[[Velociraptor]]'' và ''[[Brachiosaurus]]'' cũng được phân tích trong nghiên cứu này, cũng như nhiều loài động vật sống như voi, [[báo đốm]] và [[thỏ]]. Tốc độ của ''Tyrannosaurus'' được tính bằng cách phân tích thừa số trọng lượng kết hợp với môi trường mà chúng đi (trong trường hợp của khủng long chân thú, đất) và bởi các giả định rằng: thứ nhất; động vật đạt được tốc độ tối đa của chúng trong thời gian chạy nước rút tương đối ngắn, và thứ hai; Định luật chuyển động của Newton cho rằng khối lượng phải vượt qua quán tính. Nghiên cứu phát hiện rằng động vật lớn như ''Tyrannosaurus'' xả ra năng lượng dự trữ rất lâu trước khi chúng đạt tới tốc độ tối đa lý thuyết của chúng, dẫn đến mối quan hệ giống một [[đường parabol]] giữa kích thước và tốc độ. Phương trình có thể tính toán tốc độ tối đa của một con vật với độ chính xác vào khoảng 90% và có thể áp dụng cho cả động vật sống và đã tuyệt chủng.

Những người cho rằng ''Tyrannosaurus'' không có khả năng chạy ước tính tốc độ tối đa của ''Tyrannosaurus'' là khoảng 17 km/h (11 dặm/giờ). Tốc độ này vẫn còn nhanh hơn so với các loài mà chúng săn mồi, như [[hadrosaurids]] và [[ceratopsians]].[135] Ngoài ra, một số người ủng hộ ý tưởng rằng ''Tyrannosaurus'' là một động vật ăn thịt cho rằng tốc độ chạy của tyrannosaur là không quan trọng, vì nó có thể chậm nhưng vẫn nhanh hơn con mồi tiềm năng của nó.[153] [[Thomas Holtz]] cũng lưu ý rằng ''Tyrannosaurus'' có chiều dài tương đối lớn hơn so với những con vật mà nó săn bắt: khủng long mỏ vịt và khủng long sừng.[92] Paul và Christiansen (2000) đã lập luận rằng ít nhất những con Ceratopsian sau này đã có chân trước thẳng đứng và những loài lớn hơn có thể nhanh như [[tê giác]].[154] Hồi phục vết thương trên hóa thạch của ceratopsian bởi một vết cắn chứng tỏ chúng là con mồi của ''tyrannosaurus''. Nếu các loài Ceratopsian sống bên cạnh ''Tyrannosaurus'' nhanh nhẹn, điều đó khiến các nhà khoa học phải nghi ngờ về lập luận rằng ''Tyrannosaurus'' không cần phải nhanh để bắt con mồi. [142]


===Não và các giác quan===
===Não và các giác quan===

Phiên bản lúc 05:29, ngày 6 tháng 8 năm 2018

Khủng long bạo chúa
Khoảng thời gian tồn tại: Late Cretaceous, 68–66 triệu năm trước đây
Phục dựng mẫu điển hình T. rex (CM 9380) tại Bảo tàng Lịch sử Khoa học Carnegie
Phân loại khoa học e
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Reptilia
nhánh: Dinosauria
Bộ: Saurischia
Phân bộ: Theropoda
Liên họ: Tyrannosauroidea
Họ: Tyrannosauridae
Osborn, 1906
Chi: Tyrannosaurus
Osborn, 1905
Loài điển hình
Tyrannosaurus rex
Osborn, 1905
Các đồng nghĩa
Đồng nghĩa chi
Đồng nghĩa loài

Tyrannosaurus (/t[invalid input: 'ɨ']ˌrænəˈsɔːrəs/ hay /tˌrænəˈsɔːrəs/ có nghĩa là thằn lằn bạo chúa, được lấy từ tiếng Hy Lạp "tyrannos" (τύραννος) nghĩa là "bạo chúa", và "sauros" (σαῦρος) nghĩa là "thằn lằn"[1]), còn được gọi là Khủng long bạo chúa trong văn hóa đại chúng, là một chi khủng long theropoda sống vào cuối kỷ Phấn Trắng. Chi này chỉ gồm một loài duy nhất là Tyrannosaurus rex (thường rút gọn là T. rex). Chúng sinh sống ở nơi ở nơi ngày nay là lục địa Bắc Mĩ, khi đó còn là một đảo, tên là Laramidia. Hóa thạch của Tyrannosaurus được tìm thấy trong các thành hệ địa chất, có niên đại tầng Maastricht, khoảng 67-65,5 triệu năm về trước,[2] và là một trong những loài khủng long cuối cùng tồn tại trước sự tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam.

Như các loài Tyrannosauridae khác, Tyrannosaurus rex là loài ăn thịt đi bằng hai chân, với một hộp sọ lớn và cái đuôi khá nặng. Các chi trước của Tyrannosaurus nhỏ, yếu, không cân đối với các chi sau to, khỏe. Mặc dù bị nhiều loài khác vượt qua về kích thước, Tyrannosaurus rex vẫn là Tyrannosauridae lớn nhất và một trong các động vật ăn thịt lớn nhất mọi thời đại. Các số đo của mẫu vật hoàn chỉnh nhất là: 12,3 m (40 ft) chiều dài (42 feet)[3], cao 4 mét (13 ft) tới hông[4] (13 feet) và 6,8 tấn (7,5 tấn Mỹ) khối lượng[5]. Là động vật ăn thịt lớn nhất trong khu vực của nó, Tyrannosaurus rex là một loài ăn thịt trên đỉnh chuỗi thức ăn, săn hadrosauria, ceratopsia, và có thể cả sauropoda,[6] mặc dù vài nhà khoa học xem loài này ăn xác thối. Việc Tyrannosaurus ăn thịt hay xác thối là một trong những chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong giới cổ sinh vật; tuy nhiên, hiện nay hầu hết đều đồng ý rằng Tyrannosaurus rex là loài săn mồi cơ hội, thực hiện cả ăn thịt và xác thối.[7] Nó một trong số động vật trên cạn có lực cắn lớn nhất.[8][9]

Hơn 50 mẫu vật Tyrannosaurus rex đã được phát hiện, một vài có bộ xương gần như hoàn chỉnh. Mô mềmprotein đã xuất hiện trong ít nhất một mẫu vật. Thói quen săn mồi, sinh lý học và tốc độ Tyrannosaurus rex là một vài chủ đề tranh cãi. Việc phân loại cũng bị tranh luận, vài nhà khoa học xemTarbosaurus bataar từ châu Á là một loài Tyrannosaurus và số khác vẫn cho rằng Tarbosaurus là một chi riêng. Nhiều chi Tyrannosauridae Bắc Mỹ cũng đồng nghĩa với Tyrannosaurus.

Vì là loài khủng long chân thú điển hình, Tyrannosaurus là một trong những loài khủng long nổi tiếng nhất kể từ thế kỷ 20, và đã được giới thiệu trong nhiều bộ phim, quảng cáo và tem bưu chính, cũng như nhiều loại phương tiện truyền thông khác.

Mô tả

Tyrannosaurus (lục) so sánh với các theropoda khổng lồ khác
Một mô hình Tyrannosaurus cùng kích thước với ngoài đời ở Ba Lan

Tyrannosaurus rex là một trong số các động vật ăn thịt lớn nhất mọi thời đại. Mẫu vật hoàn chỉnh lớn nhất, trưng bày ở bảo tàng lịch sử tự nhiên Field với số hiệu FMNH PR2081 và có biệt danh "Sue", dài 12,3 mét (40 ft),[10] và cao 4 mét (13 ft) ngang hông.[4] Ước tính khối lượng có rất nhiều biến đổi, từ nặng hơn 7,2 tấn (7,9 tấn Mỹ),[3] tới nhẹ hơn 4,5 tấn (5,0 tấn Mỹ),[11][12] ước tính gần đây nhất với khối lượng từ 5,4 tấn (6,0 tấn Mỹ) tới 6,8 tấn (7,5 tấn Mỹ).[5][13][14][15] Một nghiên cứu 2011 cho thấy cân nặng tối đa của Sue, Tyrannosaurus lớn nhất, là từ 9,5–18,5 tấn (9,3–18,2 tấn Anh; 10,5–20,4 tấn Mỹ), mặc dù các tác giả lưu ý rằng các ước tính nặng hơn hay nhẹ hơn dựa trên các mô hình có sai số lớn và họ "cho rằng [chúng] quá ốm, quá mập, hay quá bất cân đối".[10] Packard và đồng nghiệp (2009) cho rằng các ước tính bị thổi phồng; và cân nặng thực của Tyrannosaurus nhỏ hơn so với các ý kiến trước đây.[16] Các ước tính khác kết luận rằng mẫu vật Tyrannosaurus lớn nhất nặng gần[17] hay vượt qua 9 tấn.[10][18][19]

Phục hồi loài T. rex với lông vũ

Do số lượng mẫu vật thu hồi tương đối ít và số lượng cá thể rất lớn có mặt tại bất kỳ thời điểm nào khi Tyrannosaurus còn sống, có thể dễ dàng tìm được mẫu vật lớn hơn những mẫu hiện đang được biết đến bao gồm "Sue", tuy vậy việc khám phá ra những cá thể lớn hơn này có thể sẽ là không thể do bản chất hóa thạch chưa hoàn chỉnh.[20] Holtz cũng đã gợi ý rằng "rất hợp lý để nghi ngờ rằng có những cá thể to hơn 10, 15, hoặc thậm chí 20 phần trăm Sue trong bất kỳ quần thể T. rex nào."[21]

Cổ của Tyrannosaurus rex tạo thành một đường cong hình chữ S tự nhiên giống như của các loài khủng long chân thú khác, nhưng nó ngắn và rất cơ bắp để hỗ trợ cái đầu lớn. Chi trước chỉ có hai ngón vuốt,[22] cùng với một xương đốt bàn tay nhỏ cho thấy sự thoái hóa của một ngón thứ ba.[23] Trái lại, chi sau của loài này là một trong những phần dài nhất theo tỷ lệ kích thước với cơ thể của bất kỳ loài chân thú nào. Đuôi của chúng nặng và dài, đôi khi chứa hơn bốn mươi đốt sống, để cân bằng phần đầu và thân lớn. Để bù lại trọng lượng lớn của chúng, nhiều khúc xương được tiến hóa để trở thành rỗng ở bên trông, giảm trọng lượng của chúng mà không làm giảm đáng kể sức mạnh.[22]

Sọ của một con T. rex (AMNH 5027)

Hộp sọ Tyrannosaurus rex lớn nhất được biết đến dài tới 1,52 mét.[4] Một cửa sổ lớn trong hộp sọ giảm trọng lượng và cung cấp thêm diện tích để cơ bắp có thể bám vào, như trong tất cả các loài khủng long chân thú ăn thịt. Nhưng ở khía cạnh khác, hộp sọ của chúng lại khác biệt đáng kể so với các loài ăn thịt không thuộc liên họ Khủng long bạo chúa. Hộp sọ rất rộng ở phía sau nhưng có cái mõm hẹp, cho phép tầm nhìn hai mắt tốt một cách bất thường.[24][25] Xương sọ lớn và mũi và một số xương khác được hợp nhất lại, ngăn cản sự di chuyển giữa chúng; một số lớn xương cũng có các lỗ không khí nhỏ (chứa các "tổ ong" gồm các lỗ hở không khí) mà có thể đã làm cho xương của chúng linh hoạt hơn cũng như giảm nhẹ trọng lượng. Những đặc điểm tăng cường này của hộp sọ là một phần xu hướng của các loài bạo long hướng tới một cú đớp mạnh mẽ, mà dễ dàng vượt qua của tất cả các loài không thuộc tyrannosaurids.[26][8][27] Đầu ngoài của hàm trên có hình chữ U (hầu hết các loài ăn thịt không thuộc tyrannosauroid có hàm trên hình chữ V), làm tăng số lượng mô và xương một con tyrannosaur có thể xé ra với một vết cắn, mặc dù nó cũng làm tăng độ căng ở mặt trước răng.[28][29]

Răng của Tyrannosaurus rex thể hiện sự khác biệt rõ rệt về hình dạng.[22][30] Các răng của mảnh trước hàm của hàm trên được đóng gói chặt chẽ, hình chữ D theo mặt cắt ngang, có các chỗ lồi gia cố trên bề mặt phía sau, là răng cửa (lưỡi của chúng giống như lưỡi của cái đục) và cong ngược lại. Mặt cắt hình chữ D, chỗ chóp tăng cường và đường cong ngược làm giảm nguy cơ răng sẽ bị gãy khi Tyrannosaurus cắn hoặc kéo. Những chiếc răng còn lại rất chắc chắn, giống như "những quả chuối chết người" hơn là dao găm, có khoảng cách rộng hơn và cũng có các chóp củng cố.[31] Những răng ở hàm trên lớn hơn tất cả nhưng cái ở phía sau hàm dưới. Lớn nhất được tìm thấy cho đến nay được ước tính dài 30,5 cm bao gồm cả gốc răng khi nó còn sống, làm cho nó trở thành chiếc răng lớn nhất của bất kỳ loài khủng long ăn thịt nào đã được tìm thấy.[32]

Phân loại

Khủng long bạo chúa được xếp vào phân họ Tyrannosaurinea, họ Tyrannosauridea và liên họ Tyrannosauroidea. Các thành viên khác của phân họ Tyrannosaurinae bao gồm Daspletosaurus Bắc Mỹ và Tarbosaurus châu Á,[33][34] cả hai đôi khi được xem là đồng nghĩa với Tyrannosaurus.[29] Tyrannosauridae từng được cho là con cháu của các nhóm theropoda cổ như megalosauriacarnosauria, nhưng hiện chúng được tái phân loại với nhóm coelurosauria nhỏ hơn.[28]

Sơ đồ cho thấy điểm khác biệt giữa hộp sọ Tarbosaurus (A) và Tyrannosaurus (B)
Nanotyrannus lancensis, có thể là Tyrannosaurus chưa trưởng thành

Năm 1955, nhà cổ sinh vật học Evgeny Maleev người Xô Viết đặt tên một loài mới, Tyrannosaurus bataar, từ Mông Cổ.[35] Năm 1965, loài này được tái danh Tarbosaurus bataar.[36] Mặc dù bị tái danh, nhiều cây phát sinh loài vẫn cho thấy Tarbosaurus bataarđơn vị phân loại chị em của Tyrannosaurus rex,[34] và đôi khi được cho là Tyrannosaurus châu Á.[28][37][38] Việc tái mô tả hộp sọ Tarbosaurus bataar cho thấy nó hẹp hơn Tyrannosaurus rex và khi cắn, sự phân bố áp lực trên sọ rất khác biệt, gần giống Alioramus, một Tyrannosauria châu Á khác.[39] Phân tích nhánh phát sinh loài cho thấy Alioramus, không phải Tyrannosaurus, mới là chi chị em với Tarbosaurus, điều này, nếu là sự thật, sẽ cho thấy TarbosaurusTyrannosaurus nên được tách riêng.[33]\

Các hóa thạch Tyrannosauridae khác được tìm thấy cùng thành hệ với Tyrannosaurus rex ban đầu được phân loại trong các đơn vị khác nhau, bao gồm AublysodonAlbertosaurus megagracilis,[29] sau đó được tái danh Dinotyrannus megagracilis năm 1995.[40] Tuy nhiên, hiên nay các hóa thạch này được xem là Tyrannosaurus rex chưa trưởng thành.[41] Một hộp sọ nhỏ nhưng hầu như nguyên vẹn từ Montana, dài 60 xentimét (2,0 ft), có thể là ngoại lệ. Hộp sọ này ban đầu được phân loại là Gorgosaurus (G. lancensis) bởi Charles W. Gilmore năm 1946,[42] sau đó được chuyển sang chi mới, Nanotyrannus.[43] Nhiều nhà khoa học coi hộp sọ này là của Tyrannosaurus rex chưa trưởng thành.[44] Có sự khác biệt nhỏ giữa hai loài, bao gồm số răng của N. lancensis nhiều hơn, giúp vài nhà khoa học tách riêng hai chi cho tới khi có nhiều phát hiện hơn.[34][45]

Dưới đây là cây phát sinh loài Tyrannosauridae dựa trên phân tích phân tử của Loewen et al. năm 2013.[46]

Tyrannosauridae

Gorgosaurus libratus

Albertosaurus sarcophagus

Tyrannosaurinae

Tyrannosauridae của thành hệ Dinosaur Park

Daspletosaurus torosus

Tyrannosauridae của thành hệ Two Medicine

Teratophoneus curriei

Bistahieversor sealeyi

Lythronax argestes

Tyrannosaurus rex

Tarbosaurus bataar

Zhuchengtyrannus magnus

Cổ sinh học

Vòng đời

Biểu đồ miêu tả đường cong sinh trưởng giả định, khối lượng cơ thể so với tuổi đời (màu đen, với các loài tyrannosaurids khác để so sánh). Dựa trên Erickson và nhiều người khác 2004

Việc xác định một số mẫu vật Tyrannosaurus rex chưa trưởng thành đã cho phép các nhà khoa học ghi lại những thay đổi về mặt sinh học của loài, ước tính tuổi thọ và xác định tốc độ phát triển của chúng. Cá thể nhỏ nhất được biết đến (LACM 28471, "khủng long chân thằn lằn Jordan") được ước tính chỉ nặng 30 kg, trong khi lớn nhất, chẳng hạn như FMNH PR2081 (Sue) có thể nặng khoảng 5,650 kg. Phân tích mô học của bộ xương Tyrannosaurus rex cho thấy LACM 28471 chỉ mới 2 năm tuổi khi nó chết, trong khi Sue đã 28 tuổi, độ tuổi mà có thể gần với mức tối đa của loài.[5]

Các phương pháp mô học cho phép xác định tuổi của các mẫu vật khác. Đường cong tăng trưởng có thể được phát triển khi độ tuổi của các mẫu vật khác nhau được vẽ trên biểu đồ cùng với khối lượng của chúng. Đường cong tăng trưởng của Tyrannosaurus rex là hình chữ S, với số cá thể còn lại nặng dưới 1.800 kg cho đến năm 14 tuổi, khi kích thước cơ thể bắt đầu tăng lên đáng kể. Trong giai đoạn tăng trưởng nhanh này, một con Tyrannosaurus rex non sẽ nặng thêm trung bình 600 kg mỗi năm trong vòng bốn năm tới. Ở tuổi 18, đường cong lại bắt đầu ngang một lần nữa, chỉ ra rằng sự tăng trưởng chậm lại đáng kể. Ví dụ, Sue 28 tuổi có khối lượng hơn mẫu vật 22 tuổi ở Canada (RTMP 81.12.1) chi 600 kg.[5] Một nghiên cứu mô học năm 2004 được thực hiện bởi nhiều nhà khoa học riêng lẻ chứng thực những kết quả này, phát hiện rằng sự tăng trưởng nhanh chóng bắt đầu chậm lại vào khoảng năm 16 tuổi.[47]

Mẫu vật T. rex non biệt danh Jane 11 tuổi, với một con trưởng thành ở sau, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Burpee

Một nghiên cứu khác chứng thực kết quả của nghiên cứu sau này nhưng thấy tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nhiều, vào khoảng 1800 kg. Mặc dù các kết quả này cao hơn nhiều so với các ước tính trước đó, các tác giả lưu ý rằng những kết quả này đã làm giảm đáng kể sự khác biệt lớn giữa tốc độ tăng trưởng thực tế và kết quả mong đợi của một con vật có kích thước lớn như vậy.[10] Sự thay đổi đột ngột về tốc độ tăng trưởng ở cuối giai đoạn tăng trưởng có thể cho thấy sự trưởng thành về thể chất, một giả thuyết được hỗ trợ bởi sự khám phá mô tủy ở xương đùi của một mẫu vật Tyrannosaurus rex từ 16 đến 20 tuổi ở Montana (MOR 1125, hay B-rex). Mô tủy chỉ được tìm thấy ở chim cái trong thời kì rụng trứng, cho thấy B-rex đang ở độ tuổi sinh sản.[48] Nghiên cứu sâu hơn cho thấy mẫu vật có tuổi 18.[49] Trong năm 2016, Mary Higby Schweitzer và Lindsay Zanno et al xác nhận rằng mô mềm trong xương đùi của MOR 1125 là mô tủy. Điều này cũng xác nhận danh tính của mẫu vật như một con cái. Việc khám phá mô xương tủy trong loài Tyrannosaurus là một minh chứng giá trị trong việc xác định giới tính của các loài khủng long khác, vì sự hình thành hóa sinh học của mô tủy là không thể nhầm lẫn.[50] Các loài Tyrannosaurids khác thể hiện những đường cong phát triển cực kỳ giống nhau, mặc dù với tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn tương ứng với kích thước của con trưởng thành.[51]

Hơn một nửa số mẫu vật được biết đến của Tyrannosaurus rex dường như đã chết trong vòng 6 năm sau khi đạt đến sự trưởng thành về tình dục, một đặc điểm cũng được thấy ở các loài tyrannosaur khác, một số loài chim và động vật có vú sống lâu ngày nay. Những loài này có tỷ lệ tử vong sau sinh cao, trái lại tỷ lệ tử vong tương đối thấp ở những con vị thành niên. Tỷ lệ tử vong tăng trở lại sau khi trưởng thành về tình dục, một phần do sự căng thẳng của sinh sản. Một nghiên cứu cho thấy rằng sự hiếm có của hóa thạch Tyrannosaurus rex vị thành niên là do một phần tỷ lệ chết trẻ vị thành niên thấp; loài này không chết với số lượng lớn ở lứa tuổi này, và do đó thường không có hóa thạch của chúng. Sự hiếm có này cũng có thể là do sự không đầy đủ của hồ sơ hóa thạch hoặc sự thiên vị của các nhà sưu tầm hóa thạch đối với các mẫu vật lớn hơn, ngoạn mục hơn.[51] Trong một bài giảng năm 2013, Thomas Holtz Jr. cho rằng loài khủng long "sống nhanh và chết sớm" vì chúng sinh sản nhanh chóng trong khi động vật có vú kéo dài cuộc sống vì chúng mất nhiều thời gian hơn để sinh sản và nuôi dưỡng con nhỏ.[52] Gregory S. Paul cũng viết rằng Tyrannosaurus sinh sản nhanh chóng và chết trẻ, nhưng kết nối vòng đời ngắn ngủi của chúng với cuộc sống nguy hiểm mà loài này sống.[53]

Dị hình giới tính

Hai bộ xương dựng trong tư thế giao phối, Jurassic Museum of Asturias

Khi số lượng mẫu vật đã biết tăng lên, các nhà khoa học bắt đầu phân tích sự biến đổi giữa các cá thể và phát hiện ra hai loại cơ thể khác nhau, hoặc hình thái, tương tự như một số loài chân thú khác. Một trong những hình dạng này có cơ thể săn chắc hơn, nó được gọi là hình thái 'mạnh mẽ' trong khi dạng còn lại được gọi là 'mảnh mai'. Một số khác biệt về hình thái đã được sử dụng để phân tích tính lưỡng hình giới tính ở loài Tyrannosaurus rex, với hình thái “mạnh mẽ” thường được cho là giống cái. Ví dụ, xương chậu của một số mẫu vật 'khỏe mạnh' dường như rộng hơn, có lẽ để cho phép trứng đi qua.[54] Người ta cũng nghĩ rằng hình thái 'mạnh mẽ' tương quan với sự thiếu hụt đốt sống đuôi đầu tiên, cũng có thể cho phép trứng đi ra khỏi cơ quan sinh sản, như đã được báo cáo sai cho cá sấu.[55]

Trong những năm gần đây, bằng chứng về sự lưỡng hình giới tính đã bị suy yếu. Một nghiên cứu năm 2005 đã báo cáo rằng những tuyên bố trước đây về sự lưỡng hình giới tính trong giải phẫu đốt sống đuôi cá sấu là sai lầm, tạo nên nghi ngờ về sự tồn tại của lưỡng hình giữa các cá thể Tyrannosaurus rex khác giới.[56] Một xương chevron cỡ lớn được phát hiện trên đốt sống đuôi đầu tiên của Sue, một cá thể 'mạnh mẽ', chỉ ra rằng đặc điểm này không thể được sử dụng để phân biệt hai hình thái. Vì các mẫu vật Tyrannosaurus rex đã được tìm thấy từ Saskatchewan đến New Mexico, sự khác biệt giữa các cá thể có thể là dấu hiệu của sự biến đổi do địa lý hơn là sự lưỡng hình tình dục. Sự khác biệt cũng có thể liên quan đến tuổi tác, với những cá thể'mạnh mẹ' là con trưởng thành.[22]

Chỉ có một mẫu Tyrannosaurus rex duy nhất đã được chứng minh là thuộc về một giới cụ thể. Kiểm tra hóa thạch B-rex đã chứng minh việc bảo tồn mô mềm trong một số xương. Một số mô này đã được xác định là mô tủy, một mô đặc biệt chỉ phát triển ở các loài chim hiện đại như một nguồn canxi để sản xuất vỏ trứng trong suốt thời kì rụng trứng. Vì chỉ có chim cái đẻ trứng, mô tủy chỉ được tìm thấy một cách tự nhiên ở giống cái, mặc dù con đực cũng có khả năng sinh ra nó khi được tiêm thêm nội tiết tố sinh sản estrogen. Điều này cho thấy rằng B-rex là giống cái, và nó đã chết trong thời kì rụng trứng.[88] Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng mô tủy không bao giờ được tìm thấy ở cá sấu, được cho là họ hàng sống gần nhất của loài khủng long, ngoài chim. Sự hiện diện chung của mô tủy ở chim và các loài khủng long chân thú là bằng chứng thêm về mối quan hệ tiến hóa chặt chẽ giữa hai nhóm động vật.

Dáng đi

Dáng đi phục hồi đã lỗi thời (bởi Charles R. Knight), cho thấy một dáng đứng thẳng

Các bảo tàng, tranh và phim ảnh hiện đại thường miêu tả Tyrannosaurus rex với thân hình của nó gần như song song với mặt đất và đuôi chĩa thẳng về phía sau cơ thể để cân bằng với cái đầu to lớn.[29]

Giống như nhiều loài khủng long đi bằng hai chân, Tyrannosaurus rex được mô tả trong quá khứ như là một 'cỗ máy ba chân sống', với thân hình tạo thành góc 45 độ hoặc ít hơn theo chiều dọc và đuôi kéo lê trên mặt đất, tương tự như một con chuột túi. Khái niệm này bắt nguồn từ tư thế phục dựng của chi Hadrosaurus của Joseph Leidy năm 1865 , người đầu tiên mô tả một con khủng long trong tư thế hai chân.[57] Năm 1915, thuyết phục rằng sinh vật này đứng thẳng, Henry Fairfield Osborn, cựu chủ tịch của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, tiếp tục củng cố quan niệm trong việc công bố bộ xương Tyrannosaurus rex hoàn chỉnh đầu tiên được sắp xếp theo cách này. Nó đứng trong một tư thế thẳng đứng trong 77 năm, cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1992.[58]

Đến năm 1970, các nhà khoa học nhận ra tư thế này là không chính xác và không thể được duy trì bởi một động vật sống, vì nó có thể dẫn đến sự trật khớp hoặc suy yếu của một số khớp, bao gồm hông và khớp nối giữa đầu và cột sống.[59] Dáng đứng phục dựng không chính xác bởi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên đã truyền cảm hứng cho những mô tả tương tự trong nhiều bộ phim và tranh ảnh (như bức họa nổi tiếng của Rudolph Zallinger mang tên The Age of Reptiles trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Peabody của Đại học Yale)[60] cho đến những năm 1990, khi các bộ phim như Công viên khủng long giới thiệu một tư thế đứng chính xác hơn cho công chúng.[61]

Tay

Chi trước của loài T. rex đã có thể dùng để nâng con vật lên khỏi tư thế nằm nghỉ, có thể được nhìn thấy ở dáng tái tạo của mẫu vật Bucky

Khi Tyrannosaurus rex lần đầu tiên được phát hiện, phần xương cánh tay là yếu tố duy nhất của chi trước được biết đến.[62] Đối với bộ xương phục dựng ban đầu được trưng bày vào năm 1915, Osborn đã gắn thêm cánh tay dài hơn, gồm ba ngón tay giống như của Allosaurus.[63] Một năm trước đó, Lawrence Lambe đã mô tả khoa học chi trước của Gorgosaurus ngắn, với hai ngón tay.[64] Điều này gợi ý rằng Tyrannosaurus rex có bộ chi trước tương tự, nhưng giả thuyết này đã không được xác nhận cho đến khi bộ chi trước của Tyrannosaurus rex hoàn chỉnh đã được xác định vào năm 1989, thuộc một phần mẫu vât MOR 555 ("Wankel rex").[65] Phần còn lại của Sue cũng bao gồm cả những chi trước hoàn chỉnh.[22] Cánh tay của Tyrannosaurus rex rất nhỏ so với kích thước cơ thể tổng thể, chỉ dài vỏn vẹn có 1 mét, và một số học giả đã dán nhãn chúng là di tích. Xương chi trước có tiết diện rất rộng để cơ có thể bám lên, cho thấy sức mạnh cơ bắp đáng kể. Điều này đã được Osborn công nhận vào đầu năm 1906, người đã suy đoán rằng tiền thân chúng có thể đã được sử dụng để bám lấy một người bạn tình trong quá trình giao hợp.[66] Một số cũng chỉ ra rằng các chi trước có thể đã được dùng để giúp loài này đứng dậy khỏi tư thế nằm nghỉ.[59]

Biểu đồ cho thấy cấu tạo phần chi trước

Một khả năng khác là các chi này giữ con mồi sau khi nó bị giết bởi bộ hàm lớn của tyrannosaur. Giả thuyết này có thể được hỗ trợ bởi phân tích cơ sinh học. Xương của chi trước trong loàiTyrannosaurus rex có vỏ cực kỳ dày, đã được hiểu là bằng chứng cho thấy chúng phát triển để chịu trọng tải lớn. Cơ tay của một con Tyrannosaurus rex có khả năng nâng 199 kg; các cơ bắp khác như cơ cánh tay quay sẽ phối hợp cùng với các bắp tay để làm cho khuỷu tay uốn cong khiến chúng thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Cơ bắp tay của T. rex có sức mạnh gấp 3.5 lần sức tương đương của con người. Cánh tay Tyrannosaurus rex có một phạm vi giới hạn chuyển động, với vai và khớp khuỷu tay cho phép nó quay 40 và 45 độ, tương ứng. Ngược lại, hai khớp tương tự của loài Deinonychus cho phép chúng di chuyển 88 và 130 độ, tương ứng, trong khi cánh tay người có thể xoay 360 độ ở vai và di chuyển qua 165 độ ở khuỷu tay. Sự tạo hình nặng nề của xương cánh tay, sức mạnh của cơ bắp, và phạm vi giới hạn của chuyển động có thể chỉ ra một hệ thống cơ sinh học được sinh ra để giữ con mồi đang cố trốn thoát. Trong mô tả khoa học chi tiết đầu tiên về chi trước của Tyrannosaurus, hai nhà cổ sinh vật học Kenneth CarpenterMatt Smith đã bác bỏ quan niệm rằng các chi trước là vô dụng hoặc Tyrannosaurus rex là loài chỉ ăn xác.[67]

Theo nhà cổ sinh vật học Steven Stanley từ Đại học Hawaii, cánh tay dài khoảng 1 mét của một con Tyrannosaurus rex đã được sử dụng để chém con mồi. Đặc biệt là được sử dụng bởi những con khủng long vị thành niên khi cánh tay của chúng phát triển chậm hơn so với tỷ lệ cơ thể và một con Tyrannosaurus rex nhỏ sẽ có cánh tay dài hơn nhiều so với con trưởng thành.[68]

Mô mềm

Trong số ra tháng 3 năm 2005 của tạp chí Science, Mary Higby Schweitzer thuộc Đại học bang North Carolina và các đồng nghiệp đã công bố sự thu hồi của mô mềm từ khoang tủy xương chân hóa thạch từ Tyrannosaurus rex. Xương đã được cố ý, mặc dù miễn cưỡng, đập vỡ để vận chuyển và sau đó không được bảo quản theo cách thông thường, đặc biệt là vì Schweitzer đã hy vọng thử nghiệm nó để tìm mô mềm.[106] Được chỉ định tại Bảo tàng Rockies Mẫu 1125, hoặc MOR 1125, mẫu vật này đã được khai quật từ Thành hệ Hell Creek. Các mạch máu linh hoạt, phân nhánh và mô tế bào xương dạng sợi nhưng đàn hồi đã được nhận ra ngay. Ngoài ra, vi cấu trúc giống như các tế bào máu đã được tìm thấy bên trong ma trận và các mạch máu. Các cấu trúc này tương tự như các tế bào máu và mạch máu trong loài đà điểu. Cho dù một quá trình không rõ, khác biệt với hóa thạch bình thường, bảo quản vật liệu, hoặc vật liệu ban đầu, các nhà nghiên cứu không biết, và họ cẩn thận không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về tình trạng bảo tồn.[107] Nếu đây là nguyên liệu ban đầu, bất kỳ protein sống sót nào cũng có thể được sử dụng như một phương tiện gián tiếp để tiên đoán một chuỗi DNA của con khủng long liên quan, bởi vì mỗi protein thường được tạo ra bởi một gen cụ thể. Sự vắng mặt của những phát hiện trước đó có thể là kết quả của những giả định rằng tế bào mô được bảo quản là không thể, do vậy họ không cố gắng tìm kiếm. Kể từ lần đầu tiên này, hai con tyrannosaurs và một con hardosaur cũng đã được tìm thấy có chứa cấu trúc giống như mô. [106] Nghiên cứu về các mô liên quan đã gợi ý rằng chim là họ hàng gần gũi nhất với tyrannosaurs so với tất cả các loài động vật hiện đại khác.

Trong các nghiên cứu được báo cáo trên tạp chí Science vào tháng 4 năm 2007, Asara và các đồng nghiệp đã kết luận rằng 7 vết tích của protein collagen được phát hiện trong xương Tyrannosaurus rex tinh khiết gần giống với được báo cáo, tiếp theo là ếch và kì giông. Việc phát hiện ra protein từ một sinh vật đã hàng chục triệu năm tuổi, cùng với những dấu vết tương tự mà nhóm nghiên cứu tìm thấy trong xương của loài voi răng mấu ít nhất đã 160.000 năm tuổi, điều này thay đổi tầm nhìn thông thường của các nhà khoa học về hóa thạch và có thể sẽ chuyển sự tập trung của các nhà cổ sinh vật học từ săn xương sang ngành sinh hóa. Cho đến những phát hiện này, hầu hết các nhà khoa học cho rằng hóa thạch đã thay thế tất cả các mô sống bằng khoáng chất trơ. Nhà cổ sinh vật học Hans Larsson thuộc Đại học McGill ở Montreal, người không thuộc dự án nghiên cứu, gọi sự khám phá này là "sự kiện quan trọng", và cho rằng loài khủng long có thể "nhập vào lĩnh vực sinh học phân tử và thực sự đưa cổ sinh vật học vào trong thế giới hiện đại"

Các nghiên cứu tiếp theo trong tháng 4 năm 2008 đã xác nhận sự kết nối chặt chẽ của Tyrannosaurus rex với các loài chim hiện đại. Nhà nghiên cứu sinh học hậu tiến sĩ Chris Organ tại Đại học Harvard đã công bố, "Với nhiều dữ liệu hơn, họ có thể đặt T. rex trên cây tiến hóa giữa cá sấu và gà và đà điểu." Đồng tác giả John M. Asara nói thêm, "Chúng tôi cũng cho thấy rằng nó cho vào nhóm chim thì phù hợp hơn loài bò sát hiện đại, chẳng hạn như cá sấu và thằn lằn Dactyloidae xanh."

Điều hòa thân nhiệt

Tính đến năm 2014, không rõ liệu loài Tyrannosaurus có phải là loài hồi nhiệt (máu nóng) hay không. Tyrannosaurus, giống như hầu hết các loài khủng long, từ lâu đã được cho là loài ngoại nhiệt (máu lạnh) với kiểu trao đổi chất của thằn lằn. Ý tưởng khủng long máu lạnh đã được thử thách bởi các nhà khoa học như Robert T. BakkerJohn Ostrom trong những năm đầu của phong trào "Phục hưng Khủng long", bắt đầu vào cuối những năm 1960.[116] [117] Bản thân Tyrannosaurus rex đã được tuyên bố là loài máu nóng, ngụ ý một lối sống rất hoạt động.[13] Kể từ đó, một số nhà cổ sinh vật học đã tìm cách xác định khả năng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của Tyrannosaurus. Bằng chứng mô học về tốc độ tăng trưởng cao ở những con Tyrannosaurus rex non, có thể so sánh với các loài động vật có vú và chim, và có thể hỗ trợ giả thuyết về sự trao đổi chất cao. Đường cong tăng trưởng cho thấy rằng, như ở động vật có vú và chim, Tyrannosaurus rex tăng trưởng bị giới hạn chủ yếu trên những con chưa trưởng thành, thay vì sự tăng trưởng vô định được thấy ở hầu hết các động vật có xương sống khác.

Tỷ lệ đồng vị của oxy trong xương hóa thạch đôi khi được sử dụng để xác định nhiệt độ mà tại đó xương bị lắng đọng, vì tỷ số giữa các đồng vị nhất định tương quan với nhiệt độ. Trong một mẫu, các tỷ số đồng vị trong xương từ nhiều bộ phận khác nhau trong cơ thể chỉ ra sự chênh lệch nhiệt độ không quá 4 đến 5°C (7 đến 9°F) giữa đốt sống của thân và xương chày của chân dưới. Chênh lệch nhiệt độ nhỏ giữa lõi cơ thể và chi vận động được xác nhận bởi nhà cổ sinh vật học Reese Barrick và nhà hóa học William Showers để chỉ ra rằng Tyrannosaurus rex duy trì nhiệt độ cơ thể nội bộ liên tục (máu nóng) và rằng sự trao đổi chất của loài này ở đâu đó giữa loài bò sát ngoại nhiệt và động vật có vú hồi nhiệt.118] Các nhà khoa học khác đã chỉ ra rằng tỷ lệ đồng vị oxy trong các hóa thạch ngày nay không nhất thiết đại diện cho cùng một tỷ lệ trong quá khứ xa xôi, và có thể đã bị thay đổi trong hoặc sau khi hóa thạch (sự thành đá trầm tích). Barrick và Showers đã bảo vệ kết luận của họ trong các bài báo tiếp theo, tìm kiếm kết quả tương tự trong một con khủng long chân thú khác tới từ các lục địa khác nhau và cách nhau hàng chục triệu năm trước đó trong thời gian (Giganotosaurus). Những con khủng long hông chim cũng cho thấy bằng chứng về máu nóng, trong khi những con thằn lằn họ Kỳ đà từ cùng một thành hệ thì không. [121] Ngay cả khi Tyrannosaurus rex thể hiện bằng chứng về máu nóng, không nhất thiết có nghĩa nó là động vật hồi nhiệt. Việc điều hòa nhiệt độ như vậy cũng có thể được giải thích bằng cách biến nhiệt theo tỉ lệ diện tích cơ thể (gigantothermy), như trong một số loài rùa biển sống.

Dấu chân

Hai dấu chân hóa thạch bị cô lập đã được tạm thời gán cho Tyrannosaurus rex. Lần đầu tiên được phát hiện tại trang trại Philmont Scout, New Mexico, vào năm 1983 bởi nhà địa chất người Mỹ Charles Pillmore. Ban đầu được cho là thuộc về một loài hardosaur, kiểm tra dấu chân cho thấy một 'gót chân' lớn không rõ trong các loài khủng long chân chim, và dấu vết của những gì có thể là một ngón chân cái, ngón thứ tư giống như ngón huyền của chân một con tyrannosaur. Dấu chân đã được đặt tên ichnogenus Tyrannosauripus pillmorei vào năm 1994, bởi Martin Lockley và Adrian Hunt. Lockley và Hunt cho rằng rất có khả năng vết chân đã tạo ra bởi một con Tyrannosaurus rex, làm cho nó trở thành dấu chân đầu tiên được biết đến từ loài này. Vết chân được tạo ra từ những gì đã từng là một bãi đầm ngập nước bằng phẳng. Kích thước của dấu chân dài 83 cm và rộng 71 cm.

Một dấu chân thứ hai có thể đã được tạo ra bởi một con Tyrannosaurus lần đầu tiên được báo cáo năm 2007 bởi nhà cổ sinh vật học người Anh Phil Manning, tại Thành hệ Hell Creek thuộc Montana. Dấu chân thứ hai này dài 72 cm, ngắn hơn kích thước của dấu chân được mô tả bởi Lockley và Hunt. Có thật là một con Tyrannosaurus tạo ra dấu chân hay không là chưa rõ ràng, mặc dù TyrannosaurusNanotyrannus là các loài khủng long chân thú cỡ lớn duy nhất được biết đến đã tồn tại trong thành hệ Hell Creek. [126] [127]

Vận động

Đường dấu chân duy nhất được biết đến của tyrannosaurid (Bellatoripes fredlundi), từ Thành hệ Wapiti, British Columbia

Có hai vấn đề chính liên quan đến khả năng di chuyển của Tyrannosaurus: chúng có thể quay người tốt cỡ nào; và tốc độ chạy đường thẳng của chúng là bao nhiêu. Cả hai vấn đề đều dẫn đến tranh luận về loài này là loài săn mồi hay loài ăn xác.

Tyrannosaurus quay người rất chậm chạp, chúng có thể mất từ ​​một đến hai giây để quay một góc 45° - điều mà con người, được định hướng theo chiều dọc và không có đuôi, có thể quay dưới một giây.[69] Nguyên nhân gây ra sự khó khăn này là mômen quán tính, vì phần lớn khối lượng của Tyrannosaurus phân bố xa ra khỏi trọng tâm của chúng, giống như một người đang mang theo tấm gỗ nặng theo chiều ngang - mặc dù vậy chúng đã có thể giảm khoảng cách trung bình đó bằng cách còng lưng và đuôi của nó rụt đầu và chân trước của chúng về gần cơ thể hơn, giống như một người trượt băng co tay lại để quay nhanh hơn.[70]

Các nhà khoa học đã tạo ra một loạt các ước tính về tốc độ tối đa, chủ yếu là vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), nhưng một vài ước tính nhỏ tới 5–11 m/s (18-40 km/h; 11–25 dặm/giờ), và một vài cao tới 20 m/s (72 km/h; 45 dặm/giờ). Các nhà nghiên cứu phải dựa vào các kỹ thuật ước tính khác nhau bởi vì, trong khi có rất nhiều vết dấu chân của loài chân thú lớn đi bộ, cho đến nay chưa có các vết chân mà chúng chạy - và sự vắng mặt này có thể chỉ ra rằng chúng không chạy.[71] Các nhà khoa học có thể chỉ ra rằng Tyrannosaurus có xương rỗng và các đặc điểm khác làm nhẹ trọng lượng cơ thể và giữ trọng lượng trong khoảng chỉ 4,5 tấn hoặc giống các động vật khác như đà điểungựa với đôi chân dài, linh hoạt có thể đạt được tốc độ cao thông qua các bước sải chậm nhưng dài hơn. Một số người cũng cho rằng Tyrannosaurus có cơ bắp chân tương đối khỏe hơn so với bất kỳ loài động vật nào ngày nay, có thể cho phép chúng chạy nhanh với tốc độ 40–70 km/h (25–43 dặm/giờ).[72]

Jack HornerDon Lessem lập luận vào năm 1993 rằng Tyrannosaurus rất chậm và có lẽ không thể chạy (không có giai đoạn trong không trung giữa các sải chân), bởi vì tỷ lệ xương đùi đến xương chày dài hơn 1, như trong hầu hết các loài khủng long chân thú lớn và giống như loài voi hiện đại.[65] Holtz (1998) lưu ý rằng tyrannosaurids và một số nhóm liên quan chặt chẽ với chúng có thành phần chi sau xa hơn (cẳng chân cộng với ngón chân) so với chiều dài xương đùi không giống với hầu hết các loài chân thú khác, và tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng có xuơng bàn chân lồng vào nhau giúp truyền lực sải từ chân đến bàn chân thấp hiệu quả hơn so với các loài khủng long chân thú trước đó. Do đó, ông kết luận rằng tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng là những con khủng long chân thú lớn nhanh nhất.[73] Thomas Holtz Jr. đã lặp lại những dẫn chứng này trong một bài giảng năm 2013 của ông, nói rằng allosaurs khổng lồ có đôi chân ngắn hơn nếu cùng kích thước cơ thể so với Tyrannosaurus, trong khi chân của Tyrannosaurus thì dài hơn, mảnh hơn và xương bàn chân đan xen hơn với cùng kích thước cơ thể; thuộc tính của loài động vật chuyển động nhanh hơn.[52]

Chân của T. rex cho thấy xương arctometatarsalian bị nén của phần xương bàn chân giữa, so sánh với chân của Allosaurus

Một nghiên cứu của Eric Snively và Anthony P. Russel xuất bản năm 2003 cũng phát hiện ra rằng arctometatarsals của tyrannosaurid và dây chằng đàn hồi phối hợp cùng nhau trong cái mà ông gọi là 'mô hình khóa kéo' để tăng cường sức mạnh cho chân của Tyrannosaurus, tăng tính ổn định và tăng sức chống lại sự phân ly hơn so với các họ chân thú khác; trong khi vẫn cho phép khả năng phục hồi mà đã giảm trong bộ đà điểu, ngựa, hươu cao cổ và một số động vật khác với xuơng chân. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dây chằng đàn hồi trong các động vật có xương sống lớn hơn có thể dự trữ và tạo ra năng lượng đàn hồi lớn hơn, có thể cải thiện hiệu quả vận động và giảm năng lượng biến dạng được truyền tới xương. Nghiên cứu cho thấy rằng cơ chế này có thể đã hoạt động rất hiệu quả trong tyrannosaurids. Do đó, nghiên cứu sẽ phải liên quan đến việc xác định loại dây chằng gắn với xuơng bàn chân, sau đó tìm hiểu làm thế nào để chúng có thể phối hợp cùng nhau và so sánh nó với các loại khác của khủng long chân thú và các động vật tương tự hiện đại ngày nay. Các nhà khoa học nhận thấy rằng arctometatarsals có thể đã cho phép tyrannosaurid hấp thụ các lực như giảm tốc tuyến tính, gia tốc pháp tuyến và xoắn hiệu quả hơn so với các loài chân thú khác. Nghiên cứu nêu ra rằng điều này có thể ngụ ý, mặc dù không chứng minh, rằng tyrannosaurids như Tyrannosaurus có sự nhanh nhẹn hơn so với các loài chân thú lớn khác không có xương arctometatarsus.[74]

Christiansen (1998) ước tính rằng xương chân của Tyrannosaurus không mạnh hơn đáng kể so với loài voi, tương đối hạn chế ở tốc độ tối đa và không bao giờ chạy (không có thời gian trong không khí), và do đó đề xuất rằng tốc độ tối đa của loài này sẽ vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), tức là tốc độ của một người chạy nước rút. Nhưng ông cũng lưu ý rằng những ước tính như vậy phụ thuộc vào nhiều giả định không rõ ràng.[75]

Farlow và cộng sự (1995) đã lập luận rằng một con Tyrannosaurus nặng 5,4 tấn đến 7,3 tấn sẽ bị thương nặng hoặc thậm chí tử vong nếu nó ngã trong khi di chuyển nhanh, vì thân nó sẽ va đập vào mặt đất với tốc độ giảm 6 g (gấp sáu lần gia tốc trọng trường, hoặc khoảng 60 m/s²) và cánh tay nhỏ bé của nó không thể làm gì để giảm tác động.[13] Hươu cao cổ được biết là có thể phi nước đại ở tốc độ 50 km/h (31 dặm/giờ), bất chấp nguy cơ chúng có thể bị gãy chân hoặc tệ hơn, có thể gây tử vong ngay cả trong môi trường an toàn như vườn thú.[76][77] Do đó, Tyrannosaurus cũng có thể di chuyển nhanh khi cần thiết và phải chấp nhận những rủi ro như vậy.[78][79]

Trong một nghiên cứu khác, Gregory S. Paul đã chỉ ra rằng đầu gối linh hoạt và cách di chuyển bằng đầu ngón của Tyrannosaurus có khả năng thích nghi tốt hơn để chạy so với voi hoặc người, chỉ ra rằng Tyrannosaurus có một xương chậu lớn và xương cnemial có thể hỗ trợ các cơ lớn cần thiết để chạy . Ông cũng đề cập rằng công thức của Alexander (1989) để tính toán tốc độ bằng sức mạnh của xương chỉ một phần đáng tin cậy. Ông cho rằng công thức đó quá phụ thuộc vào chiều dài xương; làm cho xương dài yếu một cách nhân tạo. Ông cũng chỉ ra rằng nguy cơ bị thương trong chiến đấu có giá trị rủi ro cao hơn so với lúc ngã khi đang chạy, khiến Tyrannosaurus có thể chọn việc chạy trước khi định chiến đấu.[80]

Phục dựng dáng đi của T. rex

Nghiên cứu gần đây nhất về sự vận động của Tyrannosaurus chỉ ra rằng chúng không thể hỗ trợ tốc độ nhanh hơn 40 km/h (25 dặm/giờ), tức tốc độ vừa phải khi thực hiện động tác chạy. Ví dụ, một bài báo năm 2002 trên tạp chí Nature đã sử dụng một mô hình toán học (dược xác nhận bằng cách áp dụng nó cho ba động vật sống, cá sấu, và con người; sau đó tới tám loài khác bao gồm đà điểu châu Úc và đà điểu thường[71]) để xác định số lượng cơ cần thiết để một con vật có thể chạy (trên 40 km/h hoặc 25 dặm/giờ).[72] Họ phát hiện ra rằng tốc độ tối đa được đề xuất vượt quá 40 km/h (25 dặm/giờ) là không khả thi, bởi vì nó sẽ đòi hỏi cơ bắp chân rất lớn (chiếm hơn khoảng 40-86% tổng khối lượng cơ thể). Ngay cả tốc độ nhanh vừa phải sẽ yêu cầu cơ bắp chân to khỏe. Cuộc thảo luận này rất khó để giải quyết, vì ta không thể biết được cơ bắpchaan của Tyrannosaurus lớn cỡ nào. Nếu nó nhỏ hơn, chúng chỉ có thể đi bộ hoặc chạy bộ vào khoảng 18 km/h (11 dặm/giờ).[72]

Một nghiên cứu trong năm 2007 đã sử dụng các mô hình máy tính để ước tính tốc độ chạy, dựa trên dữ liệu được lấy trực tiếp từ các mẫu hóa thạch, và tuyên bố rằng Tyrannosaurus rex có tốc độ chạy tối đa là 8 m/s (29 km/h; 18 dặm/giờ). Một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp trung bình sẽ chậm hơn một chút, trong khi một người chạy nước rút có thể đạt tới tốc độ 12 m/s (43 km/h; 27 dặm/giờ). Các mô hình máy tính này dự đoán tốc độ tối đa 17,8 m/s (64 km/h; 40 dặm/giờ) đối với một con Composognathus nặng 3 kilôgam (6,6 lb).[81][82] (có thể là một cá thể chưa trưởng thành).[83]

Phục dựng cơ bắp của loài M. caudofemoralis longus

Trong năm 2010, Scott Persons, một sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Alberta, đã đề xuất rằng tốc độ của Tyrannosaurus có thể đã được tăng cường bởi các cơ đuôi mạnh.[84] Anh phát hiện ra rằng các loài khủng long chân thú như T. rex đã có cơ bắp sắp xếp một cách khác so với loài chim và động vật có vú ngày nay nhưng với một số điểm tương đồng với loài bò sát hiện đại.[85] Ông kết luận rằng các cơ xương chậu (caudofemoralis) liên kết xương đuôi và xương chân trên có thể đã hỗ trợ Tyrannosaurus trong hoạt động thu hồi chân và tăng cường khả năng chạy, sự nhanh nhẹn và thăng bằng của nó. Cơ caudofemoralis sẽ là một cơ then chốt trong sự co rút của xương đùi; kéo chân lên xương đùi.[84] Nghiên cứu cũng phát hiện rằng bộ xương theropod như của Tyrannosaurus đã có sự thích ứng (chẳng hạn như các quá trình ngang cao ở đốt sống đuôi) để kích thích sự phát triển của các cơ đuôi lớn hơn và khối cơ đuôi của Tyrannosaurus có thể đã bị đánh giá thấp hơn 25% và có lẽ là thấp hơn nhiều đến 45%. Cơ caudofemoralis được tìm thấy chiếm 58% khối lượng cơ ở đuôi Tyrannosaurus. Tyrannosaurus cũng có khối lượng cơ caudofemoralis lớn nhất tuyệt đối và tương đối trong số ba sinh vật đã tuyệt chủng trong nghiên cứu. Điều này là bởi vì Tyrannosaurus cũng có thêm sự thích nghi để kích hoạt các cơ đuôi lớn; sự kéo dài của vòm cong của đuôi. Theo Persons, sự gia tăng khối lượng cơ đuôi đã di chuyển khối tâm gần hơn về phần sau và hông mà sẽ làm giảm lực căng trên các cơ chân để hỗ trợ trọng lượng của nó; cải thiện sự cân bằng tổng thể và sự nhanh nhẹn của nó. Điều này cũng sẽ làm cho chúng ít nặng hơn, do đó làm giảm mômen quán tính. Anh cũng lưu ý rằng đuôi của chúng rất giàu gân và vách ngăn có thể dùng để chứa thế năng đàn hồi, và do đó cải thiện hiệu quả của sự vận động. Persons cho biết thêm rằng điều này có nghĩa là khủng long chân thú không giống chim thực sự có đuôi rộng hơn so với các mô tả trước đây, như rộng hoặc rộng hơn bên trên phần lưng bụng gần điểm dưới.[84][85]

Heinrich Mallison từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Berlin cũng trình bày một lý thuyết vào năm 2011, cho rằng Tyrannosaurus và nhiều loài khủng long khác có thể đạt được tốc độ tương đối cao thông qua các bước tiến ngắn nhưng nhanh thay vì những bước tiến dài được sử dụng bởi các loài chim và động vật có vú hiện đại khi chạy. Điều này, theo Mallison, sẽ có thể đạt được bất kể sức mạnh của khớp và làm giảm nhu cầu cho khối lượng cơ bắp bổ sung ở chân, đặc biệt là ở mắt cá chân. Để hỗ trợ cho lý thuyết của mình, Mallison đã đánh giá các chi của nhiều loài khủng long khác nhau và thấy rằng chúng khác với những loài động vật có vú và chim hiện đại; có chiều dài sải chân bị giới hạn bởi bộ xương của chúng, nhưng cũng có cơ bắp tương đối lớn ở chân sau. Ông đã tìm thấy một vài điểm tương đồng giữa các cơ trong khủng long và người đi bộ; có khối lượng cơ ít hơn ở mắt cá chân nhưng nhiều hơn ở chân sau. John Hutchinson rất thận trọng về lý thuyết này, cho thấy rằng trước tiên họ phải nhìn vào cơ bắp khủng long để xem tần suất chúng co giật.[86]

Một nghiên cứu vào tháng 7 năm 2017 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi William Sellers từ Đại học Manchester phát hiện ra rằng một con Tyrannosaurus trưởng thành không có khả năng chạy do trọng lượng lớn. Nghiên cứu đã sử dụng công nghệ máy tính mới nhất để kiểm tra những phát hiện. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng hai hệ thống cơ khí cấu trúc khác nhau để tạo ra mô hình máy tính. Trọng lượng dùng để giải quyết cho tính toán của họ là một ước tính bảo thủ 7 tấn. Mô hình cho thấy tốc độ đạt được trên 11 dặm/giờ (18 km/h) có lẽ sẽ làm gãy vỡ xương chân của Tyrannosaurus. Phát hiện này có nghĩa là hoạt động chạy là không thể cho những loài khủng long chân thú khổng lồ khác như Giganotosaurus, MapusaurusAcrocanthosaurus.[87]

Một nghiên cứu khác vào tháng 7 năm 2017 bởi các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Đa dạng Sinh học Tích hợp Đức (iDiv) đã phát hiện ra rằng tốc độ tối đa của Tyrannosaurus là vào khoảng 17 dặm/giờ (27 km/h). Các loài khủng long khác bao gồm Triceratops, VelociraptorBrachiosaurus cũng được phân tích trong nghiên cứu này, cũng như nhiều loài động vật sống như voi, báo đốmthỏ. Tốc độ của Tyrannosaurus được tính bằng cách phân tích thừa số trọng lượng kết hợp với môi trường mà chúng đi (trong trường hợp của khủng long chân thú, đất) và bởi các giả định rằng: thứ nhất; động vật đạt được tốc độ tối đa của chúng trong thời gian chạy nước rút tương đối ngắn, và thứ hai; Định luật chuyển động của Newton cho rằng khối lượng phải vượt qua quán tính. Nghiên cứu phát hiện rằng động vật lớn như Tyrannosaurus xả ra năng lượng dự trữ rất lâu trước khi chúng đạt tới tốc độ tối đa lý thuyết của chúng, dẫn đến mối quan hệ giống một đường parabol giữa kích thước và tốc độ. Phương trình có thể tính toán tốc độ tối đa của một con vật với độ chính xác vào khoảng 90% và có thể áp dụng cho cả động vật sống và đã tuyệt chủng.[88][89]

Những người cho rằng Tyrannosaurus không có khả năng chạy ước tính tốc độ tối đa của Tyrannosaurus là khoảng 17 km/h (11 dặm/giờ). Tốc độ này vẫn còn nhanh hơn so với các loài mà chúng săn mồi, như hadrosauridsceratopsians.[72] Ngoài ra, một số người ủng hộ ý tưởng rằng Tyrannosaurus là một động vật ăn thịt cho rằng tốc độ chạy của tyrannosaur là không quan trọng, vì nó có thể chậm nhưng vẫn nhanh hơn con mồi tiềm năng của nó.[90] Thomas Holtz cũng lưu ý rằng Tyrannosaurus có chiều dài tương đối lớn hơn so với những con vật mà nó săn bắt: khủng long mỏ vịt và khủng long sừng.[52] Paul và Christiansen (2000) đã lập luận rằng ít nhất những con Ceratopsian sau này đã có chân trước thẳng đứng và những loài lớn hơn có thể nhanh như tê giác.[91] Hồi phục vết thương trên hóa thạch của ceratopsian bởi một vết cắn chứng tỏ chúng là con mồi của tyrannosaurus. Nếu các loài Ceratopsian sống bên cạnh Tyrannosaurus nhanh nhẹn, điều đó khiến các nhà khoa học phải nghi ngờ về lập luận rằng Tyrannosaurus không cần phải nhanh để bắt con mồi.[79]

Não và các giác quan

Một nghiên cứu được tiến hành bởi Lawrence Witmer và Ryan Ridgely từ Đại học Ohio phát hiện ra rằng Tyrannosaurus cũng có các giác quan nhạy của các loài khủng long đuôi rỗng khác, nổi bật là chuyển động mắt và đầu tương đối nhanh và phối hợp nhuần nhuyễn, cũng như khả năng cảm nhận âm thanh tần số thấp giúp chúng săn mồi từ khoảng cách xa và khứu giác tăng cường.[155] Một nghiên cứu được công bố bởi Kent Stevens của Đại học Oregon kết luận rằng Tyrannosaurus có tầm nhìn rất sắc sảo. Bằng cách áp dụng cahs kiẻm tra mắtđể tái tạo khuôn mặt của một số loài khủng long bao gồm Tyrannosaurus, nghiên cứu cho thấy rằng Tyrannosaurus có một phạm vi tầm nhìn hai mắt là 55 độ, vượt qua các loài diều hâu hiện đại, và thj lực gấp 13 lần thị lực của một người thường, do đó vượt qua thị lực của cả một con đại bàng, loài mà chỉ có thị lực gấp 3,6 lần con người. Điều này sẽ cho phép Tyrannosaurus phân biệt đối tượng cách xa chúng 6 km (3,7 dặm), xa hơn 1,6 km (1 dặm) mà con người có thể nhìn.

Thomas Holtz Jr. lưu ý rằng các giác quan sắc bén của Tyrannosaurus phát triển là do các con mồi mà chúng phải săn lùng; lưu ý rằng chúng phải săn lùng những con khủng long sừng như Triceratops, khủng long bọc thép như Ankylosaurus và những con khủng long mỏ vịt có thể có những hành vi xã hội phức tạp. Ông đề nghị rằng điều này làm cho độ chính xác quan trọng hơn đối với Tyrannosaurus cho phép nó, "đi vào, đớp một cú và hạ gục chúng." Ngược lại, loài Acrocanthosaurus có giác quan hạn chế bởi vì chúng săn lùng những con khủng long chân thằn lằn lớn, tương đối hiếm trong khoảng thời gian của Tyrannosaurus.

Tyrannosaurushành khứu giác rất lớn so với kích thước não bộ của chúng, các cơ quan chịu trách nhiệm quản lí khứu giác cực nhạy. Điều này cho thấy rằng khứu giác của chúng đã được phát triển rất cao, và ngụ ý rằng tyrannosaurs có thể phát hiện thịt sống bằng mùi hương của một cái xác trong khoảng cách lớn. Khứu giác của tyrannosaurs có thể được so sánh với kền kền hiện đại, sử dụng mùi để đánh hơi chỗ ăn xác. Nghiên cứu về hành khứu giác chỉ ra rằng Tyrannosaurus rex có khứu giác nhạy nhất trong 21 loài khủng long không giống chim.

Hơi bất thường trong số các loài khủng long chân thú, T. rex đã có một ốc tai rất dài. Chiều dài của ốc tai thường liên quan đến khả năng nghe ngóng, hoặc ít nhất là tầm quan trọng của thính giác trong hành vi của loài, ngụ ý rằng thính giác rất quan trọng đối với loài tyrannosaurs. Cụ thể, dữ liệu cho thấy Tyrannosaurus rex nghe tốt nhất trong dải tần số thấp và âm thanh tần số thấp là một phần quan trọng trong hành vi tyrannosaur. [

Một nghiên cứu của Grant R. Hurlburt, Ryan C. Ridgely và Lawrence Witmer đã đạt được các ước tính cho các số liệu kích thước não tương đối (EQs), dựa trên các loài bò sát và chim, cũng như các ước tính cho tỷ lệ giữa não và khối não. Nghiên cứu kết luận rằng Tyrannosaurus có bộ não tương đối lớn trong các loài khủng long đã trưởng thành trừ một số lòai maniraptoriforms nhỏ (Bambiraptor, TroodonOrnithomimus). Nghiên cứu cho thấy kích thước não tương đối của Tyrannosaurus vẫn nằm trong phạm vi của các loài bò sát hiện đại, có tối đa 2 độ lệch chuẩn trên mức trung bình của các EQ bò sát không giống chim. Các ước tính cho tỷ lệ khối lượng não trên với khối lượng não sẽ dao động từ 47,5 đến 49,53%. Theo nghiên cứu, con số này cao hơn ước tính thấp nhất cho các loài chim còn sống (44,6%), nhưng vẫn gần với tỷ lệ điển hình của cá sấu trưởng thành tình dục nhỏ nhất, dao động từ 45,9–47,9%

Hành vi ăn uống

Một nghiên cứu vào năm 2012 bởi Karl Bates và Peter Falkingham đã chứng minh rằng Tyrannosaurus có lực cắn mạnh nhất của bất kỳ loài động vật trên cạn nào từng sống. Họ phát hiện ra rằng một con Tyrannosaurus trưởng thành có thể sinh ra lực cắn từ 35.000 đến 57.000 N (7,868 đến 12,814 lbf) với các răng sau.[160[161][162] Thậm chí có thể lớn hơn theo ước tính đã được thực hiện bởi giáo sư Mason B. Meers tại Đại học Tampa vào năm 2003. Trong nghiên cứu của mình, Meers ước tính một lực cắn có thể là từ 183.000 đến 235.000 N (41.140 đến 52.830 lbf).[9] Một nghiên cứu vào năm 2017 bởi Greg Erikson và Paul Gignac được công bố trên tạp chí Scientific Reports cho thấy Tyrannosaurus có thể gây ra lực cắn từ 8,526 N đến 34,522 N (1,917 đến 7,761 lbf) và áp lực răng từ 718 đến 2,974 MPa (104,137 đến 431,342 psi). Điều này cho phép nó nghiền nát xương trong quá trình cắn lặp đi lặp lại và khai thác hiệu quả thịt từ xác của động vật, cho phép nó hấp thụ muối khoáng và tủy xương mà những loài ăn thịt nhỏ không thể tiếp cận được.[163] Nghiên cứu được thực hiện bởi Stephan Lautenschlager và nhiều người khác từ Đại học Bristol, cho thấy Tyrannosaurus cũng có khả năng mở hàm tối đa một góc 80 độ, sự thích ứng cần thiết cho một loạt các góc hàm để cung cấp năng lượng cho vết cắn mạnh.

Cuộc tranh luận về việc liệu Tyrannosaurus là một động vật ăn thịt hay ăn xác thuần túy cũng đã nhiều tuổi như cuộc tranh luận về sự vận động của nó. Lambe (1917) mô tả một bộ xương Gorgosaurus họ hàng thân cận với loài Tyrannosaurus và kết luận rằng nó và do đó loài Tyrannosaurus cùng là loài ăn xác thuần túy, bởi vì răng của con Gorgosaurus hầu như không bị mòn đi.[166] Lập luận này không còn được coi trọng nữa, do khủng long chân thú thay thế răng của chúng khá nhanh chóng. Kể từ lần khám phá đầu tiên của Tyrannosaurus, hầu hết các nhà khoa học đã suy đoán rằng chúng là động vật ăn thịt; giống như những kẻ săn mồi lớn hiện đại, chúng sẽ dễ dàng tìm xác hoặc ăn cắp con mồi từ những kẻ săn mồi khác nếu có cơ hội

Nhà cổ sinh vật học Jack Horner là một người ủng hộ ý tưởng rằng Tyrannosaurus chỉ là kẻ ăn xác và không tự mình săn mồi,[52][168][169] mặc dù bản thân Horner đã tuyên bố rằng ông không bao giờ xuất bản ý tưởng này trên các tài liệu khoa học được xem xét và sử dụng nó chủ yếu như một công cụ để tuyên truyền cho công chúng, đặc biệt là trẻ em, sự nguy hiểm khi đưa ra các giả định về khoa học (như giả định T. rex là kẻ săn mồi) mà không có bằng chứng rõ ràng.[170] Tuy nhiên, Horner đã trình bày một số lý lẽ trong các tài liệu phổ biến để hỗ trợ giả thuyết ăn xác thuần túy:

  • Tyrannosaur có đôi tay quá ngắn khi so sánh với những kẻ săn mồi được biết đến khác. Horner lập luận rằng cánh tay quá ngắn để tạo ra lực bám cần thiết để giữ con mồi.
  • Tyrannosaurs có hành khứu giác và thần kinh khứu giác lớn (ao với kích thước não của chúng). Những điều này gợi ý một khứu giác cực kì phát triển có thể đánh hơi xác thịt trên một khoảng cách lớn, giống những con kền kền hiện đại. Nghiên cứu về hành khứu giác của loài khủng long đã chỉ ra rằng Tyrannosaurus có khứu giác phát triển cao nhất trong số 21 loài khủng long được lấy mẫu.[172] Những người phản đối giả thuyết ăn xác thuần túy đã sử dụng ví dụ về kền kền theo cách ngược lại, cho rằng giả thuyết ăn xác là không hợp lý bởi vì những kẻ ăn xác thuần túy hiện đại là những loài chim bay lượn lớn, sử dụng các giác quan quan trọng của chúng và cahs bay lượn dùng năng lượng một cách hiệu quả.[173] Các nhà nghiên cứu ở Glasgow đã kết luận rằng một hệ sinh thái có năng suất như Serengeti hiện tại sẽ cung cấp đủ xác thối cho một con khủng long chân thú ăn xác lớn, mặc dù chúng phải là loài máu lạnh để có thể lấy calo từ xác thối hiệu quả hơn là khi đi hái lượm. Họ cũng gợi ý rằng các hệ sinh thái hiện đại như Serengeti không có loài ăn xác lớn trên mặt đất phần lớn bởi vì chim lượn hiện nay thực hiện công việc ăn xác hiệu quả hơn nhiều, trong khi các loài chân thú lớn không phải đối mặt với các sự cạnh tranh từ chim.
  • Răng của Tyrannosaur có thể dập nát xương, và do đó có thể trích xuất càng nhiều chất dinh dưỡng (tủy xương) càng tốt từ thịt thối, thường là những phần ít dinh dưỡng nhất. Karen Chin và các đồng nghiệp đã tìm thấy các mảnh xương trong coprolit (phân hóa thạch) thuộc về tyrannosaurs, nhưng chỉ ra rằng răng của tyrannosaur không thích nghi tốt với việc nhai xương hiệu quả như linh cẩu làm để chiết xuất tủy.
  • Vì ít nhất một số con mồi tiềm năng của Tyrannosaurus có thể di chuyển nhanh, bằng chứng rằng chúng chỉ có thể đi thay vì chạy chứng tỏ nó phải là một kẻ ăn xác.[168][176] Mặt khác, các phân tích gần đây cho thấy rằng Tyrannosaurus, trong khi chậm hơn so với những kẻ săn mồi trên mặt đất hiện đại lớn, cũng có thể đủ nhanh để săn khủng long sừng và mỏ vịt lớn.

Bằng chứng khác cho thấy hành vi săn mồi ở Tyrannosaurus. Các ổ mắt của tyrannosaurs được định vị sao cho mắt sẽ hướng về phía trước, cho chúng tầm nhìn hai mắt tốt hơn một chút so với diều hâu hiện đại. Horner cũng chỉ ra rằng dòng dõi loài tyrannosaur có lịch sử cải thiện thị lực hai mắt. Nếu tyrannosaur là loài chuyên ăn xác, theo thuyết chọn lọc tự nhiên sẽ không thể giải thích tại sao chúng vẫn còn giữ nhận thức chiều sâu mà thị lực lập thế mang lại, đặc điểm sẽ không cần thiết nếu nó là loài chỉ ăn xác.[24][25] Trong động vật hiện đại, tầm nhìn hai mắt được tìm thấy chủ yếu ở những kẻ săn mồi.

Một bộ xương của một con hadrosaurid Edmontosaurus annrosens đã được mô tả từ Montana với tổn thương do tyrannosaur gây ra trên đốt sống đuôi của nó. Thực tế là vết cắn dường như đã lành lại cho thấy rằng con Edmontosaurus sống sót sau một cuộc tấn công của tyrannosaur vào một mục tiêu sống, tức là con tyrannosaur đã là động vật ăn thịt săn mồi.[177] Ngoài ra còn có bằng chứng cho cuộc đối đầu giữa một con Triceratops và một con Tyrannosaurus trong đó có một vết răng của con Tyrannosaurus trên một sừng của con triceratops và squamosal (một xương của nếp gấp cổ); sừng bị cắn cũng bị gãy, với sự phát triển của xương mới sau khi gãy. Tuy nhiên, người ta không biết bản chất chính xác của tương tác là gì: bởi bất kìcon nào cũng có thể là kẻ tấn công trước. DO vết thương của Triceratops lành lại, có nhiều khả năng là con Triceratops sống sót sau cuộc chạm trán và cố gắng chạy trốn khỏi Tyrannosaurus. Nhà cổ sinh vật học Peter Dodson ước tính rằng trong một trận chiến chống lại một con Triceratops, Triceratops chiếm ưu thế và tự vệ thành công bằng cách gây thương tích cho Tyrannosaurus với bộ sừng nhọn của nó.

Khi kiểm tra mẫu vật Sue, nhà cổ sinh vật học Pete Larson tìm thấy một xương mác và đuôi đốt sống bị gãy và đã lành, xương mặt bị sẹo và một chiếc răng từ một con Tyrannosaurus khác bị chìm vào trong đốt sống cổ. Nếu đúng, đây có thể là bằng chứng mạnh mẽ cho hành vi hung hăng giữa các tyrannosaurs nhưng liệu đây có phải là sự cạnh tranh cho thức ăn và bạn tình hay ăn thịt đồng loại chủ động là không rõ ràng.[180] Điều tra gần đây hơn về những vết thương có mục đích này cho thấy hầu hết là do nhiễm trùng chứ không phải là thương tích (hoặc đơn giản là tổn thương hóa thạch sau khi chết) và một số vết thương quá chung chung để chỉ ra sự xung đột của các cá thể cùng loài. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nếu Tyrannosaurus là một loài ăn xác, một loài khủng long khác phải là loài săn mồi hàng đầu trong kỷ Phấn trắng tại Châu Mỹ. Các con mồi hàng đầu là các loài Khủng long đầu diềmKhủng long chân chim lớn hơn. Các loài tyrannosaurids khác chia sẻ rất nhiều đặc điểm cùng với T. rex nên chỉ các loài ăn thịt nhỏ như dromaeosaurstroodontidslà loài ăn thịt bậc nhất khả thi. Trong giả thuyết này, các nhà ủng hộ thuyết ăn xác cho rằng kích thước và sức mạnh của tyrannosaurs cho phép chúng ăn cắp con mồi từ những kẻ săn mồi nhỏ hơn,[176] mặc dù chúng có thể gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đủ thịt để sống sót, do những loài chân thú nhỏ hơn đông hơn nhiều. Hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều chấp nhận rằng Tyrannosaurus vừa là một kẻ săn mồi hoạt động và là một kẻ ăn xác như hầu hết các loài ăn thịt lớn.

Tyrannosaurus có thể đã có nước bọt nhiễm trùng được sử dụng để tiêu diệt con mồi của nó. Lý thuyết này lần đầu tiên được William Abler đề xuất. [182] Abler kiểm tra răng của tyrannosaurids giữa mỗi răng cưa; các răng cưa có thể đã giữ những mẩu thịt với vi khuẩn, khiến Tyrannosaurus có một vết cắn chết người, truyền nhiễm giống như rồng Komodo được cho là có vết cắn nhiễm khuẩn. Jack Horner cho rằng răng cưa của Tyrannosaurus giống như hình khối khác với răng của loài Komodo, với hình hơi tròn.[183] Tất cả các dạng nước bọt đều chứa vi khuẩn nguy hiểm, do đó, viễn cảnh của nó được sử dụng như một phương pháp ăn thịt có thể bị tranh chấp.

Tyrannosaurus, và hầu hết các khủng long chân thú khác, có lẽ chủ yếu là xử lý thân thịt với cú lắc ngang của đầu, giống như cá sấu. Cái đầu của chúng không linh hoạt như hộp sọ của allosauroids, do các khớp rất phẳng của đốt sống cổ. [

Ăn thịt đồng loại

Một nghiên cứu từ Currie, Horner, Erickson và Longrich trong năm 2010 đã được đưa ra như là bằng chứng về hành động ăn thịt đồng loại trong chi Tyrannosaurus.[185] Họ đã nghiên cứu một số mẫu vật Tyrannosaurus có dấu răng trong xương, do cùng một chi gây ra. Các vết răng đã được xác định trong xương cánh cụt, chân và xương bàn chân, và điều này được coi là bằng chứng cho loài ăn xác cơ hội, hơn là vết thương do chiến đấu cùng loài. Trong một cuộc chiến, họ nói rằng sẽ rất khó để chúng tiếp cận và cắn ở dưới chân của một đối thủ, nhiều khả năng là vết cắn được thực hiện bởi loài ăn xác. Khi vết cắn được tạo ra trên các bộ phận cơ thể với lượng thịt tương đối ít ỏi, người ta cho rằng Tyrannosaurus đang ăn một cái xác, do các bộ phận nhiều thịt hơn đã được tiêu thụ bởi loài khác. Nó cũng mở cửa cho khả năng rằng các tyrannosaurids khác đã thực hiện hành vi ăn thịt đồng loại.[185] Các bằng chứng khác cho giả thuyết ăn thịt đồng loại đã được khai quật.[186]

Hành vi bầy đàn

Philip J. Currie thuộc Đại học Alberta đã gợi ý rằng Tyrannosaurus có thể đã sống theo bầy. Currie so sánh Tyrannosaurus rex với các loài có liên quan như Tarbosaurus bataarAlbertosaurus sarcophagus, bằng chứng hóa thạch mà từ đó Currie từng sử dụng để gợi ý rằng chúng sống trong các bầy.[187] Currie chỉ ra rằng một phát hiện ở Nam Dakota tìm thấy ba bộ xương bảo tồn của Tyrannosaurus rex ở gần nhau.[188] Sau khi sử dụng chức năng quét CT, Currie nói rằng Tyrannosaurus đã co thể có khả năng hành vi phức tạp như vậy, bởi vì kích thước bộ não của chúng lớn hơn gấp 3 lần so với con vật có kích thước của nó. Currie nói rằng Tyrannosaurus có tỷ lệ kích thước não so với cơ thể lớn hơn so với cá sấu và gấp ba lần so với loài khủng long ăn thực vật như Triceratops có cùng kích thước. Currie tin rằng Tyrannosaurus thông minh hơn sáu lần so với hầu hết các loài khủng long và các loài bò sát khác.[187][189] Bởi vì các con mồi có sẵn, như TriceratopsAnkylosaurus, được bọc giáp tốt, và những con mồi khác thì di chuyển nhanh, nên Tyrannosaurus cần phải săn mồi theo nhóm. Currie suy đoán rằng những con chưa trưởng thành và con trưởng thành sẽ cùng nhau săn mồi, với những con non nhanh hơn đuổi theo con mồi và những con trưởng thành mạnh mẽ hơn sẽ hạ con mồi, tương tự như các loài săn bầy đàn ngày nay, nơi mà mỗi thành viên đóng góp một phần công sức để bắt mồi.

Giả thuyết săn bầy đàn của Currie đã bị các nhà khoa học khác chỉ trích gay gắt. Brian Switek, viết cho tờ The Guardian vào năm 2011,[190] lưu ý rằng giả thuyết của Currie chưa được trình bày như một nghiên cứu trong tạp chí khoa học được đánh giá ngang hàng, nhưng chủ yếu liên quan đến một cuốn sách đặc biệt truyền hình và gắn liền với tên gọi Dino Gangs. Switek cũng lưu ý rằng lập luận của Currie về cách săn bầy của Tyrannosaurus rex chủ yếu dựa trên sự tương đồng với một loài khác, Tarbosaurus bataar, và rằng bằng chứng cho săn mồi theo bầy trong loài T. bataar vẫn chưa được công nhận và phải chịu sự giám sát khoa học. Theo Switek và các nhà khoa học khác, những người tham gia thảo luận về chương trình truyền hình Dino Gangs, bằng chứng cho săn bắt bầy đàn ở TarbosaurusAlbertosaurus là yếu, chủ yếu dựa trên sự tập trung của một số bộ xương tại một nơi nhất định, mà nhiều giải thích thay thế đã được đề xuất (ví dụ hạn hán hoặc lũ lụt buộc nhiều mẫu vật cùng nhau chết ở một nơi). Trong thực tế, Switek lưu ý rằng nơi khai quật bbooj xương của Albertosaurus, mà Currie đã dựa hầu hết các giải thích về bầy đàn, bảo tồn bằng chứng địa chất về một trận lũ như vậy. Switek nói, "riêng phần xương là không đủ để tái tạo lại hành vi khủng long. Các bối cảnh địa chất trong đó những xương được tìm thấy - các chi tiết phức tạp của môi trường cổ đại và tốc độ thời tiền sử - rất cần thiết để điều tra cuộc sống và cái chết của khủng long."190] và lưu ý rằng Currie trước tiên phải mô tả bằng chứng địa chất từ ​​các nơi khác mà tìm ra xương tyrannosaur trước khi nhảy đến kết luận về hành vi xã hội. Switek đã mô tả những tuyên bố giật gân được đưa ra trên báo chí và các tin tức xung quanh chương trình Dino Gangs là "nauseating hype" và lưu ý rằng công ty sản xuất chịu trách nhiệm cho chương trình này, Atlantic Productions, có một hồ sơ nghèo liên quan đến tuyên bố phóng đại về những khám phá hóa thạch mới, ví dụ như tuyên bố gây tranh cãi liên quan đến tổ tiên con người đầu tiên được cho là loài Darwinius, mà sau này được công nhận là người họ hàng gần hơn của loài vượn cáo.

Bệnh lý học

Cổ sinh thái học

Tyrannosaurus sống trong những gì được gọi là giai đoạn địa tầng Lancian (Kỳ Maastrichtian) vào cuối của kỷ Phấn trắng muộn. Tyrannosaurus từ miền Bắc Canada kéo dài tới TexasNew Mexico nằm ở phía nam Laramidia. Trong thời gian này Triceratops là động vật ăn cỏ lớn ở phần phía bắc trong phạm vi sinh sống của chúng, trong khi các khủng long chân thằn lằn titanosaurian Alamosaurus "thống trị" phạm vi phía nam.Tyrannosaurus còn được phát hiện trong các hệ sinh thái khác nhau, bao gồm cả đồng bằng ven biển và cận nhiệt đới, và đồng bằng bán khô cằn.

Một số Tyrannosaurus đáng chú ý đã được tìm thấy tại thành hệ Hell Creek. Trong kỳ Maastrichtian khu vực này là vùng cận nhiệt đới, với một khí hậu ấm áp và ẩm ướt. Hệ thực vật bao gồm chủ yếu là thực vật hạt kín, nhưng cũng bao gồm các cây cối như gỗ đỏ bình minh (Metasequoia) và Araucaria araucana. Tyrannosaurus đã chia sẻ hệ sinh thái này với Triceratops, các loài ceratopsian như Nedoceratops, TatankaceratopsTorosaurus, các loài hadrosaurid như Edmontosaurus annectens và có thể với một loài Parasaurolophus, những loài khủng long bọc giáp như Denversaurus, EdmontoniaAnkylosaurus, những con khủng long đầu dày như Pachycephalosaurus, Stygimoloch, Sphaerotholus, và Dracorex, loài hypsilophodont Thescelosaurus, và các loài khủng long chân thú như Ornithomimus, Struthiomimus, Orcomimus, Acheroraptor, Dakotaraptor, Richardoestesia, Paronychodon, PectinodonTroodon. [198]

Một thành hệ khác với tàn tích của tyrannosaur là thành hệ Lance của Wyoming. Nơi này được cho là một môi trường bayou tương tự như vùng duyên hải Gulf ngày nay. Hệ động vật ở đây rất giống với Hell Creek, nhưng với Struthiomimus thay thế loài Ornithomimus tương đối của nó. Leptoceratops nhỏ cũng sống trong khu vực. [199]

Trong phạm vi phía nam Tyrannosaurus sống cùng với các loài khủng long khổng lồ như Alamosaurus, các loài khủng long Torosaurus, BravoceratopsOjoceratops, các loài khủng long mỏ vịt bao gồm một loài Edmontosaurus, Kritosaurus và một loài Gryposaurus, loài nodosaur Glyptodontopelta, loài oviraptorid Ojoraptosaurus, một sô loài chân thú khả thi như TroodonRichardoestesia, và loài thằn lằn bay Quetzalcoatlus.[200] Vùng này được cho là đã bị chi phối bởi các đồng bằng nội địa bán khô cằn, sau sự rút lui có thể xảy ra của Đường biển Western Interior khi mực nước biển toàn cầu giảm xuống. [201]

Tyrannosaurus có thể cũng đã sinh sống ở thành hệ Lomas Coloradas của Mexico ở Sonora. Mặc dù thiếu bằng chứng về xương, sáu chiếc răng rụng và bị gãy từ tầng hóa thạch đã được so sánh kỹ với các chi theropod khác và dường như giống hệt với Tyrannosaurus. Nếu đúng, bằng chứng cho thấy phạm vi sinh sống của Tyrannosaurus có thể rộng hơn nhiều so với trước đây.[202] Có thể tyrannosaurs ban đầu là loài châu Á, di cư đến Bắc Mỹ trước khi kết thúc thời kỳ kỷ Phấn trắng. [203]

Trong văn hóa đại chúng

Vì nó đã được mô tả lần đầu vào năm 1905, Tyrannosaurus đã trở thành loài khủng long được biết đến rộng rãi nhất trong văn hóa đại chúng. "Khủng long bạo chúa" là loài khủng long duy nhất thường được biết đến bằng tên khoa học đầy đủ Tyrannosaurus rex, và chữ viết tắt khoa học T. rex cũng được sử dụng rộng rãi.[22]

Chú thích

Tư liệu liên quan tới Tyrannosaurus tại Wikimedia Commons

  1. ^ “Tyrannosaurus”. Online Etymology Dictionary.
  2. ^ Hicks, J.F.; Johnson, K.R.; Obradovich, J.D.; Tauxe, L.; Clark, D. (2002). “Magnetostratigraphy and geochronology of the Hell Creek and basal Fort Union Formations of southwestern North Dakota and a recalibration of the Cretaceous–Tertiary Boundary” (PDF). Geological Society of America Special Papers. 361: 35–55. doi:10.1130/0-8137-2361-2.35.
  3. ^ a b Henderson DM (ngày 1 tháng 1 năm 1999). “Estimating the masses and centers of mass of extinct animals by 3-D mathematical slicing”. Paleobiology (bằng tiếng Anh). 25 (1): 88–106. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “henderson1999” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  4. ^ a b c “Sue's vital statistics”. Sue at the Field Museum (bằng tiếng Anh). Field Museum of Natural History. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2007.
  5. ^ a b c d Erickson, Gregory M., GM (2004). “Gigantism and comparative life-history parameters of tyrannosaurid dinosaurs”. Nature (bằng tiếng Anh). 430 (7001): 772–775. doi:10.1038/nature02699. PMID 15306807. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  6. ^ Switeck, Brian (ngày 13 tháng 4 năm 2012). “When Tyrannosaurus Chomped Sauropods”. Smithsonian Media. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2013.
  7. ^ Hutchinson, John (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “Tyrannosaurus rex: predator or media hype?”. What's in John's Freezer?. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2013.
  8. ^ a b Meers, Mason B. (tháng 8 năm 2003). “Maximum bite force and prey size of Tyrannosaurus rex and their relationships to the inference of feeding behavior”. Historical Biology: A Journal of Paleobiology. 16 (1): 1–12. doi:10.1080/0891296021000050755. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MM03” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  9. ^ [1], Meers, Mason B. (2003) T. Rex Bite Force and Prey Size. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013 from http://utweb.ut.edu/hosted/faculty/mmeers/res/trex/trexbite.html
  10. ^ a b c d Hutchinson, J. R.; Bates, K. T.; Molnar, J.; Allen, V.; Makovicky, P. J. (2011). “A Computational Analysis of Limb and Body Dimensions in Tyrannosaurus rex with Implications for Locomotion, Ontogeny, and Growth”. PLoS ONE. 6 (10): e26037. doi:10.1371/journal.pone.0026037.
  11. ^ Anderson, JF; Hall-Martin, AJ; Russell, Dale (1985). “Long bone circumference and weight in mammals, birds and dinosaurs”. Journal of Zoology. 207 (1): 53–61. doi:10.1111/j.1469-7998.1985.tb04915.x.
  12. ^ Bakker, Robert T. (1986). The Dinosaur Heresies. New York: Kensington Publishing. ISBN 0-688-04287-2. OCLC 13699558.[cần số trang]
  13. ^ a b Farlow, JO; Smith, MB; Robinson, JM (1995). “Body mass, bone "strength indicator", and cursorial potential of Tyrannosaurus rex. Journal of Vertebrate Paleontology. 15 (4): 713–725. doi:10.1080/02724634.1995.10011257.
  14. ^ Seebacher, Frank. (2001). “A new method to calculate allometric length–mass relationships of dinosaurs”. Journal of Vertebrate Paleontology. 21 (1): 51–60. doi:10.1671/0272-4634(2001)021[0051:ANMTCA]2.0.CO;2.
  15. ^ Christiansen, Per; Fariña, Richard A. (2004). “Mass prediction in theropod dinosaurs”. Historical Biology. 16 (2–4): 85–92. doi:10.1080/08912960412331284313.
  16. ^ Boardman, T. J.; Packard, G. C.; Birchard, G. F. (2009). “Allometric equations for predicting body mass of dinosaurs”. Journal of Zoology. 279 (1): 102–110. doi:10.1111/j.1469-7998.2009.00594.x.
  17. ^ Hartman, Scott (ngày 7 tháng 7 năm 2013). “Mass estimates: North vs South redux”. Scott Hartman's Skeletal Drawing.com. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2013.
  18. ^ http://dinoweb.ucoz.ru/_fr/4/My_theropod_is_.pdf
  19. ^ Therrien, F.; Henderson, D.M. (2007). “My theropod is bigger than yours...or not: estimating body size from skull length in theropods”. Journal of Vertebrate Paleontology. 27 (1): 108–115. doi:10.1671/0272-4634(2007)27[108:MTIBTY]2.0.CO;2. ISSN 0272-4634.
  20. ^ Hone, David (2016). The Tyrannosaur Chronicles. Bedford Square, London: Bloomsbury Sigma. tr. 145–146. ISBN 978-1-4729-1125-4.
  21. ^ Switek, Brian (17 tháng 10 năm 2013). “My T. Rex Is Bigger Than Yours”. National Geographic. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2017.
  22. ^ a b c d e f Brochu, C.R. (2003). “Osteology of Tyrannosaurus rex: insights from a nearly complete skeleton and high-resolution computed tomographic analysis of the skull”. Society of Vertebrate Paleontology Memoirs. 7: 1–138. doi:10.2307/3889334. JSTOR 3889334. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “brochu2003” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  23. ^ Lipkin, Christine; Carpenter, Kenneth (2008). “Looking again at the forelimb of Tyrannosaurus rex”. Trong Carpenter, Kenneth; Larson, Peter E. (biên tập). Tyrannosaurus rex, the Tyrant King (Life of the Past). Bloomington: Indiana University Press. tr. 167–190. ISBN 0-253-35087-5.
  24. ^ Stevens, Kent A. (tháng 6 năm 2006). “Binocular vision in theropod dinosaurs”. Journal of Vertebrate Paleontology. 26 (2): 321–330. doi:10.1671/0272-4634(2006)26[321:BVITD]2.0.CO;2.
  25. ^ Jaffe, Eric (1 tháng 7 năm 2006). “Sight for 'Saur Eyes: T. rex vision was among nature's best”. Science News. 170 (1): 3–4. doi:10.2307/4017288. JSTOR 4017288. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2008.
  26. ^ Snively, Eric; Henderson, Donald M.; Phillips, Doug S. (2006). “Fused and vaulted nasals of tyrannosaurid dinosaurs: Implications for cranial strength and feeding mechanics” (PDF). Acta Palaeontologica Polonica. 51 (3): 435–454. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  27. ^ Erickson, G.M.; Van Kirk, S.D.; Su, J.; Levenston, M.E.; Caler, W.E.; Carter, D.R. (1996). “Bite-force estimation for Tyrannosaurus rex from tooth-marked bones”. Nature. 382 (6593): 706–708. Bibcode:1996Natur.382..706E. doi:10.1038/382706a0.
  28. ^ a b c Holtz, Thomas R. (1994). “The Phylogenetic Position of the Tyrannosauridae: Implications for Theropod Systematics”. Journal of Palaeontology. 68 (5): 1100–1117. JSTOR 1306180.
  29. ^ a b c d Paul, Gregory S. (1988). Predatory dinosaurs of the world: a complete illustrated guide. New York: Simon and Schuster. ISBN 0-671-61946-2. OCLC 18350868.[cần số trang]
  30. ^ Smith, J. B. (tháng 12 năm 2005). “Heterodonty in Tyrannosaurus rex: implications for the taxonomic and systematic utility of theropod dentitions”. Journal of Vertebrate Paleontology. 25 (4): 865–887. doi:10.1671/0272-4634(2005)025[0865:HITRIF]2.0.CO;2.
  31. ^ Douglas, K.; Young, S. (1998). “The dinosaur detectives”. New Scientist. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2008. One palaeontologist memorably described the huge, curved teeth of T. rex as 'lethal bananas'
  32. ^ “Sue's vital statistics”. Sue at the Field Museum. Field Museum of Natural History. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2007.
  33. ^ a b Currie, Philip J.; Hurum, Jørn H.; Sabath, Karol (2003). “Skull structure and evolution in tyrannosaurid dinosaurs” (PDF). Acta Palaeontologica Polonica. 48 (2): 227–234. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  34. ^ a b c Holtz, Thomas R., Jr. (2004). “Tyrannosauroidea”. Trong David B. Weishampel, Peter DodsonHalszka Osmólska (biên tập). The dinosauria. Berkeley: University of California Press. tr. 111–136. ISBN 0-520-24209-2.
  35. ^ Maleev, E. A. (1955). translated by F. J. Alcock. “(title in Russian)” (PDF). Doklady Akademii Nauk SSSR (bằng tiếng Nga). 104 (4): 634–637. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  36. ^ Rozhdestvensky, AK (1965). “Growth changes in Asian dinosaurs and some problems of their taxonomy”. Paleontological Journal. 3: 95–109.
  37. ^ Carpenter, Kenneth (1992). “Tyrannosaurids (Dinosauria) of Asia and North America”. Trong Niall J. Mateer and Pei-ji Chen (biên tập). Aspects of nonmarine Cretaceous geology. Beijing: China Ocean Press. ISBN 978-7-5027-1463-5. OCLC 28260578.
  38. ^ Carr, Thomas D.; Williamson, Thomas E.; Schwimmer, David R. (tháng 3 năm 2005). “A New Genus and Species of Tyrannosauroid from the Late Cretaceous (Middle Campanian) Demopolis Formation of Alabama”. Journal of Vertebrate Paleontology. 25 (1): 119–143. doi:10.1671/0272-4634(2005)025[0119:ANGASO]2.0.CO;2.
  39. ^ Hurum, Jørn H.; Sabath, Karol (2003). “Giant theropod dinosaurs from Asia and North America: Skulls of Tarbosaurus bataar and Tyrannosaurus rex compared” (PDF). Acta Palaeontologica Polonica. 48 (2): 161–190. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  40. ^ Olshevsky, George (1995). “The origin and evolution of the tyrannosaurids”. Kyoryugaku Saizensen [Dino Frontline]. 9–10: 92–119.
  41. ^ Carr, T.D.; Williamson, T.E. (2004). “Diversity of late Maastrichtian Tyrannosauridae (Dinosauria: Theropoda) from western North America”. Zoological Journal of the Linnean Society. 142 (4): 479–523. doi:10.1111/j.1096-3642.2004.00130.x.
  42. ^ Gilmore, C.W. (1946). “A new carnivorous dinosaur from the Lance Formation of Montana”. Smithsonian Miscellaneous Collections. 106: 1–19.
  43. ^ Bakker, R.T.; Williams, M.; Currie, P.J. (1988). “Nanotyrannus, a new genus of pygmy tyrannosaur, from the latest Cretaceous of Montana”. Hunteria. 1 (5): 1–30.
  44. ^ Carr, TD (1999). “Craniofacial ontogeny in Tyrannosauridae (Dinosauria, Theropoda)”. Journal of Vertebrate Paleontology. 19 (3): 497–520. doi:10.1080/02724634.1999.10011161.
  45. ^ Currie, Philip J. (2003). “Cranial anatomy of tyrannosaurid dinosaurs from the Late Cretaceous of Alberta, Canada” (PDF). Acta Palaeontologica Polonica. 42 (2): 191–226. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2008.
  46. ^ doi:10.1371/journal.pone.0079420
    Hoàn thành chú thích này
  47. ^ Horner, J. R.; Padian, K. (tháng 9 năm 2004). “Age and growth dynamics of Tyrannosaurus rex”. Proceedings: Biological Sciences. 271 (1551): 1875–80. doi:10.1098/rspb.2004.2829. PMC 1691809. PMID 15347508. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2008.
  48. ^ Schweitzer MH, Wittmeyer JL, Horner JR (tháng 6 năm 2005). “Gender-specific reproductive tissue in ratites and Tyrannosaurus rex”. Science. 308 (5727): 1456–60. Bibcode:2005Sci...308.1456S. doi:10.1126/science.1112158. PMID 15933198. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2008.
  49. ^ Lee, Andrew H.; Werning, Sarah (2008). “Sexual maturity in growing dinosaurs does not fit reptilian growth models”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 105 (2): 582–587. Bibcode:2008PNAS..105..582L. doi:10.1073/pnas.0708903105. PMC 2206579. PMID 18195356.
  50. ^ https://www.sciencedaily.com/releases/2016/03/160315085637.htm
  51. ^ a b Erickson GM, Currie PJ, Inouye BD, Winn AA (tháng 7 năm 2006). “Tyrannosaur life tables: an example of nonavian dinosaur population biology”. Science. 313 (5784): 213–7. Bibcode:2006Sci...313..213E. doi:10.1126/science.1125721. PMID 16840697.
  52. ^ a b c Holtz, Thomas R Jr. (19 tháng 3 năm 2013) [Lecture was held March 8, 2013]. The Life and Times of Tyrannosaurus rex, with Dr. Thomas Holtz (Lecture). Kane Hall Room 130 University of Washington Seattle, WA 98195: Burke Museum of Natural History and Culture. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  53. ^ Paul, Gregory S. (2008). “Chapter 18: The Extreme Life Style and Habits of the Gigantic Tyrannosaurid Superpredators of the Cretaceous North America and Asia”. Trong Larson, Peter L.; Carpenter, Kenneth (biên tập). Tyrannosaurus, The Tyrant King. Indiana University Press. tr. 307–345. ISBN 978-0-253-35087-9. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
  54. ^ Carpenter, Kenneth (1992). “Variation in Tyrannosaurus rex”. Trong Kenneth Carpenter; Philip J. Currie (biên tập). Dinosaur Systematics: Approaches and Perspectives. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 141–145. ISBN 0-521-43810-1.
  55. ^ Larson, P.L. (1994). “Tyrannosaurus sex. In: Rosenberg, G.D. & Wolberg, D.L. Dino Fest”. The Paleontological Society Special Publications. 7: 139–155.
  56. ^ Erickson GM, Kristopher Lappin A, Larson P (2005). “Androgynous rex – the utility of chevrons for determining the sex of crocodilians and non-avian dinosaurs”. Zoology (Jena, Germany). 108 (4): 277–86. doi:10.1016/j.zool.2005.08.001. PMID 16351976. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  57. ^ Leidy, J (1865). “Memoir on the extinct reptiles of the Cretaceous formations of the United States”. Smithsonian Contributions to Knowledge. 14: 1–135.
  58. ^ “Tyrannosaurus”. American Museum of Natural History. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  59. ^ a b Newman, BH (1970). “Stance and gait in the flesh-eating Tyrannosaurus”. Biological Journal of the Linnean Society. 2 (2): 119–123. doi:10.1111/j.1095-8312.1970.tb01707.x.
  60. ^ “The Age of Reptiles Mural”. Yale University. 2008. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2008.
  61. ^ Ross, R. M.; Duggan-Haas, D.; Allmon, W. D. (2013). “The Posture of Tyrannosaurus rex: Why Do Student Views Lag Behind the Science?”. Journal of Geoscience Education. 61: 145–160. Bibcode:2013JGeEd..61..145R. doi:10.5408/11-259.1.
  62. ^ Osborn, H. F. (1905). “Tyrannosaurus and other Cretaceous carnivorous dinosaurs”. Bulletin of the AMNH. New York City: American Museum of Natural History. 21 (14): 259–265. hdl:2246/1464. Retrieved October 6, 2008.
  63. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên osborn1917
  64. ^ Lambe, L. M. (1914). “On a new genus and species of carnivorous dinosaur from the Belly River Formation of Alberta, with a description of the skull of Stephanosaurus marginatus from the same horizon”. Ottawa Naturalist. 27: 129–135. Chú thích có tham số trống không rõ: |quotes= (trợ giúp)
  65. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên hornerlessem1993
  66. ^ Osborn, Henry Fairfield; Brown, Barnum (1906). “Tyrannosaurus, Upper Cretaceous carnivorous dinosaur”. Bulletin of the AMNH. New York City: American Museum of Natural History. 22 (16): 281–296. hdl:2246/1473. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2008.
  67. ^ Carpenter, Kenneth; Smith, Matt (2001). “Forelimb Osteology and Biomechanics of Tyrannosaurus rex”. Trong Tanke, Darren; Carpenter, Kenneth (biên tập). Mesozoic vertebrate life. Bloomington: Indiana University Press. tr. 90–116. ISBN 0-253-33907-3.
  68. ^ Stanley, Steven (23 tháng 10 năm 2017). “EVIDENCE THAT THE ARMS OF TYRANNOSAURUS REX WERE NOT FUNCTIONLESS BUT ADAPTED FOR VICIOUS SLASHING”. Geological Society of America Abstracts with Programs. 49 – qua GSA Annual Meeting.
  69. ^ Hutchinson JR, Ng-Thow-Hing V, Anderson FC (tháng 6 năm 2007). “A 3D interactive method for estimating body segmental parameters in animals: application to the turning and running performance of Tyrannosaurus rex”. Journal of Theoretical Biology. 246 (4): 660–80. doi:10.1016/j.jtbi.2007.01.023. PMID 17363001.
  70. ^ Carrier, David R.; Walter, Rebecca M.; Lee, David V. (15 tháng 11 năm 2001). “Influence of rotational inertia on turning performance of theropod dinosaurs: clues from humans with increased rotational inertia”. Journal Of Experimental Biology. 204 (22): 3917–3926. PMID 11807109.
  71. ^ a b Hutchinson, J.R. (2004). “Biomechanical Modeling and Sensitivity Analysis of Bipedal Running Ability. II. Extinct Taxa” (PDF). Journal of Morphology. 262 (1): 441–461. doi:10.1002/jmor.10240. PMID 15352202. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  72. ^ a b c d Hutchinson JR, Garcia M (tháng 2 năm 2002). “Tyrannosaurus was not a fast runner”. Nature. 415 (6875): 1018–21. doi:10.1038/4151018a. PMID 11875567.
  73. ^ Holtz, Thomas R. (1 tháng 5 năm 1996). “Phylogenetic taxonomy of the Coelurosauria (Dinosauria; Theropoda)”. Journal Of Paleontology. 70 (3): 536–538. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2008.
  74. ^ “Archived copy” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết), Snively, Eric, Russell, Anthony P. (2003) "Kinematic Model of Tyrannosaurid (Dinosauria: Theropoda) Arctometatarsus Function" Journal of Morphology255(2)215–227. doi:10.1002/jmor.10059
  75. ^ Christiansen, P. (1998). “Strength indicator values of theropod long bones, with comments on limb proportions and cursorial potential” (PDF). Gaia. 15: 241–255. ISSN 0871-5424. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  76. ^ “Giraffe”. WildlifeSafari.info. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2006.
  77. ^ “Chronological History of Woodland Park Zoo – Chapter 4”. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2014.
  78. ^ Alexander, R.M. (7 tháng 8 năm 2006). “Dinosaur biomechanics”. Proc Biol Sci. 273 (1596): 1849–1855. doi:10.1098/rspb.2006.3532. PMC 1634776. PMID 16822743.
  79. ^ a b Hanna, Rebecca R. (2002). “Multiple injury and infection in a sub-adult theropod dinosaur (Allosaurus fragilis) with comparisons to allosaur pathology in the Cleveland-Lloyd dinosaur quarry collection”. Journal of Vertebrate Paleontology. 22 (1): 76–90. doi:10.1671/0272-4634(2002)022[0076:MIAIIA]2.0.CO;2. ISSN 0272-4634. catalogs the injuries of the Allosaurus known as "Big Al" – at least one was attributed to a fall.
  80. ^ Paul, Gregory S. (2000). “Limb design, function and running performance in ostrich-mimics and tyrannosaurs” (PDF). Gaia. 15: 257–270.
  81. ^ Sellers, W.I.; Manning, P.L. (tháng 7 năm 2007). “Estimating dinosaur maximum running speeds using evolutionary robotics”. Proc. R. Soc. B. 274 (1626): 2711–6. doi:10.1098/rspb.2007.0846. PMC 2279215. PMID 17711833. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  82. ^ Seward, L (21 tháng 8 năm 2007). “T. rex 'would outrun footballer'. BBCNews. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2008.
  83. ^ Callison, G.; Quimby, H. M. (1984). “Tiny dinosaurs: Are they fully grown?”. Journal of Vertebrate Paleontology. 3 (4): 200–209. doi:10.1080/02724634.1984.10011975.
  84. ^ a b c Persons, Scott W.; Currie, Philip J. (tháng 1 năm 2011) [Article first published online November 12, 2010]. “The Tail of Tyrannosaurus: Reassessing the Size and Locomotive Importance of the M. caudofemoralis in Non-Avian Theropods”. The Anatomical Record. 294 (1): 119–131, . doi:10.1002/ar.21290.Quản lý CS1: dấu chấm câu dư (liên kết)
  85. ^ a b “Guest Post: Bulking-Up the Back End – Why Tyrannosaurus Tail Mass Matters | Dave Hone's Archosaur Musings”. Archosaurmusings.wordpress.com. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2015.
  86. ^ Kaplan, Matt (7 tháng 11 năm 2011). “Tyrannosaurs were power-walkers”. Nature. doi:10.1038/news.2011.631. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2013.
  87. ^ Sellers, William I.; Pond, Stuart B.; Brassey, Charlotte A.; Manning, Philip L.; Bates, Karl T. (18 tháng 7 năm 2017). “Investigating the running abilities of Tyrannosaurus rex using stress-constrained multibody dynamic analysis”. PeerJ (bằng tiếng Anh). 5: e3420. doi:10.7717/peerj.3420. ISSN 2167-8359. PMC 5518979. PMID 28740745.
  88. ^ “Why Tyrannosaurus was a slow runner and why the largest are not always the fastest”. ScienceDaily (bằng tiếng Anh). 17 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017.
  89. ^ Hirt, MR; Jetz, W; Rall, BC; Brose, U (tháng 8 năm 2017). “A general scaling law reveals why the largest animals are not the fastest”. Nature Ecology & Evolution. 1 (8): 1116–1122. doi:10.1038/s41559-017-0241-4. PMID 29046579.
  90. ^ Manning P (2008). “T. rex speed trap”. Trong Carpenter, Kenneth; Larson, Peter E. (biên tập). Tyrannosaurus rex, the Tyrant King (Life of the Past). Bloomington: Indiana University Press. tr. 205–228. ISBN 978-0-253-35087-9.
  91. ^ Paul, G.S.; Christiansen, P. (tháng 9 năm 2000). “Forelimb posture in neoceratopsian dinosaurs: implications for gait and locomotion”. Paleobiology. 26 (3): 450–465. doi:10.1666/0094-8373(2000)026<0450:FPINDI>2.0.CO;2. ISSN 0094-8373. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)