Bước tới nội dung

OGC Nice

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nice
Tập tin:OGC Nice logo.svg
Tên đầy đủOlympique Gymnaste Club de Nice
Biệt danhLes Aiglons (Đại bàng)[1]
Le Gym (Phòng gym)
Thành lập9 tháng 7 năm 1904; 120 năm trước (1904-07-09)
SânAllianz Riviera
Sức chứa36.178[2]
Chủ sở hữuIneos
Chủ tịchJean-Pierre Rivère
Huấn luyện viên trưởngFranck Haise
Giải đấuLigue 1
2023–24Ligue 1, 5 trên 18
Trang webTrang web của câu lạc bộ
Mùa giải hiện nay

Olympique Gymnaste Club de Nice (phát âm tiếng Pháp: ​[ɔlɛ̃pik ʒimnast klœb də nis]), thường được gọi là OGC Nice hoặc đơn giản là Nice, là một câu lạc bộ bóng đá Pháp có trụ sở tại Nice. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1904 và hiện đang chơi ở Ligue 1, giải đấu hàng đầu của bóng đá Pháp. Nice chơi các trận đấu trên sân nhà tại Allianz Riviera.

Nice được thành lập dưới cái tên Câu lạc bộ thể dục Nice và là một trong những thành viên sáng lập của bộ phận đầu tiên của bóng đá Pháp. Câu lạc bộ đã bốn lần vô địch Ligue 1 và giành Coupe de France ba lần. Nice đã đạt được hầu hết các danh hiệu của mình trong những năm 1950 với câu lạc bộ được quản lý bởi các huấn luyện viên như Numa Andoire, người Anh William Berry và Jean Luciano. Vinh quang cuối cùng của câu lạc bộ là chiến thắng Coupe de France năm 1997 sau khi đánh bại Guingamp 4-3 trên chấm phạt đền trong trận chung kết. Màu sắc chính là đỏ và đen.

Trong thời gian hoạt động thành công của câu lạc bộ vào những năm 1950, Nice là một trong những câu lạc bộ đầu tiên của Pháp tích hợp thành công các cầu thủ quốc tế vào thế giới. Những cầu thủ đáng chú ý bao gồm Héctor De Bour gửi, Pancho Gonzales, Victor Nurenberg và Joaquín Valle, sau này là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của câu lạc bộ và là cầu thủ vĩ đại nhất.[3]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Gymnaste Club 'Azur được thành lập tại khu dân cư Les Baumettes vào ngày 9 tháng 7 năm 1904 dưới tên Câu lạc bộ Thể dục. Câu lạc bộ được thành lập bởi Marquis de Massengy Keyboarduzac, người từng là chủ tịch của Fédération Sportive des Alpes-Maritimes (Liên đoàn thể thao Alpes-Maritimes). Akin với tên của nó, câu lạc bộ chủ yếu tập trung vào các môn thể thao thể dục dụng cụ và điền kinh. Vào ngày 6 tháng 7 năm 1908, trong nỗ lực duy trì liên kết với FSAM và cũng tham gia giải nghiệp dư USFSA, đội đứng đầu bóng đá Pháp vào thời điểm đó, Câu lạc bộ Thể dục de Nice đã chia thành hai phần với phần mới của câu lạc bộ được đặt tên là Thể dục dụng cụ Amateurs Câu lạc bộ de Nice. Phần mới sinh ra một câu lạc bộ bóng đá và sau hai mùa giải, hai câu lạc bộ đã hợp nhất. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1919, Nice sáp nhập với câu lạc bộ địa phương Câu lạc bộ bóng đá Gallia và sau đó, đã thông qua sự kết hợp màu đỏ và đen của câu lạc bộ. Vào năm 1920, câu lạc bộ đã chơi ở Ligue du Sud-Est, một giải đấu khu vực dưới sự theo dõi của Liên đoàn bóng đá Pháp. Trong khi chơi ở giải đấu, Nice đã phát triển sự cạnh tranh với Cannes và Marseille. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1924, câu lạc bộ đổi tên thành Olympique Gymnaste Club de Nice.

Vào tháng 7 năm 1930, Hội đồng Quốc gia Liên đoàn bóng đá Pháp đã bầu 128-20 để ủng hộ sự chuyên nghiệp trong bóng đá Pháp. Nice, cùng với hầu hết các câu lạc bộ từ miền Nam nước Pháp, là một trong những câu lạc bộ đầu tiên áp dụng đạo luật mới và sau đó trở nên chuyên nghiệp và là thành viên sáng lập của giải đấu mới. Trong mùa khai mạc của giải đấu, Nice đã đứng vị trí thứ bảy trong nhóm của nó. Ở mùa giải tiếp theo, Nice kết thúc thứ 13 và bị rớt khỏi giải đấu. Câu lạc bộ đã không chơi bóng đá giải đấu trong mùa giải tiếp theo và trở lại với bóng đá Pháp vào năm 1936 chơi ở Giải hạng 2. Nice đã dành ba năm tiếp theo để chơi trong giải hạng hai. Năm 1939, bóng đá chuyên nghiệp ở Pháp bị bãi bỏ do Thế chiến II. Tuy nhiên, Nice tiếp tục chơi bóng đá giải đấu trong tình trạng nghiệp dư với câu lạc bộ tham gia Ligue du Sud-Est vào năm 1939 và Ligue du Sud trong các mùa giải tiếp theo.

Sau Thế chiến II, Nice trở lại vị thế chuyên nghiệp và được đưa trở lại phân khu thứ hai. Câu lạc bộ đã đạt được sự thăng hạng trở lại bộ phận đầu tiên cho mùa giải 1948-49 dưới sự lãnh đạo của người quản lý người Áo Anton Marek. Sau hai mùa giải kết thúc trong top 10, Nice, hiện do người quản lý Jean Lardi dẫn đầu, đã đạt được vinh dự đầu tiên bằng cách giành chức vô địch trong mùa giải 1950-51. Được dẫn dắt bởi các cầu thủ quốc tế người Pháp Marcel Domingo, Antoine Bonifaci, Abdelaziz Ben Tifour, và Jean Courteaux, cũng như bộ đôi người Argentina của Pancho Gonzales và Luis Carniglia và người Thụy Điển Pär Bengtsson, Nice đã giành chiến thắng với điểm số tương đương với Lille. Nice được tuyên bố là nhà vô địch do có nhiều chiến thắng (18) hơn so với Lille (17).[4] Ở mùa giải tiếp theo, dưới sự quản lý mới của Numa Andoire, Nice đã giành được cú đúp sau khi chiến thắng cả giải đấu và Coupe de France. Trong giải đấu, câu lạc bộ đã bảo vệ danh hiệu của mình bằng cách cầm hòa cả Bordeaux và Lille. Trong trận chung kết Coupe de France, Nice đối mặt với Bordeaux và đánh bại câu lạc bộ đến từ Aquitaine 5-3 nhờ các bàn thắng của năm cầu thủ khác nhau.

Nice tiếp tục hoạt động vững chắc trong thập kỷ bằng chiến thắng Coupe de France lần thứ hai vào năm 1954. Câu lạc bộ, đang được dẫn dắt bởi Just Fontaine trẻ tuổi và vô danh, đã đối mặt với các đối thủ phía nam Marseille và giành chiến thắng 2-1 với Victor Nuremberg và Carniglia ghi bàn. Carniglia đã giải nghệ sau mùa giải và bắt đầu quản lý Nice. Trong mùa giải đầu tiên của mình, Nice đã vô địch lần thứ ba sau khi bị các đối thủ của Marseille và Monaco, cũng như Lens và Saint-Étienne theo đuổi trong cả mùa giải. Sau mùa giải, Fontaine rời câu lạc bộ để đến Stade de Reims. Ba mùa sau, Nice giành được danh hiệu cuối cùng của thập kỷ vào năm 1959. Câu lạc bộ kết thúc thập kỷ (1950-1959) với bốn danh hiệu giải đấu và hai danh hiệu Coupe de France. Nice cũng xuất hiện trong cuộc cạnh tranh châu Âu lần đầu tiên trong mùa giải 1956-1957, thua Real Madrid ở tứ kết.

Trong những thập kỷ tiếp theo, Nice đã đấu tranh để cân bằng thành công của những năm 1950 với Reims và sau đó, Saint-Étienne làm lu mờ câu lạc bộ trong những năm 1960 và 70. Trong thời gian này, Nice thường xuyên thi đấu ở Giải hạng 1 ngoại trừ hai mùa ở Giải hạng 2 vào năm 1965 và 1970. Vào năm 1973 và 1976, Nice đã đạt được vị trí thứ hai trong giải đấu, kết thúc tốt nhất kể từ khi vô địch giải đấu năm 1959. Tuy nhiên, sau khi kết thúc sau đó, câu lạc bộ đã kết thúc ở vị trí thấp hơn trong sáu mùa giải tiếp theo và bị xuống hạng trong mùa giải 1981-82 sau khi kết thúc thứ 19. Nice đã chơi ba mùa ở giải hạng hai trước khi trở lại giải đấu hàng đầu năm 1985. Sau sáu mùa giải kết thúc giữa bảng xếp hạng, Nice đã trở lại Giải hạng 2.

Frédéric Antonetti đã dẫn dắt Nice đến trận chung kết Coupe de la Ligue năm 2006.

Năm 1997, Nice, bây giờ trở lại trong giải đấu cao nhất, đã làm choáng váng nhiều người sau khi giành được Coupe de France. Tuy nhiên, chiến thắng không gây sốc cho hầu hết những người đam mê bóng đá Pháp, chủ yếu là do sự cạnh tranh của câu lạc bộ trong trận chung kết mà Nice chỉ phải đối mặt với các câu lạc bộ Giải hạng 2, duy nhất câu lạc bộ ở giải cao nhất Bastia. Trong trận chung kết, Nice đã đánh bại Guingamp 5-4 trên chấm phạt đền để kiếm cúp thành công. Trong một lưu ý chua chát, Nice đã xuống hạng từ giải hạng nhất chỉ vài ngày sau khi giành được Coupe de France vào ngày cuối cùng trong giải đấu. Câu lạc bộ đã trải qua năm mùa giải ở Ligue 2 và trở lại Ligue 1 cho mùa giải 2001-02. Trước mùa giải, Nice đã không đáp ứng các yêu cầu tài chính do DNCG đặt ra và sau đó bị xuống hạng Championnat National, cấp độ thứ ba của bóng đá Pháp. Tuy nhiên, sau khi đạt được sự ổn định, chủ yếu là do bán một vài cầu thủ, Nice đã được cho phép ở Ligue 1 sau khi kháng cáo thành công. Trong mùa giải 2005-06, Nice đã lọt vào trận chung kết Coupe de la Ligue năm 2006, để thua Nancy 2-1.

Năm 2016, một tập đoàn Trung Quốc và Hoa Kỳ do Chiến Lee và Alex Zheng lãnh đạo đã mua 80% câu lạc bộ.[5] Trong mùa giải 2016-17 Ligue 1, Nice đứng thứ ba trong bảng xếp hạng cuối cùng và đủ điều kiện cho vòng thứ ba của UEFA Champions League.[6]

Vào ngày 11 tháng 6 năm 2018, Patrick Vieira được công bố là người quản lý Nice, thay thế Lucien Favre.[7] Mùa giải 2018/2019, Nice kết thúc ở vị trí thứ 7 trên BXH.[8]

Sân vận động

[sửa | sửa mã nguồn]
Nice chuyển đến Allianz Riviera vào tháng 9 năm 2013

Từ năm 1927 đến năm 2013, Nice đã chơi các trận đấu trên sân nhà tại Stade Municipal du Ray, thường được rút ngắn thành đơn giản là Stade du Ray. Sân vận động, tuy nhiên, chính thức được gọi là Stade Léo-Lagrange, được đặt theo tên của một chính trị gia người Pháp có một vị trí chính trị như là trợ lý bộ trưởng ngoại giao cho thể thao. Stade du Ray đã trải qua nhiều lần cải tạo, gần đây nhất là vào năm 1997 và có sức chứa 17.415. Sân vận động nổi tiếng với những cổ động viên vì nằm ở trung tâm thành phố, nhưng phải chịu cấu trúc cũ và sức chứa nhỏ, vì khu vực đô thị Nice có hơn một triệu cư dân.

Nice bắt đầu cố gắng xây dựng một sân vận động mới vào năm 2002. Trong nỗ lực đầu tiên, câu lạc bộ đã bị chỉ trích nặng nề bởi các chính trị gia địa phương, những người đặt câu hỏi về tính hữu dụng và định dạng của sân vận động. Mặc dù chỉ trích, tuy nhiên, đề xuất của câu lạc bộ đã thông qua và khai quật địa điểm ở đồng bằng Var, tại Nice-Lingostière, bắt đầu vào tháng 7 năm 2006. Chính quyền Tòa án của Nice đã hủy bỏ dự án vì những bất thường đã cam kết liên quan đến việc ấn định giá vé. Vào tháng 10 năm 2008, phó thị trưởng mới của Nice, Christian Estrosi, tuyên bố rằng Nice sẽ có một sân vận động mới "không muộn hơn 2013". Sân vận động mới sẽ được xây dựng tại cùng một nơi như trước đây, tại Nice-Lingostière.

Vào ngày 22 tháng 9 năm 2009, tờ báo L'Équipe của Pháp đưa tin Grand Stade Nice đã được Liên đoàn bóng đá Pháp (FFF) chọn là 1 trong số 12 sân vận động được sử dụng để đấu thầu UEFA Euro 2016. FFF chính thức đưa ra lựa chọn vào ngày 11 tháng 11 năm 2009 và thành phố Nice được chọn là nơi tổ chức các trận đấu trong suốt giải đấu.[9] Việc xây dựng Allianz Riviera bắt đầu vào năm 2011 và hoàn thành vào tháng 9 năm 2013.

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình hiện tại

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 2/9/2024.[10]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
1 TM Ba Lan Marcin Bułka
2 HV Tunisia Ali Abdi
4 HV Brasil Dante (đội trưởng)
5 HV Ai Cập Mohamed Abdelmonem
7 Bờ Biển Ngà Jérémie Boga
8 TV Hà Lan Pablo Rosario
9 Nigeria Terem Moffi
10 Maroc Sofiane Diop
11 TV Pháp Morgan Sanson
15 Đức Youssoufa Moukoko (mượn từ Borussia Dortmund)
18 TV România Rareș Ilie
19 TV Algérie Badredine Bouanani
22 TV Pháp Tanguy Ndombele
Số VT Quốc gia Cầu thủ
24 Pháp Gaëtan Laborde
25 Pháp Mohamed-Ali Cho
26 HV Pháp Melvin Bard
28 TV Algérie Hicham Boudaoui
29 Bờ Biển Ngà Evann Guessand
31 TM Pháp Maxime Dupé
32 TV Pháp Tom Louchet
33 HV Pháp Antoine Mendy
44 HV Pháp Amidou Doumbouya
45 Nigeria Victor Orakpo
55 HV Burundi Youssouf Ndayishimiye
64 HV Canada Moïse Bombito
92 HV Pháp Jonathan Clauss

Cho mượn

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
HV Maroc Ayoub Amraoui (tại Martigues đến 30/6/2025)
HV Pháp Jean-Clair Todibo (tại West Ham United đến 30/6/2025)
HV Ý Mattia Viti (tại Empoli đến 30/6/2025)
Số VT Quốc gia Cầu thủ
TV Algérie Billal Brahimi (tại Sint-Truiden đến 30/6/2025)
Guinée Aliou Baldé (tại VfL Bochum đến 30/6/2025)

Đội dự bị

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến mùa giải 2022–23[11]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
33 HV Pháp Antoine Mendy
34 HV Pháp Yannis Nahounou
37 TV Pháp Reda Belahyane
TM Cameroon Jacques Mbiandjeu
TM Bồ Đào Nha Henrique Tavares
HV Pháp Nathanaёl Abiba Sefu
HV Pháp Maёl Caisson
HV Bỉ Ardjouma Junior Diomandé
HV Pháp Belele Houimel
HV Pháp Yannis Peyaud
TV Angola Joao Beni Antonio
Số VT Quốc gia Cầu thủ
TV Bồ Đào Nha André Cabral
TV Pháp Jawad Dramé
TV Pháp Soudeysse Kari
TV Pháp Tom Louchet
TV Pháp Aziard M'Changama
TV Pháp Théo Trinker
TV Pháp Paul Wade
Pháp Karim Belmahi
Pháp Lorenzo Depuidt
Pháp Timothé Trojani
Pháp Kharvarn Williams

Cựu cầu thủ nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là những cựu cầu thủ đáng chú ý đã đại diện cho Nice ở giải vô địch quốc gia và thi đấu quốc tế kể từ khi câu lạc bộ được thành lập vào năm 1904. Để xuất hiện trong phần bên dưới, một cầu thủ phải thi đấu ít nhất 100 trận chính thức cho câu lạc bộ.

Để biết danh sách đầy đủ các cầu thủ OGC Nice, xem Thể loại:Cầu thủ bóng đá OGC Nice

Trong nước

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ligue 1
    • Vô địch (4): 1950- 51, 1951-52, 1955-56, 1958-59
  • Ligue 2
    • Vô địch (4): 1947-48, 1964-65, 1969-70, 1993-94
  • Phân khu 3
    • Vô địch (2): 1985, 1989
  • Coupe de Pháp
    • Vô địch (3): 1952, 1954, 1997
    • Á quân (1): 1978
  • Coupe de la Ligue
    • Á quân (1): 2006
  • Coupe Charles Drago
    • Á quân (1): 1958
  • Cúp Latin
    • Á quân (1): 1952
  • Coupe Mohamed V
    • Á quân (1): 1976

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “#137 – OGC Nice : les Aiglons” (bằng tiếng Pháp). Footnickname. 27 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng mười hai năm 2021. Truy cập 22 Tháng mười hai năm 2021.
  2. ^ “OGC Nice Stadium - Allianz Riviera”. Bản gốc lưu trữ 28 Tháng mười hai năm 2017. Truy cập 14 Tháng mười hai năm 2021.
  3. ^ “Joaquin Valle Benitez: 339 buts en 407 matchs avec le Gym” (bằng tiếng Pháp). OGC Nice. Bản gốc lưu trữ 26 tháng Bảy năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  4. ^ “Champion de France 1951” (bằng tiếng Pháp). OGC Nice. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  5. ^ Frater, Patrick (ngày 11 tháng 6 năm 2016). “Chinese Investors Buy French Soccer Club OGC Nice”. Variety. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
  6. ^ CNN, Matias Grez and Stef Blendis. “OGC Nice: From Ligue 1 strugglers to Champions League challengers”. cnn.com. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  7. ^ “Patrick Vieira named new Nice manager after leaving New York City FC”. the Guardian. Truy cập 11 tháng 9 năm 2024.
  8. ^ “Arsenal news: Patrick Vieira flattered by Arsene Wenger's future Gunners manager comment”. The Independent.
  9. ^ “Les 12 villes retenues” (PDF). French Football Federation. Bản gốc (PDF) lưu trữ 3 Tháng Ba năm 2016. Truy cập 30 tháng Năm năm 2019.
  10. ^ “Effectif pros” [Đội hình chuyên nghiệp]. OGC Nice. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng tám năm 2024. Truy cập 19 Tháng tám năm 2024.
  11. ^ “EFFECTIF CFA”. ogcnice.com. Lưu trữ bản gốc 21 tháng Mười năm 2021. Truy cập 4 tháng Mười năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]