Ăn chay

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thói quen ăn chay
Mô tảChế độ ăn chay có nguồn gốc từ thực vật, có hoặc không có trứng và sữa
Phân loạiĂn chay có trứng (Ovo), ăn chay có sữa (lacto), ăn chay có trứng và sữa (ovo-lacto), chủ nghĩa thuần chay, ăn chay tươi sống, chế độ ăn uống toàn trái cây, ăn chay theo đạo Hindu, ăn chay theo đạo Phật, ăn chay Jain, ăn chay theo Do Thái giáo, đạo Thiên chúa.

Ăn chay là việc thực hành kiêng ăn thịt (thịt đỏ, thịt gia cầm, hải sản và thịt của bất kỳ động vật nào khác), và cũng có thể bao gồm kiêng các sản phẩm phụ của quá trình giết mổ động vật.[1][2]

Người ăn chay là người sống theo chế độ ăn kiêng gồm ngũ cốc, các loại đậu, hạt, rau, trái cây, nấm, tảo, men và/hoặc một số thực phẩm không có nguồn gốc động vật khác (ví dụ như muối) có hoặc không chứa sữa, mật ong và/hoặc trứng. Người ăn chay không ăn thực phẩm bao gồm hoặc đã được chế biến với sự hỗ trợ của các sản phẩm bao gồm hoặc được tạo ra từ bất kỳ bộ phận nào của thân động vật còn sống hoặc đã chết. Đáng ngạc nhiên là một số người nhận mình là người ăn chay trong khi vẫn tiếp tục tiêu thụ các sản phẩm có chứa thịt động vật bị giết mổ như gelatin (làm từ da và xương xay sẵn, có trong Jell-O, viên nang bổ sung và phim chụp ảnh) và rennet (làm từ niêm mạc dạ dày bê, dùng để làm đông pho mát cứng).

Một số người có thể không biết rằng những thành phần động vật ẩn này thậm chí còn tồn tại. Những người khác biết về chúng nhưng cảm thấy rằng chúng chỉ là những thành phần phụ của một sản phẩm và do đó sự hiện diện của chúng không quan trọng. [...] Nhiều người không ăn thịt vì lý do đạo đức mà sử dụng các phụ phẩm của động vật thu được khi động vật vẫn còn sống. Sữa là một ví dụ điển hình, vì nhiều người ăn chay tiêu thụ nó hợp lý hóa hành vi của họ bằng cách chỉ ra rằng bò không bị giết để cung cấp cho con người sản phẩm phụ đặc biệt này.

Ăn chay có thể được áp dụng vì nhiều lý do khác nhau. Nhiều người phản đối việc ăn thịt vì tôn trọng sự sống của chúng sinh. Những động cơ đạo đức như vậy đã được hệ thống hóa theo các niềm tin tôn giáo khác nhau, cũng như ủng hộ quyền động vật. Các động cơ khác để ăn chay là liên quan đến sức khỏe, chính trị, môi trường, văn hóa, thẩm mỹ, kinh tế hoặc sở thích cá nhân. Chế độ ăn kiêng cũng có nhiều biến thể: chế độ ăn chay ovo-lacto bao gồm cả trứng và các sản phẩm từ sữa, chế độ ăn chay ovo bao gồm trứng nhưng không phải sản phẩm từ sữa và chế độ ăn chay lacto bao gồm các sản phẩm từ sữa nhưng không phải trứng. Chế độ ăn thuần chay không bao gồm tất cả các sản phẩm động vật, bao gồm cả trứng và sữa. Việc kiêng các sản phẩm động vật có thể cần bổ sung chế độ ăn uống để ngăn ngừa sự thiếu hụt như thiếu hụt vitamin B12, dẫn đến thiếu máu ác tính.[3][4] Về mặt tâm lý học, sở thích ăn chay có thể bị ảnh hưởng bởi tình trạng kinh tế xã hội và các yếu tố tiến hóa của mỗi người.[5][6][7]

Thực phẩm đóng gói và chế biến, chẳng hạn như bánh ngọt, bánh quy, kẹo, sô cô la, sữa chuakẹo dẻo, thường chứa các thành phần động vật không quen thuộc và vì vậy có thể là mối quan tâm đặc biệt đối với những người ăn chay do khả năng chứa các chất phụ gia như vậy.[2][8] Cảm giác của những người ăn chay khác nhau liên quan đến những thành phần này. Một số người ăn chay xem xét kỹ nhãn sản phẩm để tìm các thành phần có nguồn gốc động vật, chẳng hạn như pho mát được làm bằng chất rennet, men dịch vị (lấy ở dạ dày bò con dùng làm cho đặc sữa khi chế biến pho mát),[8] trong khi những người ăn chay khác không phản đối việc tiêu thụ chúng hoặc không biết về sự hiện diện của chúng.[2][9][10]

Chế độ ăn bán chay bao gồm phần lớn thực phẩm chay nhưng có thể bao gồm cá hoặc thịt gia cầm, hoặc đôi khi các loại thịt khác, không thường xuyên. Những người có chế độ ăn có cá hoặc gia cầm có thể xác định thịt chỉ là thịt của động vật có vú và có thể coi là ăn chay.[11][12] Chế độ ăn chay theo chủ nghĩa đạo đức được mô tả là "tiêu thụ cá nhưng không bao gồm các loại thịt khác".[13]

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Luật tạng của Phật giáo quy định các tăng lữ phải ăn không quá giờ ngọ. Hằng tháng vào những ngày trăng rằm và đầu tháng (mùng 1 và 15 âm lịch) gọi là ngày Bố Tát (tiếng Phạn gọi là Uposatha hay Upavasatha), là ngày định kỳ để thuyết giới, cùng nhắc nhở nhau về giới pháp để tu hành. Về sau được các nhà Phật học Đại thừa Trung Quốc dịch là ngày trai giới (zh:齋) và Việt Nam dịch là ăn chay từ chữ trai đó.[14][15][16]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Ăn chay ở Ấn Độ cổ đại

Ấn Độ là một đất nước kỳ lạ.
Người ta không giết bất kỳ sinh vật sống nào, không nuôi lợn và gà,
và không bán gia súc sống.

Pháp Hiển, Thế kỷ 4/5 CN
Nhà sư Trung Quốc hành hương đến Ấn Độ[17]

Ghi chép sớm nhất về việc ăn chay có từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên,[18] khắc sâu lòng khoan dung đối với tất cả chúng sinh.[19][20] ParshwanathaMahavira, các tirthankara thứ 23 & 24 trong Kỳ Na giáo lần lượt phục hưng và ủng hộ việc ăn chay ahimsa và Jain vào thế kỷ thứ 8 đến thứ 6 trước Công nguyên; hình thức ăn chay toàn diện nhất và nghiêm ngặt nhất.[21][22][23]

Trong văn hóa Ấn Độ, ăn chay có mối liên hệ chặt chẽ với thái độ không dùng bạo lực đối với động vật (được gọi là ahimsa ở Ấn Độ) trong nhiều thiên niên kỷ và được các nhóm tôn giáo và triết gia cổ vũ.[24] Tác phẩm cổ của Ấn Độ về Tirukkural nhấn mạnh một cách rõ ràng và rõ ràng về việc tránh xa thịt và không sát sinh.[25] Chương 26 của Tirukkural, đặc biệt là các câu ghép từ 251–260, chỉ đề cập đến việc ăn chay hoặc ăn thuần chay.[25]

Trong số những người Hy Lạp, Ai Cập và những người khác, ăn chay có mục đích ý tế hoặc thanh tẩy trong nghi lễ. Ăn chay cũng được thực hành ở Hy Lạp cổ đại và bằng chứng đáng tin cậy sớm nhất cho lý thuyết và thực hành ăn chay ở Hy Lạp là từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Orphics, một phong trào tôn giáo lan rộng ở Hy Lạp vào thời điểm đó, cũng thực hành và cổ vũ cho việc ăn chay.[26] Giáo viên người Hy Lạp Pythagoras, người đã cổ vũ học thuyết vị tha về thuyết luân hồi, có thể đã thực hành ăn chay,[27] nhưng cũng được ghi lại là người ăn thịt.[28]

Một chân dung hư cấu của Pythagoras xuất hiện trong Metamorphoses của Ovid, trong đó ông ủng hộ hình thức ăn chay nghiêm ngặt.[29] Chính nhờ bức chân dung này mà Pythagoras được người nói tiếng Anh biết đến nhiều nhất trong suốt thời kỳ đầu hiện đại và, trước khi xuất hiện từ "ăn chay", những người ăn chay được gọi bằng tiếng Anh là "Pythagoreans".[29]

Ăn chay cũng được thực hiện vào khoảng sáu thế kỷ sau, trong một trường hợp khác (30 TCN – 50 CN) ở vùng phía bắc Thracia bởi bộ tộc Moesi (những người sinh sống ở Serbia và Bulgaria ngày nay), họ ăn mật ong, sữa và pho mát..[30]

Nhật Bản vào năm 675, Thiên hoàng Tenmu đã cấm giết và ăn thịt trong thời kỳ nông nghiệp bận rộn từ tháng 4 đến tháng 9 nhưng loại trừ việc ăn thịt chim và thú rừng. Những lệnh cấm này và một số lệnh cấm khác sau nhiều thế kỷ đã bị bãi bỏ vào thế kỷ 19 trong cuộc Duy tân Minh Trị.[31] Ở Trung Quốc, vào thời nhà Tống, ẩm thực Phật giáo đã trở nên phổ biến đến mức các quán ăn chay xuất hiện, nơi các đầu bếp sử dụng các nguyên liệu như đậu, gluten, rau củ và nấm để tạo ra các loại thịt tương tự như thịt lợn, gà, trứng và trứng cua.[32]

Sau khi Cơ đốc giáo hóa thuộc Đế chế La Mã vào cuối thời cổ đại, việc ăn chay trên thực tế đã biến mất khỏi châu Âu, giống như ở những nơi khác, ngoại trừ ở Ấn Độ.[33] Một số lệnh của các nhà tu hành ở châu Âu thời Trung cổ hạn chế hoặc cấm tiêu thụ thịt vì những lý do khổ hạnh, nhưng không ai trong số họ cấm cá.[34] Hơn nữa, định nghĩa thời Trung cổ về "cá" bao gồm các động vật như hải cẩu, cá heo, cá heo, ngỗng barnacle, cá nóc và hải ly.[35] Chủ nghĩa ăn chay tái xuất hiện trong thời kỳ Phục hưng,[36] trở nên phổ biến hơn trong thế kỷ 19 và 20.

Năm 1847, Hiệp hội ăn chay đầu tiên được thành lập tại Vương quốc Anh;[37] Đức, Hà Lan và các nước khác theo sau. Năm 1886, thuộc địa ăn chay Nueva Germania được thành lập ở Paraguay, mặc dù khía cạnh ăn chay của nó sẽ tồn tại trong thời gian ngắn.[38]:345–358 Liên minh ăn chay quốc tế, một hiệp hội của các xã hội quốc gia, được thành lập vào năm 1908. Ở thế giới phương Tây, việc ăn chay ngày càng phổ biến trong suốt thế kỷ 20 do các mối quan tâm về dinh dưỡng, đạo đức và — gần đây — môi trường và kinh tế.

Hình thức[sửa | sửa mã nguồn]

Những món ăn chay với đậu hũ
Ăn chay không chỉ thực vật mà theo vài tôn giáo và quan niệm, có thể gồm sữa và các phó sản của sữa

Tất cả các hình thức của chế độ ăn chay đều dựa trên thức ăn thực vật, nấm và các sản phẩm từ vi khuẩn. Có một số loại ăn chay trong đó có loại trừ hoặc bao gồm các loại thực phẩm khác nhau:

  • Ăn chay theo Phật giáo đại thừa: là không ăn tất cả các sản phẩm từ động vật cũng như một số loại rau trong chi Hành (có mùi thơm đặc trưng của hànhtỏi), có thể tương ứng với các loại cây hành, hẹ, tỏi, nénkiệu gọi chung là ngũ tân.[40][41]
  • Ăn chay có trứng (ovo; tiếng Latin nghĩa là trứng): có thể ăn trứng nhưng không ăn các sản phẩm từ sữa.
  • Ăn chay có sữa (lacto; tiếng Latin: lactis nghĩa là sữa): có thể ăn các sản phẩm từ sữa, nhưng không ăn trứng.
  • Ăn chay có cả sữa và trứng (ovo-lacto): có thể ăn một số sản phẩm từ động vật hoặc từ sữa như trứng, sữa và mật ong.
  • Ăn chay hoàn toàn không sử dụng bất cứ thứ gì từ động vật (thuần chay) (vegan): không dùng tất cả các loại thịt động vật và sản phẩm từ động vật, bao gồm cả sữa, mật ong, và trứng, và cũng có thể loại trừ bất kỳ sản phẩm nào được thử nghiệm trên động vật, hoặc sử dụng các trang phục có nguồn gốc từ động vật (như giày da, áo da, áo lông thú, lông vũ..)[42]
  • Ăn chay sống hay là ăn chay tươi (Raw foodism): chỉ ăn các loại trái cây tươi và chưa nấu chín, các loại hạt và rau củ. Rau củ có thể chỉ được nấu chín lên đến một nhiệt độ nhất định.[43]
  • Ăn chay theo Kỳ Na giáo: có bao gồm sữa, nhưng không ăn trứng, mật ong, và các loại củ hay rễ cây.
  • Ăn chay theo kiểu chỉ cho phép ăn các loại trái cây, các loại hạt, hạt giống, và thực vật khác nếu việc thu hoạch những thực phẩm này không gây hại đến cây trồng.[44]
  • Ăn chay theo chế độ thực dưỡng: chủ yếu ăn các loại ngũ cốc nguyên cámđậu hoặc theo phương pháp dưỡng sinh của Ohsawa.

Động cơ để ăn chay[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều lý do khác nhau để ăn chay tùy thuộc vào sắc tộc và văn hóa. Những người ăn chay vì vấn đề đạo đức vì không muốn gây khổ đau cho động vật, hoặc đấu tranh vì quyền động vật.[45] Ngoài ra, vấn đề sức khỏe cũng là một động lực để ăn chay, một số người còn cảm thấy ác cảm với mùi vị của thịt. Cũng có một số tổ chức ăn chay để bảo vệ hệ sinh thái vì họ tin rằng sản xuất chăn nuôi trong các trại gây hại cho môi trường. Họ cũng cho rằng giảm lượng tiêu thụ thịt sẽ cải thiện đáng kể tình hình lương thực toàn cầu.

Trong điều luật của một số tôn giáo yêu cầu tín đồ phải ăn chay.

Đạo đức và chế độ ăn[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều lý do khác nhau về đạo đức đã được đề xuất cho việc lựa chọn ăn chay, thường được xác định trên quyền lợi của những động vật không phải là con người.

Trong nhiều xã hội đã phát sinh các cuộc tranh cãi và tranh luận về những vấn đề đạo đức của việc ăn thịt động vật. Một số người không ăn chay nhưng vẫn từ chối ăn thịt một số động vật nhất định chẳng hạn như mèo, chó, ngựa, hoặc thỏ do những điều cấm kỵ trong văn hóa. Một số người khác ủng hộ việc ăn thịt vì những lý do về khoa học, dinh dưỡngvăn hóa, kể cả tôn giáo. Một số người kiêng ăn thịt của động vật được nuôi theo phương thức nhất định nào đó, chẳng hạn như nuôi trong các xí nghiệp chăn nuôi (factory farm), hoặc tránh vài loại thịt nhất định, như thịt hoặc gan ngỗng. Một số người theo chế độ ăn chay hoặc thuần chay không phải vì những mối quan tâm về vấn đề đạo đức liên quan đến việc chăn nuôi hay tiêu thụ động vật nói chung, mà là vì lo ngại về việc thực hiện những phương pháp xử lý đặc biệt có liên quan đến chăn nuôi và giết mổ động vật, như xí nghiệp chăn nuôi (áp dụng chế độ chăn nuôi công nghiệp) và ngành công nghiệp giết mổ động vật.[46]

Những phản đối về mặt đạo đức thường được chia thành 2 dạng: chống lại hành động giết mổ nói chung, và chống lại một số hình thức chăn nuôi nhất định xung quanh việc sản xuất thịt.

Đạo đức giết mổ[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo sư Peter Singer, năm 2007

Peter Singergiáo sư của đại học Princeton và là người sáng lập của phong trào phóng thích động vật,[47] ông tin rằng nếu tồn tại nhiều phương thức khác nhau để duy trì sự sống, thì người ta phải lựa chọn các cách thức mà không gây ra những thiệt hại không cần thiết cho các động vật. Hầu hết những người ăn chay vì lý do đạo đức cho rằng giết chết con vật để ăn cũng giống như giết người mà ăn vậy. Singer, trong cuốn sách Sự giải phóng động vật (Animal Liberation) năm 1975 đã nêu lên những đặc điểm về tri giác của những sinh vật không phải người, suy xét chúng dưới góc nhìn đạo đức vị lợi, điều này đã được những nhà vận động cho quyền lợi động vật và những người ăn chay dùng làm tham khảo rộng rãi.[48]

Những người ăn chay vì đạo đức cũng tin rằng việc giết một con vật cũng như giết một con người, vì theo nguyên lý bình đẳng của Singer đối với các động vật không phải người, thì những con vật cũng giống như những người không cùng màu da, sắc tộc, giới tính hay tôn giáo.[49] Do đó, việc giết hại này chỉ có thể được biện minh nếu trong những hoàn cảnh vô cùng khắt khe, còn việc giết một vật thể sống vì mùi vị thơm ngon, sự tiện lợi hay giá trị dinh dưỡng của nó đều không phải là nguyên nhân chính đáng. Một quan điểm phổ biến khác cho rằng con người có thể ý thức được về hành vi của mình theo một cách khác với động vật, vì vậy con người không thể hành xử như con vật được.[50]

Những người đối lập với trường phái ăn chay vì đạo đức lập luận rằng động vật không ngang hàng với con người, vì thế so sánh việc ăn thịt động vật với giết người là một hành động khập khiễng. Lý luận này không bào chữa cho hành vi tàn ác, nhưng nó cho rằng động vật không ngang hàng với loài người, và không sở hữu những quyền cơ bản giống như con người.[51]

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Ăn chay có truyền thống lâu đời tại Ấn Độ. Kì Na giáo và một số giáo phái chính[52] của Ấn Độ giáo xem ăn chay như là một hành vi đạo đức. Đối với các tôn giáo này thì ăn chay chủ yếu dựa trên các luật về không hành hạ, không gây thương tích hay giết chết các loài vật.[53]

Phật giáo nhìn chung không cấm ăn thịt tuy nhiên chỉ được ăn những thứ thịt thỏa mãn điều kiện tam tịnh nhục[54], Phật giáo đại thừa khuyến khích ăn chay để mang lại lợi ích cho sự phát triển của lòng từ bi.[55][56] Những tôn giáo khác ủng hộ một chế độ ăn chay bao gồm Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật, phong trào Rastafari, phong trào Ananda Margaý thức Krishna (Krishnas Hare). Tích-khắc giáo[57][58][59] không đánh đồng tâm linh với chế độ ăn uống và không chỉ định một chế độ ăn chay hoặc thịt.[60]

Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Món "Phật Quang" một món ăn truyền thống của Phật giáo Trung Hoa.

Trong giới luật của Phật giáo, giới đầu là giới tránh sát sinh, hơn thế nữa phật tử còn thực hành tránh gây khổ đau cho chúng sinh, cho nên trên căn bản Phật giáo khuyến khích việc ăn chay nhưng cũng không cấm đoán ăn mặn.[61]

Phật giáo Nam Tông (Thượng tọa bộ) thường không ăn chay.[62] Tuy nhiên, những người xuất gia (tì kheo) nếu nghe tiếng con vật bị giết, thấy con vật bị giết hoặc nghi con vật đó bị giết để thết đãi mình thì không được ăn, nếu ăn thì sẽ phạm vào giới luật.[63][64][65]

Mỗi tông phái của Phật giáo Đại thừa lựa chọn những kinh điển khác nhau để làm theo, cho nên một số tông phái, bao gồm cả phần lớn các tông phái của Phật giáo Tây TạngPhật giáo Nhật Bản đều ăn thịt, trong khi nhiều tông phái[66] khác của Phật giáo Trung Quốc, Việt NamHàn Quốc thực hành ăn chay.

Ở Việt Nam, do sự du nhập của Phật giáo Đại thừa từ Trung Quốc vào rất sớm cho nên ăn chay đã có từ thời trước Công nguyên[14] và thịnh hành từ đời nhà Lý, nhà Trần vì Phật giáo phát triển vào những thời này.

Kitô giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Minh họa cho sự tồn tại của thế giới. Thiên Chúa ngự trị trên cùng, phía dưới có các cấp bậc khác nhau, trong đó có con người, và cả các loài thực vật, các loài động vật không phải người, vẽ năm 1579 bởi Didacus Valades

Những tín đồ Kitô giáo mà ủng hộ việc ăn chay thì cho rằng ăn chay là ý của Thiên Chúa, họ dựa trên những tranh luận về nội dung trong Kinh thánh, như trong Sách Isaia 11:6-9 cho thấy một cuộc sống hòa bình giữa người và loài vật,[67] hay trong Sáng thế ký 1:29, Thiên Chúa nói với Adam, Eva và loài người rằng cây cỏ, trái và hạt như là lương thực dành cho con người và mọi sinh vật có sinh khí; và không nói đến động vật là lương thực. Tuy nhiên, trong Sáng thế ký 9:2-3, trước khi làm Đại hồng thủy thì Chúa Trời có dặn ông Nô-ê rằng mọi loài vật di chuyển được và có sinh khí lẫn cây cỏ đều có thể là lương thực. Thánh Giêrônimô kết luận rằng chế độ ăn thịt chỉ xuất hiện từ khi có đại hồng thủy, và do đó nó được coi là thấp kém hơn ăn chay.[68] Từ Nô-ê trở về sau thì trong kinh Cựu Ước không còn đề cập đến bất cứ điều luật nào chống lại việc ăn thịt cả.[69] Nhưng người 14 tuổi hay lớn tuổi phải ăn chay và kiêng thịt vào ngày ấn định, và người 13 tuổi hay nhỏ hơn không cần ăn chay hay kiêng thịt, có thể ăn thịt vào ngày ấn định.

Trong Tân Ước không cấm các loại thực phẩm nhất định nào ngoài việc cấm ăn máu (Sách Công vụ Tông đồ, 15:28-29). Trong Phúc âm Matthew 15:11, Đức Jesus nói: "Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế" (tương tự như trong Phúc âm Mark, 7:15). Điều này thường được giải thích trong Kitô giáo như là từ bỏ tất cả các luật định về chế độ ăn uống.[70] Tuy nhiên, trong các nhà thờ thời Trung cổ, nhiều tu sĩ và ẩn sĩ trong các bối cảnh tu khổ hạnh từ bỏ việc tiêu thụ thịt, họ quan niệm ăn chay là rèn luyện cho bản thân cách chống lại những ham muốn xác thịt và tỏ lòng sám hối tội lỗi đối với Thiên Chúa.[71] Thế kỷ 16, Leonardo da VinciPierre Gassendi cổ xúy việc ăn chay vì lý do đạo đức, tránh giết hại động vật. Và đối với người ăn chay thuộc Kitô giáo hiện đại, trong số đó là Ellen G. White, đồng sáng lập của Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, lý do ăn chay là thuộc về thiên đường cho nên giáo lý của Cơ Đốc Phục Lâm khuyến khích việc ăn chay.[72]

Trong Kitô giáo Tây phương, Mùa Chay là thời gian bốn mươi ngày trước Lễ Phục Sinh kéo dài từ ngày Thứ tư Lễ Tro đến Thứ bảy Tuần Thánh, bốn mươi ngày trong Mùa Chay được đánh dấu bởi việc ăn kiêng, làm từ thiện và hạn chế những thú vui.

Thời cận đại, theo quy định của Công giáo Rôma đề cao tinh thần của việc ăn chay thì ngày Thứ tư Lễ Tro, ngày Thứ sáu Tuần Thánh và tất cả các ngày thứ sáu trong tuần buộc các tín đồ từ 14 đến 60 tuổi phải giữ chay và kiêng thịt. Nhưng ngày nay, luật này được nới lỏng và chỉ buộc giữ chay - kiêng thịt vào Thứ tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần Thánh, những ngày khác tín hữu được khuyến khích ăn ít đi (ăn kiêng, nhịn ăn). Đôi khi, ăn ít hơn hoặc ăn đạm bạc hơn bình thường cũng được cho là một hình thức ăn chay, ăn kiêng.

Ấn Độ giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Các tín đồ trong Ấn Độ giáo ban đầu vẫn ăn thịt (bao gồm cả thịt bò) với những điều kiện nhất định. Trong bộ luật Manu (Manusmṛti) cho phép ăn thịt, cá và xác định các điều kiện kèm theo. Tuy nhiên, dần dần những luật lệ được đặt ra và nghiêm khắc áp dụng hình thức ăn chay có sử dụng sữa. Trong thời kỳ Ấn Độ còn là thuộc địa thì phần lớn những người thuộc giai cấp thượng lưu mới giữ giới luật này, còn những người nghèo và thuộc giai cấp hạ đẳng thì họ ăn tất cả những gì mà họ có được.[73]

Quán ăn nhanh bán toàn món chay gần Kullu, Ấn Độ.

Hầu hết các tông phái chính của Ấn Độ giáo như YogaVaishnavas (các tín đồ thờ thần Vishnu)[74] giữ kiên định trong vấn đề ăn chay. Có 3 nguyên nhân chính cho việc này, đó là: nguyên tắc đạo đức không hành hạ súc vật (ahimsa);[75] mục đích chỉ dâng cúng cho một vị thần những thức ăn "tinh khiết" (món chay) và sau đó nhận lại nó dưới dạng món prasad (một loại thực phẩm giống như kẹo);[76] và niềm tin xác tín rằng những thức ăn mặn có thể ảnh hưởng đến tâm thức và việc khai sáng tâm linh. Các tín đồ Ấn Độ giáo thường kiêng trứng nhưng họ vẫn dùng sữa và các chế phẩm từ sữa, do đó họ là những người ăn chay theo chế độ có dùng sữa (lacto).

Tuy nhiên, thói quen ăn uống của các cộng đồng theo Ấn Độ giáo vẫn có sự khác nhau. Trong quá khứ cũng như hiện tại, vẫn có một số nhóm tín đồ ăn thịt, với điều kiện thịt đó phải được giết mổ theo cách thức Jhatka,[77] tức là động vật bị giết bởi một nhát dao hoặc rìu duy nhất chặt đứt đầu, khác với những thịt giết mổ thông thường theo phương thức thọc tiết và chết từ từ.

Ở Ấn Độ có 43% trong tổng số tín đồ Ấn Độ giáo ăn chay và 28% trong tổng số những người ngoại đạo cũng ăn chay.[78]

Hồi Giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Ramadan là "lễ ăn chay" theo lịch hàng năm của người Hồi Giáo. Nhưng cách gọi đó không đúng, bởi vì các tín đồ chẳng ăn chay hoàn toàn. Trong suốt một tháng lễ này, tất cả các tín đồ đạo Hồi đều thực hiện nghiêm túc quy định: không ăn, không uống, không hút thuốc nghĩa là không được đưa bất kể thứ gì vào miệng (kể cả không sinh hoạt tình dục), nhưng chỉ áp dụng vào ban ngày, cụ thể là từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn. Luật của đạo cũng quy định rõ: Cho những người đang ốm, phụ nữ có thai, trẻ em dưới 5 tuổi và những người đang đi du lịch ở nước ngoài mà nước này không lấy đạo Hồi làm quốc giáo, được miễn trừ

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Helmut Kaplan: Warum ich Vegetarier bin – Prominente erzählen. Rowohlt Verlag, Reinbek 1995, ISBN 3-499-19675-1.
  • Wolfgang R. Krabbe: Gesellschaftsveränderung durch Lebensreform. Strukturmerkmale einer sozialreformerischen Bewegung im Deutschland der Industrialisierungsperiode. Vandenhoeck & Ruprecht, Göttingen 1974, ISBN 3-525-31813-8.
  • Claus Leitzmann, Markus Keller: Vegetarische Ernährung. 2. Auflage. Ulmer, Stuttgart 2010, ISBN 978-3-8252-1868-3.
  • Manuela Linnemann, Claudia Schorcht (Hrsg.): Vegetarismus. Zur Geschichte und Zukunft einer Lebensweise. Harald Fischer Verlag, Erlangen 2001, ISBN 3-89131-403-5.
  • Hans-Jürgen Teuteberg: Zur Sozialgeschichte des Vegetarismus. In: Vierteljahrschrift für Sozial- und Wirtschaftsgeschichte. Band 81 (1994), S. 33–65.
  • Ronald Zürrer, Armin Risi: Vegetarisch leben. 9. Auflage. Govinda-Verlag, Zürich 2011, ISBN 978-3-906347-77-6.
  • Steven Rosen: Die Erde bewirtet euch festlich. Vegetarismus und die Religionen der Welt. Adyar, Satteldorf 1992, ISBN 3-89427-218-X.
  • Hans Günter Kugler (Hrsg.): Vegetarisch essen – Fleisch vergessen. Ärztlicher Ratgeber für Vegetarier und Veganer. Verlag Das Wort, Marktheidenfeld 2007, ISBN 978-3-89201-239-9.
  • Jonathan Safran Foer: Tiere essen. Kiepenheuer & Witsch, Köln 2010, ISBN 978-3-462-04044-9.
  • Karen Duve: "Anständig essen. Ein Selbstversuch"; Büchergilde Gutenberg, Köln 2011, ISBN 978-3-7632-6432-2

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Phim tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “What is a vegetarian?”. Vegetarian Society. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018.
  2. ^ a b c “Why Avoid Hidden Animal Ingredients?”. North American Vegetarian Society. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018.
  3. ^ “Vitamin B12”. Micronutrient Information Center, Linus Pauling Institute, Oregon State University, Corvallis, OR. ngày 4 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2019.
  4. ^ Obersby, Derek; Chappell, David C.; Dunnett, Andrew; Tsiami, Amalia A. (ngày 8 tháng 1 năm 2013). “Plasma total homocysteine status of vegetarians compared with omnivores: a systematic review and meta-analysis” (PDF). British Journal of Nutrition. 109 (5): 785–794. doi:10.1017/s000711451200520x. ISSN 0007-1145. PMID 23298782.
  5. ^ Chan, EY; Zlatevska, N (2019). “Is meat sexy? Meat preference as a function of the sexual motivation system”. Food Quality and Preference. 74: 78–87. doi:10.1016/j.foodqual.2019.01.008.
  6. ^ Chan, EY; Zlatevska, N (2019). “Jerkies, tacos, and burgers: Subjective socioeconomic status and meat preference”. Appetite. 132: 257–266. doi:10.1016/j.appet.2018.08.027. PMID 30172366.
  7. ^ Clonan, A; Roberts, KE; Holdsworth, M (2016). “Các động lực kinh tế xã hội và nhân khẩu học của việc tiêu thụ thịt đỏ và thịt đã qua chế biến: ý nghĩa đối với sức khỏe và môi trường bền vững”. Proceedings of the Nutrition Society. 75 (3): 367–373. doi:10.1017/S0029665116000100. PMC 4974628. PMID 27021468.
  8. ^ a b “Fact Sheets: Things to look out for if you are a vegetarian/vegan”. Vegetarian Society. tháng 9 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018.
  9. ^ Keevican, Michael (ngày 5 tháng 11 năm 2003). “What's in Your Cheese?”. Vegetarian Resource Group. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018. Nhiều người ăn chay không nghĩ rằng một số loại pho mát họ đang ăn thực sự có thể chứa các thành phần động vật lạ. Đúng vậy, pho mát, một thực phẩm phổ biến trong nhiều chế độ ăn chay, thường được làm bằng rennet hoặc rennin, được sử dụng để làm đông sản phẩm sữa.
  10. ^ “FAQ: Food Ingredients”. Vegetarian Resource Group. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018. Tại sao một số loại pho mát được dán nhãn là 'pho mát chay'? Tại sao phô mai không phải là ăn chay? Rennet là gì?
  11. ^ Từ điển tiếng Anh Oxford ngắn hơn (2002 và 2007) định nghĩa "ăn chay" (danh từ) là "Một người về nguyên tắc kiêng thức ăn động vật; đặc biệt. Một người tránh thịt nhưng sẽ ăn các sản phẩm từ sữa và trứng và đôi khi cũng có cá (xem VEGAN danh từ )."
  12. ^ Barr SI, Chapman GE (tháng 3 năm 2002). “Perceptions and practices of self-defined current vegetarian and nonvegetarian women”. Journal of the American Dietetic Association. 102 (3): 354–360. doi:10.1016/S0002-8223(02)90083-0. PMID 11902368.
  13. ^ “Pescetarian”. Merriam-Webster Online Dictionary. Merriam-Webster. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018. Chế độ ăn kiêng pescetarian được mô tả là "tiêu thụ cá nhưng không bao gồm các loại thịt khác"
  14. ^ a b “Cơm chay”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2012.
  15. ^ Bình Anson. “Về Bát Quan Trai Giới”.
  16. ^ “Luật nghi tổng quát” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2013.
  17. ^ Anand M. Saxena (2013). The Vegetarian Imperative. Nhà xuất bản Đại học Johns Hopkins. tr. 201–202. ISBN 978-14214-02-420.
  18. ^ Olivelle, transl. from the original Sanskrit by Patrick (1998). Upaniṣads . Oxford [u.a.]: Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 978-0192835765.
  19. ^ Bajpai, Shiva (2011). The History of India – From Ancient to Modern Times. Himalayan Academy Publications (Hawaii, USA). ISBN 978-1-934145-38-8.
  20. ^ Spencer, Colin (1996). The Heretic's Feast: A History of Vegetarianism. Fourth Estate Classic House. tr. 33–68, 69–84. ISBN 978-0874517606.
  21. ^ Singh, Kumar Suresh (2004). People of India: Maharashtra. ISBN 9788179911006.
  22. ^ Fieldhouse, Paul (ngày 17 tháng 4 năm 2017). Food, Feasts, and Faith: An Encyclopedia of Food Culture in World Religions [2 volumes&#93. ISBN 9781610694124.
  23. ^ Walters, Kerry (ngày 7 tháng 6 năm 2012). Vegetarianism: A Guide for the Perplexed. ISBN 9781441115294.
  24. ^ Ăn chay theo tôn giáo từ triết gia Hy Lạp Hēsíodos đến Dalai Lama , ed. Kerry S. Walters và Lisa Portmess, Albany 2001, tr. 13–46.
  25. ^ a b Pope, GU (1886). Thirukkural English Translation and Commentary (PDF). W.H. Allen, & Co. tr. 160.
  26. ^ Spencer p. 38–55, 61–63; Haussleiter p. 79–157.
  27. ^ Livio, Mario (2003) [2002]. The Golden Ratio: The Story of Phi, the World's Most Astonishing Number . New York City: Broadway Books. tr. 26. ISBN 978-0-7679-0816-0.
  28. ^ Zhmud, Leonid (2012). Pythagoras and the Early Pythagoreans. Windle, Kevin; Ireland, Rosh biên dịch. Oxford, England: Oxford University Press. tr. 235. ISBN 978-0-19-928931-8.
  29. ^ a b Borlik, Todd A. (2011). Ecocriticism and Early Modern English Literature: Green Pastures. New York City, New York and London, England: Routledge. tr. 189–192. ISBN 978-0-203-81924-1.
  30. ^ Jones, Lindsay (2005). Encyclopedia of religion (ấn bản 13). ISBN 9780028659824.
  31. ^ Watanabe, Zenjiro. “Removal of the Ban on Meat: The Meat-Eating Culture of Japan at the Beginning of Westernization” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2020.
  32. ^ Koon, Wee Kek. “Ăn chay tại Trung Quốc không phải điều gì mới lạ: chế độ ăn không thịt có nguồn gốc xa xưa”. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2020.
  33. ^ Passmore John (1975). “The Treatment of Animals”. Journal of the History of Ideas. 36 (2): 196–201. doi:10.2307/2708924. JSTOR 2708924. PMID 11610245.
  34. ^ Lutterbach, Hubertus. "Der Fleischverzicht im Christentum", Saeculum 50/II (1999) p. 202.
  35. ^ Mortimer, Ian (tháng 1 năm 2010) [Được xuất bản lần đầu ở Anh vào năm 2008 bởi Random House UK]. “What to Eat and Drink: Noble Households” (Hardcover). Trong Sulkin, Will; Hensgen, Jörg (biên tập). The Time Traveler's Guide to Medieval England (ấn bản 1). New York, NY: Touchstone (Simon & Schuster). tr. 140. ISBN 978-1-4391-1289-2. Hải cẩu, cá heo, cá heo, ngỗng barnacle, cá nóc và hải ly đều được xếp vào nhóm cá khi bắt đầu xuất hiện ở biển hoặc sông. Do đó, người ta ăn một cách hân hoan, ngay cả những ngày kiêng thịt.
  36. ^ Spencer p. 180–200.
  37. ^ Spencer p. 252–253, 261–262.
  38. ^ Bauer, K., "The Domestication of Radical Ideas and Colonial Spaces", in M. Schulze, et al., eds., German Diasporic Experiences (Waterloo, ON: Nhà xuất bản Đại học Wilfrid Laurier, 2008), pp. 345–358.
  39. ^ Datta, P. T. Jyothi (ngày 4 tháng 9 năm 2001). “Health goes dotty with brown eggs & green milk”. Hindu Business Line. New Delhi: Kasturi & Sons (xuất bản ngày 5 tháng 9 năm 2001). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018. Đối với những người tiêu dùng có hiểu biết, một thông báo gần đây của Bộ Y tế và Phúc lợi Gia đình đã yêu cầu thực phẩm đóng gói có chứa các bộ phận động vật được đựng trong hộp, phải có một chấm màu nâu nổi bật trên nhãn của nó.
  40. ^ “Ng”. Hoavouu.com. Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.
  41. ^ “Ngũ tân: đại toán, cát thông, từ thông, lan thông, hưng cừ”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2012.
  42. ^ What is a Vegan? Lưu trữ 2012-01-02 tại Wayback Machine, Vegan Society (UK), accessed ngày 12 tháng 5 năm 2010.
  43. ^ International Vegetarian Union (IVU), accessed ngày 2 tháng 5 năm 2010.
  44. ^ Mangels, AR. Position of the American Dietetic Association: Vegetarian Diets, Journal of the American Dietetic Association, 2009, vol 109, issue 7, pp. 1266–1282.
  45. ^ (tiếng Đức)Siehe Helmut F. Kaplan: Leichenschmaus – Ethische Gründe für eine vegetarische Ernährung, 3. Auflage, Reinbek 2002.
  46. ^ Paul Amato/Sonia Partridge: The New Vegetarians, New York 1989, S. 31
  47. ^ Eine Tierbefreiungsbewegung gab es zum Zeitpunkt der Veröffentlichung des Buches praktisch nicht. Die Forderung nach der Befreiung der Tiere ist nach Singer als Metapher zu verstehen. Er fordert eine strikte Gewaltfreiheit (vgl. Vorwort der 1990er Ausgabe): Phong trào phóng thích động vật xuất hiện vào thời điểm ngay khi cuốn sách [của Singer] xuất bản là không chính xác, mà nó phải được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Singer đã nỗ lực kêu gọi bất bạo động [với động vật] (trích lời mở đầu của cuốn sách, ấn bản năm 1990).
  48. ^ Günther Stolzenberg: Weltwunder Vegetarismus, München 1980, S. 164 f.; John Lawrence Hill: The Case for Vegetarianism, Lanham 1996, S. 52–67.
  49. ^ Singer, Animal Liberation (Harper Collins Publishers 2002): S. 5–9.
  50. ^ David Benatar (2001). “Why the Naive Argument against Moral Vegetarianism Really is Naive”. Environmental Values. 10 (1): 103. doi:10.3197/096327101129340769.
  51. ^ “Animals and Ethics”. Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.
  52. ^ Kochhal, M. (1 tháng 10 năm 2004). “Vegetarianism: jainism and vegetarianism (ahisma)”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2012.
  53. ^ (tiếng Đức) Ludwig Alsdorf: Beiträge zur Geschichte von Vegetarismus und Rinderverehrung in Indien, Wiesbaden 1962, S. 5ff.
  54. ^ “Tam tịnh nhục”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2012. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng.
  55. ^ Teachings on Love, Thich Nhat Hanh, Berkley, Parallax Press, 1998.
  56. ^ Tâm Minh (ngày 19 tháng 2 năm 2010). “Ăn chay và ăn mặn”.[liên kết hỏng]
  57. ^ Junior encyclopaedia of Sikhism 1985 By H. S. Singha Page 124 ISBN 10: 070692844X / 0-7069-2844-X
  58. ^ Kakshi, S.R. (2007). “12”. Trong S.R. Bakshi, Rashmi Pathak (biên tập). Punjab Through the Ages. 4 (ấn bản 1). New Delhi: Sarup and Sons. tr. 241. ISBN 8176257389.
  59. ^ “Shiromani Gurudwara Prabhandhak Committee”. Sgpc.net. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009.
  60. ^ “The Sikhism Home Page”. Sikhs.org. ngày 15 tháng 2 năm 1980. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009.
  61. ^ (tiếng Đức)Lambert Schmithausen: Essen ohne zu töten. Zur Frage von Fleischverzehr und Vegetarismus im Buddhismus. In: Perry Schmidt-Leukel (Hrsg.): Die Religionen und das Essen, Kreuzlingen 2000, S. 150–158; Max Deeg: Speisegebote. VII. Buddhismus. In: Religion in Geschichte und Gegenwart, 4. Auflage, Bd. 7, Tübingen 2004, Sp. 1556.
  62. ^ Dharma Data: Vegetarianism. Buddhanet.net. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2011.
  63. ^ Buddhism and Vegetarianism Lưu trữ 2013-10-07 tại Wayback Machine. Buddhanet.net. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2011.
  64. ^ “Kinh Jìvaka (Jìvaka sutta)”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2012.
  65. ^ Mahavagga Pali – Bhesajjakkhandhaka – Vinaya Pitaka
  66. ^ (tiếng Đức) Schmithausen S. 177–193. Eine Zusammenstellung solcher Texte bietet Geshe Thubten Soepa: Zwei Texte in der Tradition des Buddha Shakyamuni: Die Udambara-Lotusblume, die das Leben hilfloser Wesen beschützt. Aussagen aus den Sutras zum Thema Fleischessen; und: Buddha-Puja: Rezitation für buddhistische Feiertage [deutsch und tibetisch], München o.J.
  67. ^ (tiếng Đức) K.S. Walters/L. Portmess: Religious Vegetarianism, Albany 2001, S. 123ff.; Günther Stolzenberg: Weltwunder Vegetarismus, München 1980, S. 68–70; Richard Alan Young: Is God a Vegetarian? Christianity, Vegetarianism, and Animal Rights, Chicago 1999, S. 15–21, 56–61.
  68. ^ (tiếng Đức) Hieronymus, Adversus Iovinianum 1,18.
  69. ^ (tiếng Đức) Hubertus Lutterbach: Der Fleischverzicht im Christentum. In: Saeculum 50/II (1999) S. 180, 185–187.
  70. ^ Lutterbach S. 180–183.
  71. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên hubertus
  72. ^ Karen Iacobbo/Michael Iacobbo: Vegetarian America. A History, Westport (CT) 2004, trang 97–99.
  73. ^ Alsdorf S. 16ff.; J. Jolly: Artikel Food (Hindu), in: Encyclopaedia of Religion and Ethics, Bd. 6 (1937), S. 63–65.
  74. ^ (tiếng Đức) Renate Syed: Das heilige Essen. In: Perry Schmidt-Leukel (Hrsg.): Die Religion und das Essen, Kreuzlingen 2000, S. 102, 131.
  75. ^ Tähtinen, Unto: Ahimsa. Non-Violence in Indian Tradition, London 1976, p. 107–109.
  76. ^ Mahabharata 12.257 (note that Mahabharata 12.257 is 12.265 according to another count); Bhagavad Gita 9.26; Bhagavata Purana 7.15.7.
  77. ^ “The Hindu: Sci Tech / Speaking Of Science: Changes in the Indian menu over the ages”. Hinduonnet.com. ngày 21 tháng 10 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2010.
  78. ^ “Kết quả khảo sát năm 2006 trên thehindu.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2012.