Hervé Renard

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Hervé Renard
Renard với tư cách huấn luyện viên Maroc tại FIFA World Cup 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Hervé Jean-Marie Roger Renard[1]
Ngày sinh 30 tháng 9, 1968 (55 tuổi)
Nơi sinh Aix-les-Bains, Pháp
Vị trí Hậu vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
Pháp (nữ) (huấn luyện viên)
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1983–1990 Cannes 87 (0)
1991–1997 Stade de Vallauris (fr) 105 (2)
1997–1998 SC Draguignan 23 (1)
Tổng cộng 215 (3)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
1999–2001 SC Draguignan
2004 Cambridge United
2004 Nam Định
2005–2007 AS Cherbourg
2008–2010 Zambia
2010 Angola
2011 USM Alger
2011–2013 Zambia
2013–2014 Sochaux
2014–2015 Bờ Biển Ngà
2015 Lille
2016–2019 Maroc
2019–2023 Ả Rập Xê Út
2023– Pháp (nữ)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Africa Cup of Nations
Đại diện cho  Zambia (huấn luyện viên)
Vô địch 2012
Đại diện cho  Bờ Biển Ngà (huấn luyện viên)
Vô địch 2015
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Hervé Jean-Marie Roger Renard (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1968) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp, hiện là huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp.

Renard trước đây đã từng là huấn luyện viên của Đội tuyển quốc gia Zambia, đội mà ông đã giành được Cúp bóng đá châu Phi 2012; ông cũng đã vô địch giải đấu năm 2015 với Bờ Biển Ngà, trở thành huấn luyện viên đầu tiên giành được hai Cúp bóng đá châu Phi với các đội bóng khác nhau. Ngoài ra, ông đã huấn luyện Maroc tại FIFA World Cup 2018. Năm 2019, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Ả Rập Xê Út.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Hervé Jean-Marie Roger Renard[1] sinh ngày 30 tháng 9 năm 1968 tại Aix-les-Bains, Auvergne-Rhône-Alpes.[2]

Sự nghiệp cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra ở Aix-les-Bains, Renard thi đấu ở vị trí hậu vệ cho các đội bóng Pháp AS Cannes, Stade de VallaurisSC Draguignan trong sự nghiệp thi đấu kéo dài từ 1983 đến 1998.[cần dẫn nguồn] Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ chuyên nghiệp, ông làm công việc dọn dẹp, làm việc ở đó vào buổi sáng và tập luyện với Draguignan vào buổi tối, cuối cùng ông thành lập công ty dọn dẹp của riêng mình.[3]

Sự nghiệp huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]

USM Alger[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiệm kỳ thứ hai với Zambia[sửa | sửa mã nguồn]

Sochaux[sửa | sửa mã nguồn]

Bờ Biển Ngà[sửa | sửa mã nguồn]

Lille[sửa | sửa mã nguồn]

Renard trở thành huấn luyện viên của câu lạc bộ Pháp Lille vào tháng 5 năm 2015.[4] Vào ngày 11 tháng 11 năm 2015, ông bị sa thải sau khi chỉ giành được 13 điểm sau 13 trận tại giải VĐQG.[5]

Maroc[sửa | sửa mã nguồn]

Ả Rập Xê Út[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển nữ Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 3 năm 2023, Renard được mời làm huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp sau khi Corinne Diacre bị sa thải.[6] Vào ngày 29 tháng 3, Liên đoàn bóng đá Ả Rập Xê Út đã chấp nhận đơn từ chức của Renard để bắt đầu nhiệm kỳ huấn luyện viên đội tuyển nữ Pháp.[7] Vào ngày 30 tháng 3, Renard chính thức trở thành huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia nữ Pháp, kế nhiệm Diacre với hợp đồng kéo dài đến tháng 8 năm 2024.[8] Ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị đội cho 2023 FIFA Women's World Cup giữa những thay đổi và xung đột của người chơi, đặc biệt là với việc quản lý.[9]

Renard trở thành huấn luyện viên đầu tiên huấn các đội ở hai kỳ World Cup cấp cao khác nhau trong cùng một năm.[9] Vào ngày 29 tháng 7, ông trở thành huấn luyện viên đầu tiên giành chiến thắng trong một trận đấu ở cả hai kỳ World Cup nam và nữ sau khi Pháp đánh bại Brasil ở vòng bảng.[10]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Renard đang có mối quan hệ với Viviane Dièye, góa phụ của huấn luyện viên Bruno Metsu.[11]

Ông bà ngoại của ông đến từ Ba Lan.[12]

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Owsianski, Jaroslaw; Di Maggio, Roberto (29 tháng 12 năm 2022). “World Cup 1930–2022 – Info on Coaches”. RSSSF. Truy cập 8 Tháng sáu năm 2023.
  2. ^ “Hervé Renard”. L'Équipe (bằng tiếng Pháp). Paris. Truy cập 3 tháng Bảy năm 2022.
  3. ^ “My journey from binman to cup-winning coach”. BBC News.
  4. ^ “Former Ivory Coast boss Herve Renard joins Lille as coach”. BBC Sport. 25 tháng 5 năm 2015. Truy cập 26 tháng Năm năm 2015.
  5. ^ “Lille part ways with coach Herve Renard after only six months”. FOX Sports. Truy cập 11 Tháng mười một năm 2015.
  6. ^ “Hervé Renard intéressé par les Bleues, mais toujours sous contrat avec l'Arabie saoudite”. L'Équipe.
  7. ^ “Hervé Renard quits Saudi Arabia to lead France at Women's World Cup”. The Guardian. 29 tháng 3 năm 2023.
  8. ^ “Hervé Renard officiellement nommé sélectionneur des Bleues” [Hervé Renard officially named Les Bleues coach] (bằng tiếng Pháp). L'Équipe. 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập 30 Tháng Ba năm 2023.
  9. ^ a b Panja, Tariq (22 tháng 7 năm 2023). “Can This Man Fix France's Women's Team?”. The New York Times. Truy cập 29 tháng Bảy năm 2023.
  10. ^ Harrington, Anna (29 tháng 7 năm 2023). “Renard inspires France past Brazil at World Cup”. Yahoo! Sport. Australian Associated Press. Bản gốc lưu trữ 30 tháng Bảy năm 2023. Truy cập 29 tháng Bảy năm 2023.
  11. ^ “Hervé Renard et Viviane Dièye, la veuve de Metsu, la nouvelle romance”. leral.net (bằng tiếng Pháp). 24 tháng 4 năm 2018.
  12. ^ Pobożniak, Jakub (1 tháng 4 năm 2022). “Selekcjoner Arabii: moi dziadkowie to Polacy. Mama jest szczęśliwa”. sport.tvp.pl.

Bản mẫu:Huấn luyện viên hiện tại của các đội tuyển quốc gia nữ của UEFA Bản mẫu:Huấn luyện viên vô địch Cúp bóng đá châu Phi