Béo phì

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Béo phì
Three silhouettes depicting the outlines of an optimally sized (left), overweight (middle), and obese person (right).
Hình dáng và vòng eo tượng trưng cho tình trạng tối ưu, thừa cân và béo phì
Khoa/NgànhNội tiết học
Triệu chứngTăng mỡ[1]
Biến chứngBệnh tim mạch, đái tháo đường loại 2, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, một số loại ung thư, thoái hóa khớp, trầm cảm[2][3]
Nguyên nhânTiêu thụ quá nhiều thực phẩm giàu năng lượng, công việc và lối sống ít vận động cũng như thiếu hoạt động thể chất, thay đổi phương thức đi lại, đô thị hóa, thiếu chính sách hỗ trợ, thiếu khả năng tiếp cận chế độ ăn uống lành mạnh, vấn đề di truyền[1][4]
Phương pháp chẩn đoánChỉ số khối cơ thể (Body mass index; viết tắt: BMI) > 30 kg/m2[1]
Phòng ngừaNhững thay đổi xã hội, thay đổi trong ngành công nghiệp thực phẩm, tiếp cận lối sống lành mạnh, lựa chọn cá nhân[1]
Điều trịĂn kiêng, tập thể dục, dùng thuốc, phẫu thuật[5][6]
Tiên lượngGiảm tuổi thọ[2]
Dịch tễTrên 1 tỷ/12.5% (2022)[7]
Tử vong2,8 triệu người mỗi năm

Béo phì là một tình trạng bệnh lý, đôi khi được xem là một căn bệnh,[8][9][10] trong đó mô mỡ trong cơ thể đã tích tụ đến mức có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe một cách tiêu cực. Những người được phân loại là béo phì khi chỉ số khối cơ thể (BMI) của họ - cân nặng của một người chia cho bình phương chiều cao của người đó - vượt quá 30 kg/m2; với phạm vi 25–30 kg/m2 được định nghĩa là thừa cân.[1] Một số nước Đông Á sử dụng giá trị thấp hơn để tính béo phì.[11] Béo phì là nguyên nhân chính gây ra tình trạng khuyết tật và bệnh tật liên quan đến béo phì, đặc biệt là bệnh tim mạch, đái tháo đường type 2, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, một số loại ung thưthoái hóa khớp.[2][12][13]

Béo phì có nguyên nhân cá nhân, kinh tế xã hội và môi trường. Một số nguyên nhân như chế độ ăn uống, hoạt động thể chất, tự động hóa, đô thị hóa, tính trạng số lượng, thuốc men, rối loạn tâm thần, chính sách kinh tế, rối loạn nội tiết và tiếp xúc với các chất gây rối loạn nội tiết.[1][4][14][15]

Mặc dù phần lớn những người béo phì luôn cố gắng giảm cân và nhiều trường hợp thành công nhưng việc duy trì giảm cân lâu dài là rất hiếm.[16] Không có biện pháp can thiệp cụ thể nào cho thấy hiệu quả rõ ràng để ngăn ngừa béo phì. Việc phòng ngừa béo phì đòi hỏi một cách tiếp cận phức tạp, bao gồm các biện pháp can thiệp ở cấp độ xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân.[1][13] Các chuyên gia y tế thường khuyên cần thay đổi chế độ ăn uống cũng như tập thể dục.[2] Chế độ ăn uống có thể được cải thiện bằng cách giảm tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng, chẳng hạn như những thực phẩm giàu chất béo hoặc đường, thay vào đó tăng lượng chất xơ ăn vào, nếu những lựa chọn dành cho chế độ ăn uống này có sẵn, giá cả phải chăng và dễ tiếp cận.[1] Để làm giảm cảm giác thèm ăn hoặc giảm hấp thu chất béo có thể sử dụng thuốc giảm cân cùng với chế độ ăn uống phù hợp.[5] Nếu chế độ ăn kiêng, tập thể dục và dùng thuốc không hiệu quả, có thể thực hiện nong bóng dạ dày hoặc phẫu thuật để làm giảm thể tích dạ dày hoặc chiều dài của ruột. Các can thiệp trên tạo cảm giác no sớm hơn hoặc giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng từ thức ăn.[6][17]

Béo phì là nguyên nhân tử vong hàng đầu có thể phòng ngừa được với tỷ lệ ngày càng tăng ở người lớn và trẻ em trên toàn thế giới.[18] Năm 2022, hơn 1 tỷ người bị béo phì trên toàn thế giới (879 triệu người lớn và 159 triệu trẻ em), tăng hơn gấp đôi số trường hợp ở người lớn (và cao gấp bốn lần so với các trường hợp ở trẻ em) được thống kê vào năm 1990.[19][20] Béo phì phổ biến ở phụ nữ hơn là nam giới.[1] Ngày nay, béo phì bị kỳ thị ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Ngược lại, một số nền văn hóa, trong quá khứ và hiện tại, lại có quan điểm tích cực về béo phì, coi đó là biểu tượng của sự giàu có và sinh đẻ tốt.[2][21] Tổ chức Y tế Thế giới, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Đức, Nghị viện châu Âu và các hiệp hội y tế, ví dụ như Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, đã phân loại béo phì là một căn bệnh. Những nước khác, chẳng hạn như Vương quốc Anh thì không chấp nhận điều đó.[22][23][24][25]

Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Phân loại theo WHO[26] BMI WHO (kg/m2)[26] BMI IDI & WPRO, 2000 [27]
gầy < 18,5 < 18,5
bình thường 18,5–24,9 18,5–22,9
thừa cân 25,0–29,9 23,0–24,9
béo phì độ I 30,0–34,9 25,0–29,9
béo phì độ II 35,0–39,9 ≥ 30,0
béo phì độ III ≥ 40,0 Không đề cập
A front and side view of a "super obese" male torso. Stretch marks of the skin are visible along with gynecomastia.
Một người đàn ông "siêu béo phì" có chỉ số BMI 53 kg/m2: cân nặng 182 kg (401 lb), cao 185 cm (6 ft 1 in). Có thể quan sát được vết rạn da trên bụng và ngực bị chảy xệ.

Béo phì thường được định nghĩa là sự tích tụ đáng kể lượng mỡ trong cơ thể có thể ảnh hưởng đến sức khỏe.[28] Các tổ chức y tế có xu hướng phân loại những người là béo phì dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI) - tỷ lệ giữa cân nặng của một người (đơn vị kilôgam) với bình phương chiều cao của họ (đơn vị mét). Đối với người trưởng thành, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa "thừa cân" là chỉ số BMI từ 25 trở lên và "béo phì" là chỉ số BMI từ 30 trở lên.[28] Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) còn chia nhỏ bệnh béo phì dựa trên BMI, với chỉ số BMI từ 30 đến 35 được gọi là béo phì độ I; 35 đến 40, béo phì độ II; và 40+, béo phì độ III.[29]

Đối với trẻ em, các biện pháp đo béo phì được xem xét bằng độ tuổi cùng với chiều cao và cân nặng. Đối với trẻ em từ 5–19 tuổi, WHO định nghĩa béo phì là chỉ số BMI có hai độ lệch chuẩn trên mức trung bình so với độ tuổi của chúng (chỉ số BMI khoảng 18 đối với trẻ 5 tuổi; khoảng 30 đối với trẻ 19 tuổi).[28][30] Đối với trẻ em dưới 5 tuổi, WHO định nghĩa béo phì là cân nặng có ba độ lệch chuẩn trên mức trung bình đối với chiều cao của chúng.[28]

Định nghĩa của WHO đã được sửa đổi bởi các tổ chức cụ thể.[31] Các tài liệu phẫu thuật chia béo phì thành độ II và III hoặc chỉ độ III thành các loại khác mà giá trị chính xác của chúng vẫn còn gây tranh cãi.[32]

  • Bất kỳ chỉ số BMI ≥ 35 hoặc 40 kg/m2 đều là béo phì nặng.
  • Chỉ số BMI ≥ 35 kg/m2 và có tình trạng sức khỏe liên quan đến béo phì hoặc ≥ 40 hoặc 45 kg/m2béo phì bệnh lý.
  • Chỉ số BMI ≥ 45 hoặc 50 kg/m2siêu béo phì.

Về chủng tộc, ở cùng một mức BMI, sự xuất hiện các hậu quả xấu liên quan đến béo phì của người châu Á xảy ra khi BMI của họ với so với người da trắng, một số quốc gia đã định nghĩa lại bệnh béo phì; Nhật Bản đã định nghĩa béo phì là bất kỳ chỉ số BMI nào lớn hơn 25 kg/m2[11] trong khi Trung Quốc sử dụng chỉ số BMI lớn hơn 28 kg/m2.[31] Do đó, từ năm 2000, WHO khu vực Tây Thái Bình Dương (WPRO) và Hội Nghiên cứu béo phì quốc tế đã phối hợp với Viện Nghiên cứu bệnh đái tháo đường Quốc tế (IDI), Trung tâm Hợp tác dịch tễ học đái tháo đường và các bệnh không lây nhiễm của WHO để đưa ra khuyến nghị về chỉ tiêu phân loại thừa cân, béo phì cho cộng đồng các nước châu Á (IDI & WPRO, 2000).[27]

  • Chỉ số BMI ≥ 23 kg/m2thừa cân.
  • Chỉ số BMI ≥ 25 kg/m2béo phì.

Số liệu béo phì được chuộng sử dụng trong giới học thuật là tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể (BF%). Đây là tỷ lệ giữa tổng trọng lượng mỡ của một người so với tổng trọng lượng cơ thể của người đó và BMI được xem đơn thuần chỉ là một cách để ước tính BF%.[33] Theo Hội Bác sĩ điều trị Béo phì Hoa Kỳ (American Society of Bariatric Physicians), mức vượt quá 32% đối với phụ nữ và 25% đối với nam giới thường được coi là biểu hiện béo phì.[34]

BMI bỏ qua sự khác biệt giữa các cá nhân về khối lượng cơ nạc, đặc biệt là khối lượng . Những người lao động nặng nhọc hoặc chơi thể thao có thể có chỉ số BMI cao mặc dù có ít mỡ. Ví dụ: hơn một nửa số người chơi Giải Bóng bầu dục Quốc gia Mỹ được phân loại là "béo phì" (BMI ≥ 30) và 1 trong 4 người được phân loại là "cực kỳ béo phì" (BMI ≥ 35), theo chỉ số BMI.[35] Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể trung bình của họ, 14%, nằm trong phạm vi được coi là lành mạnh.[36] Tương tự, các đô vật Sumo có thể được phân loại theo BMI là "béo phì nghiêm trọng" hoặc "béo phì rất nghiêm trọng" nhưng nhiều đô vật Sumo không được phân loại là béo phì khi sử dụng tỷ lệ mỡ cơ thể thay thế (có <25% mỡ cơ thể).[37] Một số đô vật Sumo được phát hiện là không có nhiều mỡ trong cơ thể hơn nhóm so sánh không phải Sumo, với giá trị BMI cao do khối lượng cơ nạc của họ cao.[37]

Ảnh hưởng đối với sức khỏe[sửa | sửa mã nguồn]

Béo phì làm tăng nguy cơ phát triển chuyển biến các căn bệnh khác nhau, như bệnh tim mạch, thoái hóa khớp, bệnh Alzheimer, trầm cảm và một số loại bệnh ung thư.[38] Tùy thuộc vào mức độ béo phì và tình trạng bệnh nền, béo phì có thể khiến sụt giảm tuổi thọ từ 2–20 năm.[38][39] BMI cao là dấu hiệu nguy cơ, nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra các bệnh do chế độ ăn uống và hoạt động thể chất.[13]

Tỷ lệ tử vong[sửa | sửa mã nguồn]

Béo phì là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu có thể phòng ngừa được trên toàn thế giới.[40][41][42] Nguy cơ tử vong thấp nhất ở mức BMI 20–25 kg/m2[39][43][44] ở những người không hút thuốc và ở mức 24–27 kg/m2 ở những người đang hút thuốc, với rủi ro ngày càng tăng cùng với những thay đổi trong thói quen hút thuốc ở hai nhóm người này.[45][46] Việc xác định này dường như được áp dụng ở ít nhất bốn châu lục.[44] Nghiên cứu khác cho thấy mối liên hệ giữa chỉ số BMI và chu vi vòng eo với tỷ lệ tử vong người có ngoại hình cơ thể chữ U hoặc chữ J, trong khi mối liên hệ giữa tỷ lệ eo-hôngtỷ lệ eo-chiều cao với tỷ lệ tử vong là khả dĩ hơn.[47] Ở người châu Á, nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe bắt đầu tăng mức BMI từ 22 đến 25 kg/m2.[48] Vào năm 2021, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng béo phì gây ra ít nhất 2,8 triệu ca tử vong hàng năm.[49] Theo mức trung bình, béo phì làm giảm tuổi thọ từ sáu đến bảy năm,[2][50] chỉ số BMI từ 30–35 kg/m2 làm giảm tuổi thọ từ hai đến bốn năm,[39] trong khi béo phì nặng (BMI ≥ 40 kg/m2) làm giảm tuổi thọ tới 10 năm.[39]

Bệnh tật[sửa | sửa mã nguồn]

Béo phì làm tăng nguy cơ mắc nhiều căn bệnh liên quan thể chất và tinh thần. Những bệnh đi kèm này thường gặp nhất trong hội chứng chuyển hóa,[2] là các rối loạn chuyển hóa như: đái tháo đường type 2, tăng huyết áp, tăng cholesterol máutăng triglyceride máu.[51] Một nghiên cứu từ Bệnh viện RAK cho thấy những người béo phì có nguy cơ mắc hội chứng hậu COVID-19 cao hơn.[52] CDC đã phát hiện ra rằng béo phì là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất gây ra nguy cơ bệnh COVID-19 nghiêm trọng.[53]

Các biến chứng có thể do béo phì trực tiếp gây ra hoặc liên quan gián tiếp thông qua các cơ chế có chung nguyên nhân như chế độ ăn uống kém hoặc lối sống tĩnh tại. Độ mạnh của mối tương quan giữa béo phì và các tình trạng cụ thể là khác nhau. Béo phì có mối tương quan mạnh mẽ nhất với bệnh đái tháo đường type 2. Lượng mỡ dư thừa trong cơ thể là nguyên nhân gây ra 64% trường hợp mắc đái tháo đường ở nam giới và 77% trường hợp mắc đái tháo đường ở phụ nữ.[54]:9

Hậu quả về sức khỏe thuộc hai nhóm chính: những hậu quả do ảnh hưởng của việc tăng khối lượng mỡ (như thoái hóa khớp, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, sự kỳ thị của xã hội) và những hậu quả do số lượng tế bào mỡ tăng lên (tiểu đường, ung thư, bệnh tim mạch, bệnh gan nhiễm mỡ liên quan đến rối loạn chuyển hóa).[2][55] Sự gia tăng lượng mỡ trong cơ thể làm thay đổi phản ứng của cơ thể với insulin, có khả năng dẫn đến tình trạng kháng insulin. Chất béo tăng lên cũng tạo ra trạng thái tiền viêm,[56][57] và kích hoạt quá trình đông máu.[55][58]

Lĩnh vực y tế Tình trạng Lĩnh vực y tế Tình trạng
Tim mạch Da liễu
Nội tiếtY sinh sản Tiêu hóa
Thần kinh Ung thư[72]
Tâm thần Hô hấp
Thấp khớpNgoại chỉnh hình Tiết niệuThận

Các chỉ số về sức khỏe[sửa | sửa mã nguồn]

Các bác sĩ lâm sàng đã đưa ra nghiên cứu mới hơn trong đó tập trung vào các phương pháp xác định những người béo phì khỏe mạnh hơn, và không coi những người béo phì như một nhóm lớn đồng nhất với nhau.[83] Những người béo phì không gặp phải các biến chứng y tế do tình trạng béo phì của họ đôi khi được gọi là béo phì chuyển hóa lành mạnh, nhưng mức độ tồn tại của nhóm này (đặc biệt là ở những người lớn tuổi) đang còn tranh cãi.[84] Có những người được coi là khỏe mạnh về mặt trao đổi chất phụ thuộc vào định nghĩa được sử dụng và không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi.[85] Có rất nhiều người béo phì có đôi chút bất thường về chuyển hóa và một số ít họ không có biến chứng y khoa.[85] Hướng dẫn của Hội Nội tiết Lâm sàng Hoa Kỳ kêu gọi các bác sĩ sử dụng phương pháp đánh giá rủi ro với bệnh nhân béo phì khi xem xét đánh giá nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường loại 2 của họ.[86](tr59–60)

Vào năm 2014, Dự án béo phì lành mạnh BioSHaRE– EU (được tài trợ bởi Maelstrom Research, một nhóm thuộc Viện nghiên cứu của Trung tâm Y tế Đại học McGill) đã đưa ra hai định nghĩa về béo phì lành mạnh, một định nghĩa nghiêm ngặt và một định nghĩa ít nghiêm ngặt hơn:[84][87]

Tiêu chí Dự án Bệnh béo phì Khỏe mạnh (HOP) (BioSHaRE Healthy Obese (HOP) Project Criteria) (2014)
Bệnh nhân phải có BMI ≥ 30 và thỏa mãn tất cả những tiêu chí sau:
Ít nghiêm ngặt Nghiêm ngặt
Huyết áp được đo như sau, không dùng thuốc
Tổng thể (mmHg) ≤ 140 ≤ 130
Tâm thu (mmHg) không áp dụng ≤ 85[a]
Tâm trương (mmHg) ≤ 90 không áp dụng
Đường huyết được đo như sau, không dùng thuốc
Đường huyết (mmol/L) ≤ 7,0 ≤ 6,1
Triglyceride được đo như sau, không dùng thuốc
Nhịn ăn (mmol/L) ≤ 1,7
Không nhịn ăn (mmol/L) ≤ 2,1
HDL-C (Lipoprotein mật độ cao) được đo như sau, không dùng thuốc
Nam (mmol/L) > 1,03
Nữ (mmol/L) > 1,3
Không chẩn đoán được bất kỳ bệnh lý tim mạch nào

Để đưa ra các tiêu chí này, BioSHaRE đã kiểm soát độ tuổi và việc sử dụng thuốc lá, nghiên cứu xem cả hai điều này có thể ảnh hưởng như thế nào đến hội chứng chuyển hóa liên quan đến béo phì, nhưng không tồn tại ở người béo phì khỏe mạnh về mặt trao đổi chất.[88] Vẫn tồn tại các định nghĩa khác về béo phì lành mạnh về mặt trao đổi chất, bao gồm cả những định nghĩa dựa trên chu vi vòng eo thay vì BMI, vốn không đáng tin cậy ở một số cá nhân.[85]

Một thước đo nhận dạng khác về sức khỏe ở người béo phì là sức mạnh bắp chân, yếu tố này có mối tương quan khỏe mạnh thể chất ở người béo phì.[89] Giả thuyết về Thành phần cơ thể đã được dùng để giải thích tình trạng béo phì lành mạnh về mặt trao đổi chất—những người béo phì khỏe mạnh về mặt trao đổi chất thường có lượng mỡ lạc chỗ thấp (chất béo được lưu trữ trong các mô không phải là mô mỡ) mặc dù có khối lượng mỡ tổng thể tương đương trong cân nặng đối với người béo phì mắc hội chứng chuyển hóa.[90](tr1282)

Nghịch lý sinh tồn[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù bệnh béo phì với những hậu quả tiêu cực về sức khỏe của nó trong dân số chung được cổ xúy bởi các bằng chứng nghiên cứu hiện có, nhưng kết quả về sức khỏe ở một số phân nhóm nhất định dường như được cải thiện khi chỉ số BMI tăng lên, một hiện tượng được gọi là nghịch lý sống sót sau béo phì.[91] Nghịch lý này lần đầu tiên được mô tả vào năm 1999 ở những người thừa cân và béo phì đang chạy thận nhân tạo[91] và sau đó được tìm thấy ở những người bị suy timbệnh động mạch ngoại biên (PAD).[92]

Ở những người bị suy tim, những người có chỉ số BMI từ 30,0 đến 34,9 có tỷ lệ tử vong thấp hơn những người có cân nặng bình thường. Điều này được cho là do mọi người thường sụt cân khi tình trạng bệnh ngày càng nặng.[93] Những phát hiện tương tự đã được thấy ở các loại bệnh tim khác. Những người mắc bệnh béo phì độ I và bệnh tim không mắc các vấn đề về tim với tỷ lệ cao hơn những người có cân nặng bình thường cũng mắc bệnh tim tương ứng. Tuy nhiên, ở những người có mức độ béo phì cao hơn, nguy cơ mắc các biến cố tim mạch tiếp theo sẽ tăng lên.[94][95] Ngay cả sau khi phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, tỷ lệ tử vong ở người thừa cân và béo phì không gia tăng.[96] Một nghiên cứu đã cho thấy sự cải thiện khả năng sống sót có thể được giải thích bằng cách điều trị tích cực hơn mà những người béo phì nhận được sau khi họ gặp một biến cố về tim.[97] Một nghiên cứu khác cho thấy rằng nếu tính đến bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) ở những người mắc PAD, lợi ích của bệnh béo phì sẽ không còn tác dụng gì.[92]

Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Mô hình béo phì "một calo là một calo" (A calorie is a calorie) thừa nhận sự kết hợp giữa việc nạp quá nhiều năng lượng từ thực phẩm và thiếu hoạt động thể chất là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp béo phì.[98] Một số ít trường hợp chủ yếu là do di truyền, lý do y tế hoặc bệnh tâm thần.[15] Ngược lại, ở cấp độ xã hội, tỷ lệ béo phì ngày càng tăng được cho là do chế độ dễ tiếp cận và hợp khẩu vị ăn uống,[99] sự phụ thuộc ngày càng tăng vào ô tô và sản xuất được cơ giới hóa.[100][101]

Một số yếu tố khác được cho là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ béo phì gia tăng trên toàn thế giới, bao gồm ngủ không đủ giấc, rối loạn nội tiết, tăng sử dụng một số loại thuốc (như thuốc chống loạn thần không điển hình),[102] tăng nhiệt độ môi trường, giảm tỷ lệ hút thuốc lá,[103] những thay đổi về nhân khẩu học, tăng tuổi làm mẹ của những người lần đầu tiên trở thành mẹ, những thay đổi về rối loạn điều hòa biểu sinh từ môi trường, tăng sự khác biệt về kiểu hình thông qua giao phối lựa chọn, áp lực xã hội đối với chế độ ăn uống,[104] cùng những vấn đề khác. Theo một nghiên cứu, những yếu tố như thế này có thể đóng vai trò quan trọng là nguyên nhân béo phì tương tự như việc nạp quá nhiều năng lượng từ thực phẩm và thiếu hoạt động thể chất;[105] tuy nhiên, mức độ tương đối của ảnh hưởng từ bất kỳ nguyên nhân gây béo phì được đề xuất nào đều không giống nhau và không chắc chắn, vì nhìn chung cần có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trên người trước khi đưa ra tuyên bố dứt khoát.[106]

Theo Hội Nội tiết Lâm sàng Hoa Kỳ, "ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng béo phì là một rối loạn của hệ thống cân bằng nội môi năng lượng, thay vì chỉ đơn giản phát sinh từ sự tích tụ thụ động của trọng lượng dư thừa".[107]

Ăn kiêng[sửa | sửa mã nguồn]

(Left) A world map with countries colored to reflect the food energy consumption of their people in 1961. North America, Europe, and Australia have relatively high intake, while Africa and Asia consume much less.
1961
(Right) A world map with countries colored to reflect the food energy consumption of their people in 2001–2003. Consumption in North America, Europe, and Australia has increased with respect to previous levels in 1971. Food consumption has also increased substantially in many parts of Asia. However, food consumption in Africa remains low.
2001–03
Bản đồ năng lượng được cung cấp trong chế độ ăn uống của mỗi người hằng ngày vào năm 1961 (trái) và 2001–2003 (phải)[108] Calo mỗi người hằng ngày (kilojoules mỗi người hằng ngày)
A graph showing a gradual increase in global food energy consumption per person per day between 1961 and 2002.
Mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người trên thế giới từ năm 1961 đến năm 2002[108]

Sự thèm ăn quá mức đối với loại thực phẩm ngon miệng, giàu calo (đặc biệt là chất béo, đường và một số protein động vật) được coi là yếu tố chính gây ra béo phì trên toàn thế giới. Điều này có thể là do sự mất cân bằng chất dẫn truyền thần kinh từ đó ảnh hưởng đến cảm giác thèm ăn.[109] Nguồn cung năng lượng trong khẩu phần ăn bình quân đầu người thay đổi rõ rệt giữa các khu vực và quốc gia khác nhau. Sự thay đổi này là đáng kể theo thời gian.[108] Từ đầu những năm 1970 đến cuối những năm 1990, năng lượng thực phẩm bình quân đầu người hằng ngày (lượng thực phẩm mua được) đã tăng lên ở mọi nơi trên thế giới ngoại trừ Đông Âu. Hoa Kỳ có nguồn cung cấp cao nhất với 3.654 calo (15.290 kJ) mỗi người vào năm 1996.[108] Con số này tăng lên 3.754 calo (15.710 kJ) vào năm 2003.[108] Vào cuối những năm 1990, người châu Âu có nguồn cung năng lượng thực phẩm là 3.394 calo (14.200 kJ) mỗi người, ở các khu vực đang phát triển của châu Á con số đó là 2.648 calo (11.080 kJ), ở châu Phi cận Sahara người dân có bình quân hằng ngày 2.176 calo (9.100 kJ) mỗi người.[108][110] Tổng mức tiêu thụ năng lượng thực phẩm đã được phát hiện là dẫn đến liên quan tình trạng béo phì.[111]

Tỷ lệ béo phì ở người trưởng thành theo vùng (2000 - 2016)

Các hướng dẫn về chế độ ăn uống phổ biến rộng rãi[112] giải quyết rất ít vấn đề ăn quá nhiều và lựa chọn chế độ ăn uống hạn chế lại.[113] Từ năm 1971 đến năm 2000, tỷ lệ béo phì ở Hoa Kỳ tăng từ 14,5% lên 30,9%.[114] Trong cùng thời gian, lượng năng lượng thực phẩm tiêu thụ trung bình đã tăng lên. Đối với phụ nữ, mức tăng trung bình là 335 calo (1.400 kJ) mỗi ngày (1.542 calo (6.450 kJ) vào năm 1971 lên 1.877 calo (7.850 kJ) vào năm 2004), trong khi đối với nam giới mức tăng trung bình là 168 calo (700 kJ) mỗi ngày (2.450 calo (10.300 kJ) vào năm 1971 lên 2.618 calo (10.950 kJ) vào năm 2004). Hầu hết năng lượng thực phẩm bổ sung này đến từ việc tăng tiêu thụ carbohydrate hơn là tiêu thụ chất béo.[115] Nguồn chính của những carbohydrate bổ sung này là đồ uống có đường, hiện chiếm gần 25% năng lượng thực phẩm hàng ngày ở thanh niên tại Mỹ,[116] cùng với khoai tây chiên.[117] Việc tiêu thụ đồ uống có đường như nước ngọt, nước trái cây và trà đá được cho là góp phần làm tăng tỷ lệ béo phì[118][119] và làm tăng nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa và đái tháo đường loại 2.[120] Thiếu vitamin D dẫn đến các bệnh liên quan béo phì.[121]

Khi xã hội ngày càng phụ thuộc vào các bữa ăn giàu năng lượng, khẩu phần lớn và thức ăn nhanh, mối liên hệ giữa việc tiêu thụ đồ ăn nhanh và béo phì ngày càng trở nên đáng lo ngại hơn.[122] Tại Hoa Kỳ từ năm 1977 đến năm 1995, mức tiêu thụ bữa ăn nhanh tăng gấp ba lần và lượng năng lượng thực phẩm từ những bữa ăn này tăng gấp bốn lần.[123]

Chính sáchkỹ thuật nông nghiệp ở Hoa Kỳ và Châu Âu đã dẫn tới giá lương thực thấp hơn. Tại Hoa Kỳ, việc trợ cấp ngô, đậu nành, lúa mì và gạo thông qua Dự luật trang trại của Hoa Kỳ đã khiến các nguồn thực phẩm chế biến chính trở nên rẻ hơn so với trái cây và rau quả.[124] Luật tính lượng calonhãn thông tin dinh dưỡng cố gắng định hướng người tiêu dùng đến việc lựa chọn thực phẩm lành mạnh hơn, bao gồm cả nhận thức về lượng năng lượng thực phẩm đang được tiêu thụ.

Những người béo phì luôn được báo cáo mức tiêu thụ thực phẩm của họ thấp hơn so với những người có cân nặng bình thường.[125] Điều này được hỗ trợ bởi cả các thử nghiệm của những người được thực hiện trong phòng đo nhiệt lượng[126] và bằng quan sát trực tiếp.

Lối sống ít vận động[sửa | sửa mã nguồn]

Một lối sống ít vận động có thể đóng một vai trò quan trọng đối với bệnh béo phì.[54]:10 Trên toàn thế giới đã có một sự chuyển dịch lớn từ công việc nhiều vận động sang những công việc ít đòi hỏi thể chất hơn,[127][128][129] và hiện tại ít nhất 30% dân số thế giới không tập thể dục đủ mức.[128] Điều này chủ yếu là do việc sử dụng ngày càng tăng các phương tiện giao thông cơ giới hóa và sự phổ biến của công nghệ tiết kiệm lao động tại nhà.[127][128][129] Ở trẻ em, dường như có sự suy giảm về mức độ hoạt động thể chất (đặc biệt giảm mạnh về thời gian đi bộ và giáo dục thể chất), có thể do lo ngại về sự an toàn của chúng, thay đổi trong tương tác xã hội (chẳng hạn như ít mối quan hệ gặp gỡ và vui chơi với trẻ em hàng xóm) và thiết kế đô thị không phù hợp (chẳng hạn như có quá ít không gian công cộng cho hoạt động thể chất an toàn).[130] Xu hướng trên thế giới về hoạt động thể chất tích cực trong thời gian rảnh rỗi chưa rõ ràng. Tổ chức Y tế Thế giới chỉ ra rằng mọi người trên toàn thế giới đang tham gia các hoạt động giải trí ít tính vận động hơn, trong khi nghiên cứu từ Phần Lan[131] cho thấy sự gia tăng và nghiên cứu từ Hoa Kỳ cho thấy hoạt động thể chất trong thời gian rảnh rỗi không thay đổi đáng kể.[132] Hoạt động thể chất ở trẻ em có thể không phải là yếu tố đóng góp đáng kể trong các hoạt động của chúng.[133]

Ở cả trẻ em và người lớn, đều có mối liên quan giữa thời gian xem tivi và nguy cơ béo phì.[134][135][136] Việc tiếp xúc nhiều với các phương tiện truyền thông làm tăng tỷ lệ béo phì ở trẻ em, với tỷ lệ tăng tỷ lệ thuận với thời gian xem tivi.[137]

Di truyền[sửa | sửa mã nguồn]

A painting of a dark haired pink cheeked obese nude young female leaning against a table. She is holding grapes and grape leaves in her left hand which cover her genitalia.
"La Monstrua Desnuda" (The Nude Monster), bức tranh vẽ năm 1680 của họa sĩ Juan Carreno de Miranda vẽ một cô gái được cho là mắc hội chứng Prader–Willi[138]

Giống như nhiều tình trạng bệnh lý khác, béo phì là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố di truyền và môi trường.[139] Hiện tượng đa hình trong các gen khác nhau kiểm soát sự thèm ăntrao đổi chất có xu hướng dẫn đến béo phì khi có đủ năng lượng thực phẩm. Tính đến năm 2006, hơn 41 điểm trong số này trên bộ gen người có liên quan đến sự phát triển của bệnh béo phì khi chúng có được môi trường thuận lợi.[140] Những người có hai bản sao của gen FTO (khối lượng chất béo và gen liên quan đến béo phì) được phát hiện có cân nặng trung bình nhiều hơn 3–4 kg và có nguy cơ béo phì cao hơn 1,67 lần so với những người không có alen nguy cơ.[141] Sự khác biệt về chỉ số BMI giữa những người do di truyền khác nhau tùy thuộc vào đối tượng được kiểm tra từ 6% đến 85%.[142]

Béo phì là đặc điểm chính của một số hội chứng, chẳng hạn như hội chứng Prader–Willi, hội chứng Bardet–Biedl, hội chứng Cohenhội chứng MOMO (Thuật ngữ "béo phì không do hội chứng" đôi khi được sử dụng để loại trừ các tình trạng này.)[143] Ở những người mắc bệnh béo phì nặng khởi phát sớm (được xác định là khởi phát trước 10 tuổi và chỉ số khối cơ thể vượt quá ba độ lệch chuẩn so với mức bình thường), 7% có đột biến DNA điểm đơn.[144]

Các nghiên cứu tập trung vào các kiểu di truyền hơn là các gen cụ thể đã phát hiện ra rằng 80% con cái của hai cha mẹ bị béo phì cũng bị béo phì, trái ngược với ít hơn 10% con cái của hai người cha và mẹ có cân nặng bình thường.[145] Những người khác nhau tiếp xúc với cùng một môi trường có nguy cơ béo phì khác nhau do yếu tố di truyền cơ bản của họ.[146]

Các bệnh khác[sửa | sửa mã nguồn]

Một số bệnh về thể chất và tinh thần cũng như các loại thuốc men dùng để điều trị chúng có thể làm tăng nguy cơ béo phì. Các bệnh nội khoa làm tăng nguy cơ béo phì bao gồm một số hội chứng di truyền hiếm gặp (được liệt kê ở trên) cũng như một số tình trạng mắc phải hoặc bẩm sinh: suy giáp, Hội chứng Cushing, thiếu hụt hormone tăng trưởng,[147] và một số rối loạn ăn uống như rối loạn ăn uống vô độhội chứng ăn đêm.[2] Tuy nhiên, béo phì không được coi là rối loạn tâm thần và do đó không được liệt kê trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần là bệnh tâm thần.[148] Nguy cơ thừa cân và béo phì cao hơn ở những bệnh nhân bị rối loạn tâm thần so với những người không bị rối loạn tâm thần.[149] Béo phì và trầm cảm có ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó béo phì làm tăng nguy cơ trầm cảm lâm sàng và trầm cảm cũng dẫn đến nguy cơ mắc bệnh béo phì cao hơn.[3]

Béo phì do thuốc[sửa | sửa mã nguồn]

Một số loại thuốc có thể gây tăng cân hoặc làm thay đổi thành phần cơ thể; chúng bao gồm insulin, sulfonylurea, thiazolidinedione, thuốc chống loạn thần không điển hình, thuốc chống trầm cảm, steroid, một số loại thuốc chống co giật (phenytoinvalproate), pizotifen và một số dạng thuốc tránh thai nội tiết tố.[2]

Các yếu tố xã hội quyết định[sửa | sửa mã nguồn]

"Cuộn giấy bệnh tật" (Yamai no soshi, cuối thế kỷ 12) mô tả một người phụ nữ cho vay nặng lãi mắc bệnh béo phì, bệnh được coi là căn bệnh của người giàu.
Béo phì ở các nước phát triển có liên quan đến bất bình đẳng kinh tế .

Mặc dù ảnh hưởng di truyền rất quan trọng để hiểu về bệnh béo phì nhưng chúng không thể giải thích hoàn toàn sự gia tăng đáng kể thấy được ở các quốc gia hoặc trên toàn cầu.[150][cần nguồn tốt hơn] Mặc dù đồng ý rằng tiêu thụ năng lượng vượt quá mức tiêu hao năng lượng dẫn đến tăng trọng lượng cơ thể bản thân cá nhân, nguyên nhân thay đổi của hai yếu tố này trên quy mô xã hội vẫn còn nhiều tranh cãi. Có một số giả thuyết về nguyên nhân nhưng hầu hết đều tin rằng đó là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau.

Mối tương quan giữa tầng lớp xã hội và BMI khác nhau trên phạm vi toàn cầu. Nghiên cứu năm 1989 cho thấy ở các nước phát triển, phụ nữ thuộc tầng lớp xã hội cao ít có khả năng bị béo phì hơn. Không có sự khác biệt đáng kể giữa nam giới thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau. Ở các nước đang phát triển, phụ nữ, nam giới và trẻ em thuộc tầng lớp xã hội cao có tỷ lệ béo phì cao hơn.[cần nguồn tốt hơn][151] Vào năm 2007, một nghiên cứu tương tự đã phát hiện ra những mối quan hệ tương ứng, nhưng chúng khá yếu. Sự suy giảm độ mạnh của mối tương quan được cho là do ảnh hưởng của toàn cầu hóa.[152] Trong số các nước phát triển, mức độ béo phì ở người trưởng thành và tỷ lệ trẻ em vị thành niên bị thừa cân có liên quan đến bất bình đẳng thu nhập. Một mối quan hệ tương tự cũng có thể thấy ở các tiểu bang của Hoa Kỳ: nhiều người trưởng thành hơn bị béo phì ở những tiểu bang bất bình đẳng thu nhập hơn, ngay cả ở các tầng lớp xã hội cao hơn.[153]

Nhiều giải thích đã được đưa ra về mối liên hệ giữa BMI và tầng lớp xã hội. Người ta cho rằng ở các nước phát triển, những người giàu có có khả năng mua nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn, họ chịu áp lực xã hội lớn hơn để giữ ngoại hình và có nhiều cơ hội hơn cùng với những kỳ vọng thể chất lớn hơn. Ở các nước chưa phát triển, khả năng đủ tiền mua được thực phẩm, tiêu hao năng lượng cao cùng với lao động thể chất và các giá trị văn hóa cổ xúy cho ngoại hình cơ thể lớn hơn được cho là góp phần vào các hình mẫu ưa nhìn.[152] Thái độ đối với trọng lượng cơ thể của mỗi người trong cuộc đời cũng có thể đóng một vai trò trong việc gây béo phì. Người ta đã tìm thấy mối tương quan về sự thay đổi chỉ số BMI theo thời gian giữa bạn bè, anh chị em và vợ/chồng.[154] Căng thẳng và nhìn nhận địa vị xã hội thấp dường như làm tăng nguy cơ béo phì.[153][155][156]

Hút thuốc lá có ảnh hưởng đáng kể đến cân nặng của một cá nhân. Những người bỏ hút thuốc tăng trung bình 4,4 kg (9,7 lb) đối với nam và 5,0 kg (11,0 lb) đối với nữ trong hơn 10 năm.[157] Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ hút thuốc ít ảnh hưởng đến tỷ lệ béo phì nói chung.[158]

Ở Hoa Kỳ, số con cái của một người có liên quan đến nguy cơ béo phì. Nguy cơ của phụ nữ tăng 7% khi có mỗi đứa trẻ, trong khi nguy cơ của đàn ông tăng 4% mỗi đứa trẻ.[159] Điều này có thể được giải thích một phần là do việc có con cái ẵm bồng thường xuyên làm giảm hoạt động thể chất ở các bậc cha mẹ phương Tây này.[160]

Ở các nước đang phát triển, đô thị hóa đang đóng một vai trò trong việc làm tăng tỷ lệ béo phì. Ở Trung Quốc, tỷ lệ béo phì chung là dưới mức 5%; tuy nhiên, ở một số thành phố, tỷ lệ béo phì cao hơn 20%.[161] Một phần điều này có thể là do các vấn đề về thiết kế đô thị (chẳng hạn như không đủ không gian công cộng cho hoạt động thể chất).[130] Thời gian sử dụng phương tiện cơ giới để đi lại ít, trái ngược với các lựa chọn vận chuyển tích cực như đi xe đạp hoặc đi bộ, do đó khiến tăng nguy cơ béo phì.[162][163]

Suy dinh dưỡng trong giai đoạn đầu đời được cho là có vai trò dẫn đến gia tăng tỷ lệ béo phì ở các nước đang phát triển.[164] Những thay đổi nội tiết xảy ra trong thời kỳ suy dinh dưỡng có thể thúc đẩy việc tích trữ chất béo khi có thêm năng lượng thực phẩm.[164]

Vi khuẩn đường ruột[sửa | sửa mã nguồn]

Nghiên cứu về tác động của các tác nhân lây nhiễm nhiễm trùng béo phì lên quá trình trao đổi chất vẫn còn ở giai đoạn đầu. Hệ vi sinh đường ruột đã được chứng minh là khác nhau giữa người gầy và người béo phì. Có dấu hiệu cho thấy hệ vi sinh đường ruột có thể ảnh hưởng đến khả năng trao đổi chất. Sự thay đổi rõ ràng này được cho là mang lại khả năng dồn ứ năng lượng thực phẩm lớn hơn, góp phần gây ra béo phì. Cho dù những khác biệt này là nguyên nhân trực tiếp hay là kết quả của bệnh béo phì vẫn chưa được xác định rõ ràng.[165] Việc sử dụng kháng sinh ở trẻ em cũng có liên quan đến béo phì sau này.[166][167]

Mối liên quan giữa virus và bệnh béo phì đã được tìm thấy ở người và một số loài động vật khác nhau. Mức độ của các kết hợp này có thể đã góp phần vào tỷ lệ béo phì gia tăng vẫn chưa được xác định.[168]

Các yếu tố khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ngủ không đủ giấc cũng liên quan đến béo phì.[169][170] Điều này có gây ra điều kia hay không thì vẫn chưa rõ ràng.[169] Ngay cả khi giấc ngủ ngắn ngủi làm tăng cân thì vẫn chưa rõ liệu sự tăng cân có ý nghĩa hay việc tăng cường ngủ mang lại lợi ích gì hay không.[171]

Một số người đề xuất rằng các hợp chất hóa học được gọi là "chất gây béo phì" có thể đóng vai trò gây ra bệnh béo phì.

Một số khía cạnh của tính cách có liên quan đến béo phì.[172] Sự cô đơn,[173] chứng loạn thần kinh, sự bốc đồng và nhạy cảm với phần thưởng thường gặp hơn ở những người béo phì trong khi sự tận tâmtự chủ lại ít phổ biến hơn ở họ.[172][174] Bởi vì hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đều dựa trên bảng câu hỏi, có thể những phát hiện khảo sát đã đánh giá quá cao mối quan hệ giữa tính cách và béo phì: những người béo phì có thể nhận thức được sự kỳ thị của xã hội đối với béo phì và câu trả lời câu hỏi của họ có thể bị sai lệch tương ứng.[172] Tương tự như vậy, thay vì những yếu tố tính cách đóng vai trò là yếu tố nguy cơ dẫn đến béo phì, tính cách của những người béo phì khi còn nhỏ có thể bị ảnh hưởng do sự kỳ thị về béo phì.[172]

Liên quan đến hiện tượng toàn cầu hóa, người ta biết rằng tự do hóa thương mại có liên quan đến béo phì; nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ 175 quốc gia trong giai đoạn 1975-2016, cho thấy tỷ lệ béo phì có mối tương quan thuận với độ mở thương mại và mối tương quan này mạnh hơn ở các nước đang phát triển.[175]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Mức huyết áp cao bình thường

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i “Obesity and overweight Fact sheet N°311”. WHO. tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2016.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa Haslam DW, James WP (tháng 10 năm 2005). “Obesity”. Lancet (Review). 366 (9492): 1197–1209. doi:10.1016/S0140-6736(05)67483-1. PMID 16198769. S2CID 208791491.
  3. ^ a b Luppino FS, de Wit LM, Bouvy PF, Stijnen T, Cuijpers P, Penninx BW, Zitman FG (tháng 3 năm 2010). “Overweight, obesity, and depression: a systematic review and meta-analysis of longitudinal studies”. Archives of General Psychiatry. 67 (3): 220–9. doi:10.1001/archgenpsychiatry.2010.2. PMID 20194822.
  4. ^ a b Yazdi FT, Clee SM, Meyre D (2015). “Obesity genetics in mouse and human: back and forth, and back again”. PeerJ. 3: e856. doi:10.7717/peerj.856. PMC 4375971. PMID 25825681.
  5. ^ a b Yanovski SZ, Yanovski JA (tháng 1 năm 2014). “Long-term drug treatment for obesity: a systematic and clinical review”. JAMA (Review). 311 (1): 74–86. doi:10.1001/jama.2013.281361. PMC 3928674. PMID 24231879.
  6. ^ a b Colquitt JL, Pickett K, Loveman E, Frampton GK (tháng 8 năm 2014). “Surgery for weight loss in adults”. The Cochrane Database of Systematic Reviews (Meta-analysis, Review). 2014 (8): CD003641. doi:10.1002/14651858.CD003641.pub4. PMC 9028049. PMID 25105982.
  7. ^ NCD Risk Factor Collaboration (NCD-RisC) (29 tháng 2 năm 2024). “Worldwide trends in underweight and obesity from 1990 to 2022: a pooled analysis of 3663 population-representative studies with 222 million children, adolescents, and adults”. The Lancet. 403 (10431): 1027–1050. doi:10.1016/S0140-6736(23)02750-2. PMC 7615769. PMID 38432237.
  8. ^ Powell-Wiley TM, Poirier P, Burke LE, Després JP, Gordon-Larsen P, Lavie CJ, Lear SA, Ndumele CE, Neeland IJ, Sanders P, St-Onge MP (tháng 5 năm 2021). “Obesity and Cardiovascular Disease: A Scientific Statement From the American Heart Association”. Circulation. 143 (21): e984–e1010. doi:10.1161/CIR.0000000000000973. PMC 8493650. PMID 33882682.
  9. ^ CDC (21 tháng 3 năm 2022). “Causes and Consequences of Childhood Obesity”. Centers for Disease Control and Prevention (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2022.
  10. ^ “Policy Finder”. American Medical Association (AMA). Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2022.
  11. ^ a b Kanazawa M, Yoshiike N, Osaka T, Numba Y, Zimmet P, Inoue S (2005). “Criteria and Classification of Obesity in Japan and Asia-Oceania”. Nutrition and Fitness: Obesity, the Metabolic Syndrome, Cardiovascular Disease, and Cancer. World Review of Nutrition and Dietetics. 94. tr. 1–12. doi:10.1159/000088200. ISBN 978-3-8055-7944-5. PMID 16145245. S2CID 19963495.
  12. ^ “Obesity - Symptoms and causes”. Mayo Clinic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2021.
  13. ^ a b c Chiolero A (tháng 10 năm 2018). “Why causality, and not prediction, should guide obesity prevention policy”. The Lancet. Public Health. 3 (10): e461–e462. doi:10.1016/S2468-2667(18)30158-0. PMID 30177480.
  14. ^ Kassotis CD, Vandenberg LN, Demeneix BA, Porta M, Slama R, Trasande L (tháng 8 năm 2020). “Endocrine-disrupting chemicals: economic, regulatory, and policy implications”. The Lancet. Diabetes & Endocrinology. 8 (8): 719–730. doi:10.1016/S2213-8587(20)30128-5. PMC 7437819. PMID 32707119.
  15. ^ a b Bleich S, Cutler D, Murray C, Adams A (2008). “Why is the developed world obese?”. Annual Review of Public Health (Research Support). 29: 273–295. doi:10.1146/annurev.publhealth.29.020907.090954. PMID 18173389.
  16. ^ Strohacker K, Carpenter KC, McFarlin BK (15 tháng 7 năm 2009). “Consequences of Weight Cycling: An Increase in Disease Risk?”. International Journal of Exercise Science. 2 (3): 191–201. PMC 4241770. PMID 25429313.
  17. ^ Imaz I, Martínez-Cervell C, García-Alvarez EE, Sendra-Gutiérrez JM, González-Enríquez J (tháng 7 năm 2008). “Safety and effectiveness of the intragastric balloon for obesity. A meta-analysis”. Obesity Surgery. 18 (7): 841–846. doi:10.1007/s11695-007-9331-8. PMID 18459025. S2CID 10220216.
  18. ^ Encyclopedia of Mental Health (ấn bản 2). Academic Press. 2015. tr. 158. ISBN 978-0-12-397753-3.
  19. ^ NCD Risk Factor Collaboration (NCD-RisC) (29 tháng 2 năm 2024). “Worldwide trends in underweight and obesity from 1990 to 2022: a pooled analysis of 3663 population-representative studies with 222 million children, adolescents, and adults”. The Lancet. 403 (10431): 1027–1050. doi:10.1016/S0140-6736(23)02750-2. PMC 7615769. PMID 38432237.
  20. ^ “One in eight people are now living with obesity”. www.who.int (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  21. ^ Woodhouse R (2008). Obesity in art: a brief overview. Frontiers of Hormone Research. 36. tr. 271–86. doi:10.1159/000115370. ISBN 978-3-8055-8429-6. PMID 18230908.
  22. ^ “The implications of defining obesity as a disease: a report from the Association for the Study of Obesity 2021 annual conference - eClinicalMedicine”.
  23. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên USGuidelines2013
  24. ^ Pollack A (18 tháng 6 năm 2013). “A.M.A. Recognizes Obesity as a Disease”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2013.
  25. ^ Weinstock M (21 tháng 6 năm 2013). “The Facts About Obesity”. H&HN. American Hospital Association. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2013.
  26. ^ a b The SuRF Report 2 (PDF). The Surveillance of Risk Factors Report Series (SuRF). World Health Organization. 2005. tr. 22.
  27. ^ a b “25% dân số Việt Nam đang bị thừa cân béo phì”. Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế. 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  28. ^ a b c d “Obesity and overweight”. World Health Organization. 9 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2022.
  29. ^ “Defining Adult Overweight and Obesity”. U.S. Centers for Disease Control and Prevention. 7 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2022.
  30. ^ “BMI-for-age (5–19 years)”. World Health Organization. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2022.
  31. ^ a b Bei-Fan Z (tháng 12 năm 2002). “Predictive values of body mass index and waist circumference for risk factors of certain related diseases in Chinese adults: study on optimal cut-off points of body mass index and waist circumference in Chinese adults”. Asia Pac J Clin Nutr. 11 (Suppl 8): S685–93. doi:10.1046/j.1440-6047.11.s8.9.x.; Ban đầu được in dưới dạng Zhou BF (tháng 3 năm 2002). “Predictive values of body mass index and waist circumference for risk factors of certain related diseases in Chinese adults--study on optimal cut-off points of body mass index and waist circumference in Chinese adults”. Biomedical and Environmental Sciences. 15 (1): 83–96. PMID 12046553.
  32. ^ Sturm R (tháng 7 năm 2007). “Increases in morbid obesity in the USA: 2000–2005”. Public Health. 121 (7): 492–6. doi:10.1016/j.puhe.2007.01.006. PMC 2864630. PMID 17399752.
  33. ^ Seidell JC, Flegal KM (1997). “Assessing obesity: classification and epidemiology” (PDF). British Medical Bulletin. 53 (2): 238–252. doi:10.1093/oxfordjournals.bmb.a011611. PMID 9246834.
  34. ^ Lin, Ting-Yun; Lim, Paik-Seong; Hung, Szu-Chun (23 tháng 12 năm 2017). “Impact of Misclassification of Obesity by Body Mass Index on Mortality in Patients With CKD”. Kidney International Reports. 3 (2): 447–455. doi:10.1016/j.ekir.2017.12.009. ISSN 2468-0249. PMC 5932305. PMID 29725649.
  35. ^ “Regular Exercise: How It Can Boost Your Health”.
  36. ^ “NFL Players Not at Increased Heart Risk: Study finds they showed no more signs of cardiovascular trouble than general male population”.
  37. ^ a b Yamauchi T, Abe T, Midorikawa T, Kondo M (2004). “Body composition and resting metabolic rate of Japanese college Sumo wrestlers and non-athlete students: are Sumo wrestlers obese?”. Anthropological Science. 112 (2): 179–185. doi:10.1537/ase.040210.
  38. ^ a b Blüher M (tháng 5 năm 2019). “Obesity: global epidemiology and pathogenesis”. Nature Reviews. Endocrinology. 15 (5): 288–298. doi:10.1038/s41574-019-0176-8. PMID 30814686. S2CID 71146382.
  39. ^ a b c d Whitlock G, Lewington S, Sherliker P, Clarke R, Emberson J, Halsey J, Qizilbash N, Collins R, Peto R (tháng 3 năm 2009). “Body-mass index and cause-specific mortality in 900 000 adults: collaborative analyses of 57 prospective studies”. Lancet. 373 (9669): 1083–96. doi:10.1016/S0140-6736(09)60318-4. PMC 2662372. PMID 19299006.
  40. ^ Barness LA, Opitz JM, Gilbert-Barness E (tháng 12 năm 2007). “Obesity: genetic, molecular, and environmental aspects”. American Journal of Medical Genetics. Part A. 143A (24): 3016–34. doi:10.1002/ajmg.a.32035. PMID 18000969. S2CID 7205587.
  41. ^ Mokdad AH, Marks JS, Stroup DF, Gerberding JL (tháng 3 năm 2004). “Actual causes of death in the United States, 2000”. JAMA. 291 (10): 1238–45. doi:10.1001/jama.291.10.1238. PMID 15010446. S2CID 14589790.
  42. ^ Allison DB, Fontaine KR, Manson JE, Stevens J, VanItallie TB (tháng 10 năm 1999). “Annual deaths attributable to obesity in the United States”. JAMA. 282 (16): 1530–8. doi:10.1001/jama.282.16.1530. PMID 10546692.
  43. ^ Aune D, Sen A, Prasad M, Norat T, Janszky I, Tonstad S, Romundstad P, Vatten LJ (tháng 5 năm 2016). “BMI and all cause mortality: systematic review and non-linear dose-response meta-analysis of 230 cohort studies with 3.74 million deaths among 30.3 million participants”. BMJ. 353: i2156. doi:10.1136/bmj.i2156. PMC 4856854. PMID 27146380.
  44. ^ a b Di Angelantonio E, Bhupathiraju S, Wormser D, Gao P, Kaptoge S, Berrington de Gonzalez A, Cairns BJ, Huxley R, Jackson C, Joshy G, Lewington S, Manson JE, Murphy N, Patel AV, Samet JM, Woodward M, Zheng W, Zhou M, Bansal N, Barricarte A, Carter B, Cerhan JR, Smith GD, Fang X, Franco OH, Green J, Halsey J, Hildebrand JS, Jung KJ, Korda RJ, McLerran DF, Moore SC, O'Keeffe LM, Paige E, Ramond A, Reeves GK, Rolland B, Sacerdote C, Sattar N, Sofianopoulou E, Stevens J, Thun M, Ueshima H, Yang L, Yun YD, Willeit P, Banks E, Beral V, Chen Z, Gapstur SM, Gunter MJ, Hartge P, Jee SH, Lam TH, Peto R, Potter JD, Willett WC, Thompson SG, Danesh J, Hu FB, và đồng nghiệp (The Global BMI Mortality Collaboration) (tháng 8 năm 2016). “Body-mass index and all-cause mortality: individual-participant-data meta-analysis of 239 prospective studies in four continents”. Lancet. 388 (10046): 776–86. doi:10.1016/S0140-6736(16)30175-1. PMC 4995441. PMID 27423262.
  45. ^ Calle EE, Thun MJ, Petrelli JM, Rodriguez C, Heath CW (tháng 10 năm 1999). “Body-mass index and mortality in a prospective cohort of U.S. adults”. The New England Journal of Medicine. 341 (15): 1097–105. doi:10.1056/NEJM199910073411501. PMID 10511607.
  46. ^ Pischon T, Boeing H, Hoffmann K, Bergmann M, Schulze MB, Overvad K, van der Schouw YT, Spencer E, Moons KG, Tjønneland A, Halkjaer J, Jensen MK, Stegger J, Clavel-Chapelon F, Boutron-Ruault MC, Chajes V, Linseisen J, Kaaks R, Trichopoulou A, Trichopoulos D, Bamia C, Sieri S, Palli D, Tumino R, Vineis P, Panico S, Peeters PH, May AM, Bueno-de-Mesquita HB, van Duijnhoven FJ, Hallmans G, Weinehall L, Manjer J, Hedblad B, Lund E, Agudo A, Arriola L, Barricarte A, Navarro C, Martinez C, Quirós JR, Key T, Bingham S, Khaw KT, Boffetta P, Jenab M, Ferrari P, Riboli E (tháng 11 năm 2008). “General and abdominal adiposity and risk of death in Europe”. The New England Journal of Medicine. 359 (20): 2105–20. doi:10.1056/NEJMoa0801891. PMID 19005195. S2CID 23967973.
  47. ^ Carmienke S, Freitag MH, Pischon T, Schlattmann P, Fankhaenel T, Goebel H, Gensichen J (tháng 6 năm 2013). “General and abdominal obesity parameters and their combination in relation to mortality: a systematic review and meta-regression analysis”. European Journal of Clinical Nutrition. 67 (6): 573–85. doi:10.1038/ejcn.2013.61. PMID 23511854.
  48. ^ WHO Expert Consultation (tháng 1 năm 2004). “Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and intervention strategies”. Lancet. 363 (9403): 157–63. doi:10.1016/s0140-6736(03)15268-3. PMID 14726171. S2CID 15637224.
  49. ^ “Obesity”. www.who.int (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2022.
  50. ^ Peeters A, Barendregt JJ, Willekens F, Mackenbach JP, Al Mamun A, Bonneux L (tháng 1 năm 2003). “Obesity in adulthood and its consequences for life expectancy: a life-table analysis” (PDF). Annals of Internal Medicine. 138 (1): 24–32. doi:10.7326/0003-4819-138-1-200301070-00008. hdl:1765/10043. PMID 12513041. S2CID 8120329.
  51. ^ Grundy SM (tháng 6 năm 2004). “Obesity, metabolic syndrome, and cardiovascular disease”. The Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism. 89 (6): 2595–600. doi:10.1210/jc.2004-0372. PMID 15181029. S2CID 7453798.
  52. ^ “Obesity linked to long Covid-19, RAK hospital study finds”. Khaleej Times. 12 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  53. ^ Kompaniyets L, Pennington AF, Goodman AB, Rosenblum HG, Belay B, Ko JY, Chevinsky JR, Schieber LZ, Summers AD, Lavery AM, Preston LE, Danielson ML, Cui Z, Namulanda G, Yusuf H, Mac Kenzie WR, Wong KK, Baggs J, Boehmer TK, Gundlapalli AV (tháng 7 năm 2021). “Underlying Medical Conditions and Severe Illness Among 540,667 Adults Hospitalized With COVID-19, March 2020 – March 2021”. Preventing Chronic Disease. Centers for Disease Control and Prevention. 18: E66. doi:10.5888/pcd18.210123. PMC 8269743. PMID 34197283.
  54. ^ a b Seidell JC (2005). “Epidemiology – definition and classification of obesity”. Trong Kopelman PG, Caterson ID, Stock MJ, Dietz WH (biên tập). Clinical obesity in adults and children: In Adults and Children. Blackwell Publishing. tr. 3–11. ISBN 978-1-4051-1672-5.
  55. ^ a b Bray GA (tháng 6 năm 2004). “Medical consequences of obesity”. The Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism. 89 (6): 2583–9. doi:10.1210/jc.2004-0535. PMID 15181027.
  56. ^ Shoelson SE, Herrero L, Naaz A (tháng 5 năm 2007). “Obesity, inflammation, and insulin resistance”. Gastroenterology. 132 (6): 2169–80. doi:10.1053/j.gastro.2007.03.059. PMID 17498510.
  57. ^ Shoelson SE, Lee J, Goldfine AB (tháng 7 năm 2006). “Inflammation and insulin resistance”. The Journal of Clinical Investigation. 116 (7): 1793–801. doi:10.1172/JCI29069. PMC 1483173. PMID 16823477.
  58. ^ Dentali F, Squizzato A, Ageno W (tháng 7 năm 2009). “The metabolic syndrome as a risk factor for venous and arterial thrombosis”. Seminars in Thrombosis and Hemostasis. 35 (5): 451–7. doi:10.1055/s-0029-1234140. PMID 19739035. S2CID 260320617.
  59. ^ Lu Y, Hajifathalian K, Ezzati M, Woodward M, Rimm EB, Danaei G (tháng 3 năm 2014). “Metabolic mediators of the effects of body-mass index, overweight, and obesity on coronary heart disease and stroke: a pooled analysis of 97 prospective cohorts with 1·8 million participants”. Lancet. 383 (9921): 970–83. doi:10.1016/S0140-6736(13)61836-X. PMC 3959199. PMID 24269108.
  60. ^ Aune D, Sen A, Norat T, Janszky I, Romundstad P, Tonstad S, Vatten LJ (tháng 2 năm 2016). “Body Mass Index, Abdominal Fatness, and Heart Failure Incidence and Mortality: A Systematic Review and Dose-Response Meta-Analysis of Prospective Studies”. Circulation. 133 (7): 639–49. doi:10.1161/CIRCULATIONAHA.115.016801. PMID 26746176. S2CID 115876581.
  61. ^ Darvall KA, Sam RC, Silverman SH, Bradbury AW, Adam DJ (tháng 2 năm 2007). “Obesity and thrombosis”. European Journal of Vascular and Endovascular Surgery. 33 (2): 223–33. doi:10.1016/j.ejvs.2006.10.006. PMID 17185009.
  62. ^ a b c d Yosipovitch G, DeVore A, Dawn A (tháng 6 năm 2007). “Obesity and the skin: skin physiology and skin manifestations of obesity”. Journal of the American Academy of Dermatology. 56 (6): 901–16, quiz 917–20. doi:10.1016/j.jaad.2006.12.004. PMID 17504714.
  63. ^ Hahler B (tháng 6 năm 2006). “An overview of dermatological conditions commonly associated with the obese patient”. Ostomy/Wound Management. 52 (6): 34–6, 38, 40 passim. PMID 16799182.
  64. ^ a b c Arendas K, Qiu Q, Gruslin A (tháng 6 năm 2008). “Obesity in pregnancy: pre-conceptional to postpartum consequences”. Journal of Obstetrics and Gynaecology Canada. 30 (6): 477–488. doi:10.1016/s1701-2163(16)32863-8. PMID 18611299.
  65. ^ a b c d Dibaise JK, Foxx-Orenstein AE (tháng 7 năm 2013). “Role of the gastroenterologist in managing obesity”. Expert Review of Gastroenterology & Hepatology (Review). 7 (5): 439–51. doi:10.1586/17474124.2013.811061. PMID 23899283. S2CID 26275773.
  66. ^ Harney D, Patijn J (2007). “Meralgia paresthetica: diagnosis and management strategies”. Pain Medicine (Review). 8 (8): 669–77. doi:10.1111/j.1526-4637.2006.00227.x. PMID 18028045.
  67. ^ Bigal ME, Lipton RB (tháng 1 năm 2008). “Obesity and chronic daily headache”. Current Pain and Headache Reports (Review). 12 (1): 56–61. doi:10.1007/s11916-008-0011-8. PMID 18417025. S2CID 23729708.
  68. ^ Sharifi-Mollayousefi A, Yazdchi-Marandi M, Ayramlou H, Heidari P, Salavati A, Zarrintan S, Sharifi-Mollayousefi A (tháng 2 năm 2008). “Assessment of body mass index and hand anthropometric measurements as independent risk factors for carpal tunnel syndrome”. Folia Morphologica. 67 (1): 36–42. PMID 18335412.
  69. ^ Beydoun MA, Beydoun HA, Wang Y (tháng 5 năm 2008). “Obesity and central obesity as risk factors for incident dementia and its subtypes: a systematic review and meta-analysis”. Obesity Reviews (Meta-analysis). 9 (3): 204–18. doi:10.1111/j.1467-789X.2008.00473.x. PMC 4887143. PMID 18331422.
  70. ^ Wall M (tháng 3 năm 2008). “Idiopathic intracranial hypertension (pseudotumor cerebri)”. Current Neurology and Neuroscience Reports (Review). 8 (2): 87–93. doi:10.1007/s11910-008-0015-0. PMID 18460275. S2CID 17285706.
  71. ^ Munger KL, Chitnis T, Ascherio A (tháng 11 năm 2009). “Body size and risk of MS in two cohorts of US women”. Neurology (Comparative Study). 73 (19): 1543–50. doi:10.1212/WNL.0b013e3181c0d6e0. PMC 2777074. PMID 19901245.
  72. ^ Basen-Engquist K, Chang M (tháng 2 năm 2011). “Obesity and cancer risk: recent review and evidence”. Current Oncology Reports. 13 (1): 71–6. doi:10.1007/s11912-010-0139-7. PMC 3786180. PMID 21080117.
  73. ^ a b c Poulain M, Doucet M, Major GC, Drapeau V, Sériès F, Boulet LP, Tremblay A, Maltais F (tháng 4 năm 2006). “The effect of obesity on chronic respiratory diseases: pathophysiology and therapeutic strategies”. CMAJ. 174 (9): 1293–9. doi:10.1503/cmaj.051299. PMC 1435949. PMID 16636330.
  74. ^ Poly TN, Islam MM, Yang HC, Lin MC, Jian WS, Hsu MH, Jack Li YC (5 tháng 2 năm 2021). “Obesity and Mortality Among Patients Diagnosed With COVID-19: A Systematic Review and Meta-Analysis”. Frontiers in Medicine. 8: 620044. doi:10.3389/fmed.2021.620044. PMC 7901910. PMID 33634150.
  75. ^ Aune D, Norat T, Vatten LJ (tháng 12 năm 2014). “Body mass index and the risk of gout: a systematic review and dose-response meta-analysis of prospective studies”. European Journal of Nutrition. 53 (8): 1591–601. doi:10.1007/s00394-014-0766-0. PMID 25209031. S2CID 38095938.
  76. ^ Tukker A, Visscher TL, Picavet HS (tháng 3 năm 2009). “Overweight and health problems of the lower extremities: osteoarthritis, pain and disability”. Public Health Nutrition (Research Support). 12 (3): 359–68. doi:10.1017/S1368980008002103. PMID 18426630.
  77. ^ Molenaar EA, Numans ME, van Ameijden EJ, Grobbee DE (tháng 11 năm 2008). “[Considerable comorbidity in overweight adults: results from the Utrecht Health Project]”. Nederlands Tijdschrift voor Geneeskunde (English abstract) (bằng tiếng Hà Lan). 152 (45): 2457–63. PMID 19051798.
  78. ^ Corona G, Rastrelli G, Filippi S, Vignozzi L, Mannucci E, Maggi M (2014). “Erectile dysfunction and central obesity: an Italian perspective”. Asian Journal of Andrology. 16 (4): 581–91. doi:10.4103/1008-682X.126386. PMC 4104087. PMID 24713832.
  79. ^ Hunskaar S (2008). “A systematic review of overweight and obesity as risk factors and targets for clinical intervention for urinary incontinence in women”. Neurourology and Urodynamics (Review). 27 (8): 749–57. doi:10.1002/nau.20635. PMID 18951445. S2CID 20378183.
  80. ^ Ejerblad E, Fored CM, Lindblad P, Fryzek J, McLaughlin JK, Nyrén O (tháng 6 năm 2006). “Obesity and risk for chronic renal failure”. Journal of the American Society of Nephrology (Research Support). 17 (6): 1695–702. doi:10.1681/ASN.2005060638. PMID 16641153.
  81. ^ Makhsida N, Shah J, Yan G, Fisch H, Shabsigh R (tháng 9 năm 2005). “Hypogonadism and metabolic syndrome: implications for testosterone therapy”. The Journal of Urology (Review). 174 (3): 827–34. CiteSeerX 10.1.1.612.1060. doi:10.1097/01.ju.0000169490.78443.59. PMID 16093964.
  82. ^ Pestana IA, Greenfield JM, Walsh M, Donatucci CF, Erdmann D (tháng 10 năm 2009). “Management of "buried" penis in adulthood: an overview”. Plastic and Reconstructive Surgery (Review). 124 (4): 1186–95. doi:10.1097/PRS.0b013e3181b5a37f. PMID 19935302. S2CID 36775257.
  83. ^ Denis GV, Hamilton JA (tháng 10 năm 2013). “Healthy obese persons: how can they be identified and do metabolic profiles stratify risk?”. Current Opinion in Endocrinology, Diabetes, and Obesity. 20 (5): 369–376. doi:10.1097/01.med.0000433058.78485.b3. PMC 3934493. PMID 23974763.
  84. ^ a b Blüher M (tháng 5 năm 2020). “Metabolically Healthy Obesity”. Endocrine Reviews. 41 (3): bnaa004. doi:10.1210/endrev/bnaa004. PMC 7098708. PMID 32128581.
  85. ^ a b c Smith GI, Mittendorfer B, Klein S (tháng 10 năm 2019). “Metabolically healthy obesity: facts and fantasies”. The Journal of Clinical Investigation. 129 (10): 3978–3989. doi:10.1172/JCI129186. PMC 6763224. PMID 31524630.
  86. ^ Garvey WT, Mechanick JI, Brett EM, Garber AJ, Hurley DL, Jastreboff AM, Nadolsky K, Pessah-Pollack R, Plodkowski R (tháng 7 năm 2016). “American Association of Clinical Endocrinologists and American College of Endocrinology Comprehensive Clinical Practice Guidelines for Medical Care of Patients with Obesity”. Endocrine Practice. 22 (Suppl 3): 1–203. doi:10.4158/EP161365.GL. PMID 27219496. S2CID 3996442.
  87. ^ van Vliet-Ostaptchouk JV, Nuotio M, Slagter SN, Doiron D, Fischer K, Foco L, Gaye A, Gögele M, Heier M, Hiekkalinna T, Joensuu A (tháng 2 năm 2014). “The prevalence of metabolic syndrome and metabolically healthy obesity in Europe: a collaborative analysis of ten large cohort studies”. BMC Endocrine Disorders. BioMed Central (Springer Nature). 14: 9. doi:10.1186/1472-6823-14-9. ISSN 1472-6823. PMC 3923238. PMID 24484869.
  88. ^ Stolk R (26 tháng 11 năm 2013). “The Healthy Obese Project (HOP)” (PDF). BioSHaRE Newsletter (4): 2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
  89. ^ Scott D, Shore-Lorenti C, McMillan LB, Mesinovic J, Clark RA, Hayes A, Sanders KM, Duque G, Ebeling PR (tháng 3 năm 2018). “Calf muscle density is independently associated with physical function in overweight and obese older adults”. Journal of Musculoskeletal and Neuronal Interactions. Likovrisi: Hylonome Publications. 18 (1): 9–17. ISSN 1108-7161. PMC 5881124. PMID 29504574.
  90. ^ Karelis AD (tháng 10 năm 2008). “Metabolically healthy but obese individuals”. The Lancet (bằng tiếng Anh). 372 (9646): 1281–1283. doi:10.1016/S0140-6736(08)61531-7. PMID 18929889. S2CID 29584669.
  91. ^ a b Schmidt DS, Salahudeen AK (2007). “Obesity-survival paradox-still a controversy?”. Seminars in Dialysis (Review). 20 (6): 486–92. doi:10.1111/j.1525-139X.2007.00349.x. PMID 17991192. S2CID 37354831.
  92. ^ a b U.S. Preventive Services Task Force (tháng 6 năm 2003). “Behavioral counseling in primary care to promote a healthy diet: recommendations and rationale”. American Family Physician (Review). 67 (12): 2573–6. PMID 12825847.
  93. ^ Habbu A, Lakkis NM, Dokainish H (tháng 10 năm 2006). “The obesity paradox: fact or fiction?”. The American Journal of Cardiology (Review). 98 (7): 944–8. doi:10.1016/j.amjcard.2006.04.039. PMID 16996880.
  94. ^ Romero-Corral A, Montori VM, Somers VK, Korinek J, Thomas RJ, Allison TG, Mookadam F, Lopez-Jimenez F (tháng 8 năm 2006). “Association of bodyweight with total mortality and with cardiovascular events in coronary artery disease: a systematic review of cohort studies”. Lancet (Review). 368 (9536): 666–78. doi:10.1016/S0140-6736(06)69251-9. PMID 16920472. S2CID 23306195.
  95. ^ Oreopoulos A, Padwal R, Kalantar-Zadeh K, Fonarow GC, Norris CM, McAlister FA (tháng 7 năm 2008). “Body mass index and mortality in heart failure: a meta-analysis”. American Heart Journal (Meta-analysis, Review). 156 (1): 13–22. doi:10.1016/j.ahj.2008.02.014. PMID 18585492. S2CID 25332291.
  96. ^ Oreopoulos A, Padwal R, Norris CM, Mullen JC, Pretorius V, Kalantar-Zadeh K (tháng 2 năm 2008). “Effect of obesity on short- and long-term mortality postcoronary revascularization: a meta-analysis”. Obesity (Meta-analysis). 16 (2): 442–50. doi:10.1038/oby.2007.36. PMID 18239657. S2CID 205524756.
  97. ^ Diercks DB, Roe MT, Mulgund J, Pollack CV, Kirk JD, Gibler WB, Ohman EM, Smith SC, Boden WE, Peterson ED (tháng 7 năm 2006). “The obesity paradox in non-ST-segment elevation acute coronary syndromes: results from the Can Rapid risk stratification of Unstable angina patients Suppress ADverse outcomes with Early implementation of the American College of Cardiology/American Heart Association Guidelines Quality Improvement Initiative”. American Heart Journal (Research Support). 152 (1): 140–8. doi:10.1016/j.ahj.2005.09.024. PMID 16824844.
  98. ^ Lau DC, Douketis JD, Morrison KM, Hramiak IM, Sharma AM, Ur E (tháng 4 năm 2007). “2006 Canadian clinical practice guidelines on the management and prevention of obesity in adults and children [summary]”. CMAJ (Practice Guideline, Review). 176 (8): S1–13. doi:10.1503/cmaj.061409. PMC 1839777. PMID 17420481.
  99. ^ Drewnowski A, Specter SE (tháng 1 năm 2004). “Poverty and obesity: the role of energy density and energy costs”. The American Journal of Clinical Nutrition (Review). 79 (1): 6–16. doi:10.1093/ajcn/79.1.6. PMID 14684391.
  100. ^ Nestle M, Jacobson MF (2000). “Halting the obesity epidemic: a public health policy approach”. Public Health Reports (Research Support). 115 (1): 12–24. doi:10.1093/phr/115.1.12 (không hoạt động 31 January 2024). JSTOR 4598478. PMC 1308552. PMID 10968581.Quản lý CS1: DOI không hoạt động tính đến tháng 1 2024 (liên kết)
  101. ^ James WP (tháng 3 năm 2008). “The fundamental drivers of the obesity epidemic”. Obesity Reviews (Review). 9 (Suppl 1): 6–13. doi:10.1111/j.1467-789X.2007.00432.x. PMID 18307693. S2CID 19894128.
  102. ^ Masand PS. "Weight gain associated with psychotropic drugs". Expert opinion on pharmacotherapy. 2000;1:377–389.
  103. ^ Baum, Charles L. "The effects of cigarette costs on BMI and obesity." Health Economics 18.1 (2009): 3-19. APA
  104. ^ Memon AN, Gowda AS, Rallabhandi B, Bidika E, Fayyaz H, Salib M, Cancarevic I (tháng 9 năm 2020). “Have Our Attempts to Curb Obesity Done More Harm Than Good?”. Cureus. 12 (9): e10275. doi:10.7759/cureus.10275. PMC 7538029. PMID 33042711. S2CID 221794897.
  105. ^ Keith SW, Redden DT, Katzmarzyk PT, Boggiano MM, Hanlon EC, Benca RM, Ruden D, Pietrobelli A, Barger JL, Fontaine KR, Wang C, Aronne LJ, Wright SM, Baskin M, Dhurandhar NV, Lijoi MC, Grilo CM, DeLuca M, Westfall AO, Allison DB (tháng 11 năm 2006). “Putative contributors to the secular increase in obesity: exploring the roads less traveled”. International Journal of Obesity (Review). 30 (11): 1585–1594. doi:10.1038/sj.ijo.0803326. PMID 16801930. S2CID 342831.
  106. ^ McAllister, Emily J và cộng sự. "Ten putative contributors to the obesity epidemic". Critical reviews in food science and nutrition vol. 49,10 (2009): 868-913. doi:10.1080/10408390903372599
  107. ^ Schwartz MW, Seeley RJ, Zeltser LM, Drewnowski A, Ravussin E, Redman LM, Leibel RL (tháng 8 năm 2017). “Obesity Pathogenesis: An Endocrine Society Scientific Statement”. Endocrine Reviews (Professional society guidelines). 38 (4): 267–296. doi:10.1210/er.2017-00111. PMC 5546881. PMID 28898979.
  108. ^ a b c d e f “EarthTrends: Nutrition: Calorie supply per capita”. World Resources Institute. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  109. ^ Bojanowska E, Ciosek J (15 tháng 2 năm 2016). “Can We Selectively Reduce Appetite for Energy-Dense Foods? An Overview of Pharmacological Strategies for Modification of Food Preference Behavior”. Current Neuropharmacology. 14 (2): 118–42. doi:10.2174/1570159X14666151109103147. PMC 4825944. PMID 26549651.
  110. ^ “USDA: frsept99b”. United States Department of Agriculture. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
  111. ^ “Diet composition and obesity among Canadian adults”. Statistics Canada.
  112. ^ National Control for Health Statistics. “Nutrition For Everyone”. Centers for Disease Control and Prevention. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2008.
  113. ^ Marantz PR, Bird ED, Alderman MH (tháng 3 năm 2008). “A call for higher standards of evidence for dietary guidelines”. American Journal of Preventive Medicine. 34 (3): 234–40. doi:10.1016/j.amepre.2007.11.017. PMID 18312812.
  114. ^ Flegal KM, Carroll MD, Ogden CL, Johnson CL (tháng 10 năm 2002). “Prevalence and trends in obesity among US adults, 1999–2000”. JAMA. 288 (14): 1723–7. doi:10.1001/jama.288.14.1723. PMID 12365955.
  115. ^ Centers for Disease Control Prevention (CDC) (tháng 2 năm 2004). “Trends in intake of energy and macronutrients—United States, 1971–2000”. MMWR. Morbidity and Mortality Weekly Report. 53 (4): 80–2. PMID 14762332.
  116. ^ Caballero B (2007). “The global epidemic of obesity: an overview”. Epidemiologic Reviews. 29: 1–5. doi:10.1093/epirev/mxm012. PMID 17569676.
  117. ^ Mozaffarian D, Hao T, Rimm EB, Willett WC, Hu FB (tháng 6 năm 2011). “Changes in diet and lifestyle and long-term weight gain in women and men”. The New England Journal of Medicine (Meta-analysis). 364 (25): 2392–404. doi:10.1056/NEJMoa1014296. PMC 3151731. PMID 21696306.
  118. ^ Malik VS, Schulze MB, Hu FB (tháng 8 năm 2006). “Intake of sugar-sweetened beverages and weight gain: a systematic review”. The American Journal of Clinical Nutrition (Review). 84 (2): 274–88. doi:10.1093/ajcn/84.2.274. PMC 3210834. PMID 16895873.
  119. ^ Olsen NJ, Heitmann BL (tháng 1 năm 2009). “Intake of calorically sweetened beverages and obesity”. Obesity Reviews (Review). 10 (1): 68–75. doi:10.1111/j.1467-789X.2008.00523.x. PMID 18764885. S2CID 28672221.
  120. ^ Malik VS, Popkin BM, Bray GA, Després JP, Willett WC, Hu FB (tháng 11 năm 2010). “Sugar-sweetened beverages and risk of metabolic syndrome and type 2 diabetes: a meta-analysis”. Diabetes Care (Meta-analysis, Review). 33 (11): 2477–83. doi:10.2337/dc10-1079. PMC 2963518. PMID 20693348.
  121. ^ Wamberg L, Pedersen SB, Rejnmark L, Richelsen B (tháng 12 năm 2015). “Causes of Vitamin D Deficiency and Effect of Vitamin D Supplementation on Metabolic Complications in Obesity: a Review”. Current Obesity Reports. 4 (4): 429–40. doi:10.1007/s13679-015-0176-5. PMID 26353882. S2CID 809587.
  122. ^ Rosenheck R (tháng 11 năm 2008). “Fast food consumption and increased caloric intake: a systematic review of a trajectory towards weight gain and obesity risk”. Obesity Reviews (Review). 9 (6): 535–47. doi:10.1111/j.1467-789X.2008.00477.x. PMID 18346099. S2CID 25820487.
  123. ^ Lin BH, Guthrie J, Frazao E (1999). “Nutrient contribution of food away from home”. Trong Frazão E (biên tập). Agriculture Information Bulletin No. 750: America's Eating Habits: Changes and Consequences. Washington, DC: US Department of Agriculture, Economic Research Service. tr. 213–39. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  124. ^ Pollan M (22 tháng 4 năm 2007). “You Are What You Grow”. The New York Times. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2021.
  125. ^ Kopelman P, Caterson I (2005). “An overview of obesity management”. Trong Kopelman PG, Caterson ID, Stock MJ, Dietz WH (biên tập). Clinical obesity in adults and children: In Adults and Children. Blackwell Publishing. tr. 319–326 (324). ISBN 978-1-4051-1672-5.
  126. ^ Schieszer J. Metabolism alone doesn't explain how thin people stay thin. The Medical Post.
  127. ^ a b “Obesity and overweight”. World Health Organization. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
  128. ^ a b c “WHO | Physical Inactivity: A Global Public Health Problem”. World Health Organization. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2009.
  129. ^ a b Ness-Abramof R, Apovian CM (tháng 2 năm 2006). “Diet modification for treatment and prevention of obesity”. Endocrine (Review). 29 (1): 5–9. doi:10.1385/ENDO:29:1:135. PMID 16622287. S2CID 31964889.
  130. ^ a b Salmon J, Timperio A (2007). “Prevalence, Trends and Environmental Influences on Child and Youth Physical Activity”. Pediatric Fitness (Review). Medicine and Sport Science. 50. tr. 183–99. doi:10.1159/000101391. ISBN 978-3-318-01396-2. PMID 17387258.
  131. ^ Borodulin K, Laatikainen T, Juolevi A, Jousilahti P (tháng 6 năm 2008). “Thirty-year trends of physical activity in relation to age, calendar time and birth cohort in Finnish adults”. European Journal of Public Health (Research Support). 18 (3): 339–44. doi:10.1093/eurpub/ckm092. PMID 17875578.
  132. ^ Brownson RC, Boehmer TK, Luke DA (2005). “Declining rates of physical activity in the United States: what are the contributors?”. Annual Review of Public Health (Review). 26: 421–43. doi:10.1146/annurev.publhealth.26.021304.144437. PMID 15760296.
  133. ^ Wilks DC, Sharp SJ, Ekelund U, Thompson SG, Mander AP, Turner RM, Jebb SA, Lindroos AK (tháng 2 năm 2011). “Objectively measured physical activity and fat mass in children: a bias-adjusted meta-analysis of prospective studies”. PLOS ONE. 6 (2): e17205. Bibcode:2011PLoSO...617205W. doi:10.1371/journal.pone.0017205. PMC 3044163. PMID 21383837.
  134. ^ Gortmaker SL, Must A, Sobol AM, Peterson K, Colditz GA, Dietz WH (tháng 4 năm 1996). “Television viewing as a cause of increasing obesity among children in the United States, 1986–1990”. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine (Review). 150 (4): 356–62. doi:10.1001/archpedi.1996.02170290022003. PMID 8634729.
  135. ^ Vioque J, Torres A, Quiles J (tháng 12 năm 2000). “Time spent watching television, sleep duration and obesity in adults living in Valencia, Spain”. International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders (Research Support). 24 (12): 1683–8. doi:10.1038/sj.ijo.0801434. PMID 11126224. S2CID 26129544.
  136. ^ Tucker LA, Bagwell M (tháng 7 năm 1991). “Television viewing and obesity in adult females”. American Journal of Public Health. 81 (7): 908–11. doi:10.2105/AJPH.81.7.908. PMC 1405200. PMID 2053671.
  137. ^ Emanuel EJ (2008). “Media + Child and Adolescent Health: A Systematic Review” (PDF). Common Sense Media. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2009.
  138. ^ Jones M. “Case Study: Cataplexy and SOREMPs Without Excessive Daytime Sleepiness in Prader Willi Syndrome. Is This the Beginning of Narcolepsy in a Five Year Old?”. European Society of Sleep Technologists. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2009.
  139. ^ Albuquerque D, Nóbrega C, Manco L, Padez C (tháng 9 năm 2017). “The contribution of genetics and environment to obesity”. British Medical Bulletin. 123 (1): 159–173. doi:10.1093/bmb/ldx022. PMID 28910990.
  140. ^ Poirier P, Giles TD, Bray GA, Hong Y, Stern JS, Pi-Sunyer FX, Eckel RH (tháng 5 năm 2006). “Obesity and cardiovascular disease: pathophysiology, evaluation, and effect of weight loss”. Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology (Review). 26 (5): 968–76. CiteSeerX 10.1.1.508.7066. doi:10.1161/01.ATV.0000216787.85457.f3. PMID 16627822. S2CID 6052584.
  141. ^ Loos RJ, Bouchard C (tháng 5 năm 2008). “FTO: the first gene contributing to common forms of human obesity”. Obesity Reviews (Review). 9 (3): 246–50. doi:10.1111/j.1467-789X.2008.00481.x. PMID 18373508. S2CID 23487924.
  142. ^ Yang W, Kelly T, He J (2007). “Genetic epidemiology of obesity”. Epidemiologic Reviews (Review). 29: 49–61. doi:10.1093/epirev/mxm004. PMID 17566051.
  143. ^ Walley AJ, Asher JE, Froguel P (tháng 7 năm 2009). “The genetic contribution to non-syndromic human obesity”. Nature Reviews. Genetics (Review). 10 (7): 431–42. doi:10.1038/nrg2594. PMID 19506576. S2CID 10870369.
  144. ^ Farooqi S, O'Rahilly S (tháng 12 năm 2006). “Genetics of obesity in humans”. Endocrine Reviews (Review). 27 (7): 710–18. doi:10.1210/er.2006-0040. PMID 17122358.
  145. ^ Kolata G (2007). Rethinking thin: The new science of weight loss – and the myths and realities of dieting. Picador. tr. 122. ISBN 978-0-312-42785-6.
  146. ^ Walley AJ, Asher JE, Froguel P (tháng 7 năm 2009). “The genetic contribution to non-syndromic human obesity”. Nature Reviews. Genetics (Review). 10 (7): 431–42. doi:10.1038/nrg2594. PMID 19506576. S2CID 10870369. However, it is also clear that genetics greatly influences this situation, giving individuals in the same 'obesogenic' environment significantly different risks of becoming obese.
  147. ^ Rosén T, Bosaeus I, Tölli J, Lindstedt G, Bengtsson BA (tháng 1 năm 1993). “Increased body fat mass and decreased extracellular fluid volume in adults with growth hormone deficiency”. Clinical Endocrinology. 38 (1): 63–71. doi:10.1111/j.1365-2265.1993.tb00974.x. PMID 8435887. S2CID 25725625.
  148. ^ Zametkin AJ, Zoon CK, Klein HW, Munson S (tháng 2 năm 2004). “Psychiatric aspects of child and adolescent obesity: a review of the past 10 years”. Journal of the American Academy of Child and Adolescent Psychiatry (Review). 43 (2): 134–50. doi:10.1097/00004583-200402000-00008. PMID 14726719.
  149. ^ Chiles C, van Wattum PJ (2010). “Psychiatric aspects of the obesity crisis”. Psychiatr Times. 27 (4): 47–51.
  150. ^ Yach D, Stuckler D, Brownell KD (tháng 1 năm 2006). “Epidemiologic and economic consequences of the global epidemics of obesity and diabetes”. Nature Medicine. 12 (1): 62–6. doi:10.1038/nm0106-62. PMID 16397571. S2CID 37456911.
  151. ^ Sobal J, Stunkard AJ (tháng 3 năm 1989). “Socioeconomic status and obesity: a review of the literature”. Psychological Bulletin (Review). 105 (2): 260–75. doi:10.1037/0033-2909.105.2.260. PMID 2648443.
  152. ^ a b McLaren L (2007). “Socioeconomic status and obesity”. Epidemiologic Reviews (Review). 29: 29–48. doi:10.1093/epirev/mxm001. PMID 17478442.
  153. ^ a b Wilkinson R, Picket K (2009). The Spirit Level: Why More Equal Societies Almost Always Do Better. London: Allen Lane. tr. 91–101. ISBN 978-1-84614-039-6.
  154. ^ Christakis NA, Fowler JH (tháng 7 năm 2007). “The spread of obesity in a large social network over 32 years”. The New England Journal of Medicine (Research Support). 357 (4): 370–9. CiteSeerX 10.1.1.581.4893. doi:10.1056/NEJMsa066082. PMID 17652652. S2CID 264194973.
  155. ^ Björntorp P (tháng 5 năm 2001). “Do stress reactions cause abdominal obesity and comorbidities?”. Obesity Reviews. 2 (2): 73–86. doi:10.1046/j.1467-789x.2001.00027.x. PMID 12119665. S2CID 23665421.
  156. ^ Goodman E, Adler NE, Daniels SR, Morrison JA, Slap GB, Dolan LM (tháng 8 năm 2003). “Impact of objective and subjective social status on obesity in a biracial cohort of adolescents”. Obesity Research (Research Support). 11 (8): 1018–26. doi:10.1038/oby.2003.140. PMID 12917508.
  157. ^ Flegal KM, Troiano RP, Pamuk ER, Kuczmarski RJ, Campbell SM (tháng 11 năm 1995). “The influence of smoking cessation on the prevalence of overweight in the United States”. The New England Journal of Medicine. 333 (18): 1165–70. doi:10.1056/NEJM199511023331801. PMID 7565970.
  158. ^ Chiolero A, Faeh D, Paccaud F, Cornuz J (tháng 4 năm 2008). “Consequences of smoking for body weight, body fat distribution, and insulin resistance”. The American Journal of Clinical Nutrition (Review). 87 (4): 801–9. doi:10.1093/ajcn/87.4.801. PMID 18400700.
  159. ^ Weng HH, Bastian LA, Taylor DH, Moser BK, Ostbye T (2004). “Number of children associated with obesity in middle-aged women and men: results from the health and retirement study”. Journal of Women's Health (Comparative Study). 13 (1): 85–91. doi:10.1089/154099904322836492. PMID 15006281.
  160. ^ Bellows-Riecken KH, Rhodes RE (tháng 2 năm 2008). “A birth of inactivity? A review of physical activity and parenthood”. Preventive Medicine (Review). 46 (2): 99–110. doi:10.1016/j.ypmed.2007.08.003. PMID 17919713.
  161. ^ “Obesity and Overweight” (PDF). World Health Organization. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2009.
  162. ^ McCormack GR, Virk JS (tháng 9 năm 2014). “Driving towards obesity: a systematized literature review on the association between motor vehicle travel time and distance and weight status in adults”. Preventive Medicine. 66: 49–55. doi:10.1016/j.ypmed.2014.06.002. hdl:1880/115549. PMID 24929196. S2CID 12470420.
  163. ^ King DM, Jacobson SH (tháng 3 năm 2017). “What Is Driving Obesity? A Review on the Connections Between Obesity and Motorized Transportation”. Current Obesity Reports. 6 (1): 3–9. doi:10.1007/s13679-017-0238-y. PMID 28243840. S2CID 207474312.
  164. ^ a b Caballero B (tháng 3 năm 2001). “Introduction. Symposium: Obesity in developing countries: biological and ecological factors”. The Journal of Nutrition (Review). 131 (3): 866S–870S. doi:10.1093/jn/131.3.866s. PMID 11238776.
  165. ^ DiBaise JK, Zhang H, Crowell MD, Krajmalnik-Brown R, Decker GA, Rittmann BE (tháng 4 năm 2008). “Gut microbiota and its possible relationship with obesity”. Mayo Clinic Proceedings (Review). 83 (4): 460–9. doi:10.4065/83.4.460. PMID 18380992.
  166. ^ “Antibiotics: repeated treatments before the age of two could be a factor in obesity”. Prescrire International. 2018. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  167. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Cox2015
  168. ^ Falagas ME, Kompoti M (tháng 7 năm 2006). “Obesity and infection”. The Lancet. Infectious Diseases (Review). 6 (7): 438–46. doi:10.1016/S1473-3099(06)70523-0. PMID 16790384.
  169. ^ a b Cappuccio FP, Taggart FM, Kandala NB, Currie A, Peile E, Stranges S, Miller MA (tháng 5 năm 2008). “Meta-analysis of short sleep duration and obesity in children and adults”. Sleep. 31 (5): 619–626. doi:10.1093/sleep/31.5.619. PMC 2398753. PMID 18517032.
  170. ^ Miller MA, Kruisbrink M, Wallace J, Ji C, Cappuccio FP (tháng 4 năm 2018). “Sleep duration and incidence of obesity in infants, children, and adolescents: a systematic review and meta-analysis of prospective studies”. Sleep. 41 (4). doi:10.1093/sleep/zsy018. PMID 29401314.
  171. ^ Horne J (tháng 5 năm 2011). “Obesity and short sleep: unlikely bedfellows?”. Obesity Reviews. 12 (5): e84–e94. doi:10.1111/j.1467-789X.2010.00847.x. PMID 21366837. S2CID 23948346.
  172. ^ a b c d Gerlach G, Herpertz S, Loeber S (tháng 1 năm 2015). “Personality traits and obesity: a systematic review”. Obesity Reviews. 16 (1): 32–63. doi:10.1111/obr.12235. PMID 25470329. S2CID 46500679.
  173. ^ Lauder W, Mummery K, Jones M, Caperchione C (tháng 5 năm 2006). “A comparison of health behaviours in lonely and non-lonely populations”. Psychology, Health & Medicine. 11 (2): 233–245. doi:10.1080/13548500500266607. PMID 17129911. S2CID 24974378.
  174. ^ Jokela M, Hintsanen M, Hakulinen C, Batty GD, Nabi H, Singh-Manoux A, Kivimäki M (tháng 4 năm 2013). “Association of personality with the development and persistence of obesity: a meta-analysis based on individual-participant data”. Obesity Reviews. 14 (4): 315–323. doi:10.1111/obr.12007. PMC 3717171. PMID 23176713.
  175. ^ An R, và đồng nghiệp (tháng 7 năm 2019). “Trade openness and the obesity epidemic: a cross-national study of 175 countries during 1975-2016”. Annals of Epidemiology. 37: 31–36. doi:10.1016/j.annepidem.2019.07.002. PMID 31399309.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]