Khác biệt giữa bản sửa đổi của “243 Ida”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 25: Dòng 25:
| rotation = {{convert|4,63|h|d}}<ref name="8enwikiref">{{harvnb|Vokrouhlicky|Nesvorny|Bottke|2003|p=147}}</ref>
| rotation = {{convert|4,63|h|d}}<ref name="8enwikiref">{{harvnb|Vokrouhlicky|Nesvorny|Bottke|2003|p=147}}</ref>
| surface_grav = 0.3—1.1&nbsp;cm/s<sup>2</sup><ref name="7enwikiref">{{harvnb|Thomas et al.|1996}}</ref>
| surface_grav = 0.3—1.1&nbsp;cm/s<sup>2</sup><ref name="7enwikiref">{{harvnb|Thomas et al.|1996}}</ref>
| density = 2.6 ± 0.5&nbsp;g/cm<sup>3</sup><ref>{{chú thích tạp chí|bibcode=1995Natur.374..785B|doi=10.1038/374785a0|year=1995|tạp chí=Nature|volume=374|issue=6525|pages=785–788|tựa đề=Bulk density of asteroid 243 Ida from the orbit of its satellite Dactyl|last1=Belton|first1=M. J. S.|last2=Chapman|first2=C. R.|last3=Thomas|first3=P. C.|author4=M. E. Davies|author5=R. Greenberg|author6=K. Klaasen|author7=D. Byrnes|author8=L. D'Amario|author9=S. Synnott|author10=T. V. Johnson|author11=A. McEwen|author12=J. W. Merline|author13=D. R. Davis|author14=J. M. Petit|author15=A. Storrs|author16=J. Veverka|author17=B. Zellner}}</ref>
| density = 2.6 ± 0.5&nbsp;g/cm<sup>3</sup>
| mass = 4.2 ± 0.6 × 10<sup>16</sup>&nbsp;kg<ref name="5enwikiref"/>
| mass = 4.2 ± 0.6 × 10<sup>16</sup>&nbsp;kg<ref name="5enwikiref"/>
| mean_radius = 15.7&nbsp;km<ref name="5enwikiref">{{harvnb|Britt|Yeomans|Housen|Consonmagno|2002|p=486}}</ref>
| mean_radius = 15.7&nbsp;km<ref name="5enwikiref">{{harvnb|Britt|Yeomans|Housen|Consonmagno|2002|p=486}}</ref>

Phiên bản lúc 00:47, ngày 26 tháng 1 năm 2017

243 Ida
Hình ảnh của 243 Ida, bên phải nó là mặt trăng (vệ tinh) của nó, Dactyl
Khám phá[1]
Khám phá bởiJohann Palisa
Nơi khám pháViên, Áo
Ngày phát hiện29 tháng 9, 1884
Tên định danh
Vành đai chính (Họ Koronis)[2]
Tính từIndea
Đặc trưng quỹ đạo[3]
Kỷ nguyên JD 2.457.600,5
Điểm viễn nhật2.979 đơn vị thiên văn (4,457×1014 m)
Điểm cận nhật2.743 đơn vị thiên văn (4,103×1014 m)
2.681 đơn vị thiên văn (4,011×1014 m)
Độ lệch tâm0.0411
1.767.644 ngày (4.839,55 a)
0.2036°/d
38.707°
Độ nghiêng quỹ đạo1.132°
324.016°
110.961°
Vệ tinh đã biếtDactyl
Đặc trưng vật lý
Kích thước59.8 × 25.4 × 18.6 km[4]
Bán kính trung bình
15.7 km[5]
Khối lượng4.2 ± 0.6 × 1016 kg[5]
Mật độ trung bình
2.6 ± 0.5 g/cm3[6]
0.3—1.1 cm/s2[7]
4,63 giờ (0,193 d)[8]
Xích kinh cực Bắc
168.76°[9]
Xích vĩ cực Bắc
-2.88°[9]
Suất phản chiếu0.2383[3]
Nhiệt độ200 K (−73 °C)[2]
Kiểu phổ
S[10]
9.94[3]

243 Ida (/ˈdə/) là một tiểu hành tinh thuộc họ Koronis nằm ở vành đai chính. Nó được phát hiện năm 1884 bởi nhà thiên văn học người Áo Johann Palisa. Tên của nó được đặt theo tên của một nữ thần trong thần thoại Hy Lạp. Vào ngày 28 tháng 8 năm 1993, 243 Ida đã được tàu vũ trụ không người lái Galileo bay ngang và thăm dò khi tàu Galileo đang thực hiện nhiệm vụ đến Sao Mộc. Chính tàu Galileo đã tìm ra vệ tinh tự nhiên của 243 Ida. Nó là tiểu hành tinh đầu tiên được phát hiện có vệ tinh tự nhiên.

Giống như các tiểu hành tinh khác trong vành đai chính, nó có quỹ đạo giữa sao Hỏa và sao Mộc. Quỹ đạo của nó dài 4,84 năm và chu kỳ tự quay là 4,63 giờ. 243 Ida có đường kính trung bình khoảng 31,4 km (19,5 dặm). Nó có một hình dạng bất thường, bề mặt của nó bị bắn phá rất nhiều, khiến nó cũng có nhiều hố núi lửa (hố thiên thạch).

Vệ tinh tự nhiên của nó, Dactyl được phát hiện qua những hình ảnh của tàu thăm dò không người lái Galileo gửi về Trái Đất khi đi ngang qua 243 Ida. Tên của Dactyl được lấy từ Dactyls, một nhân vật cũng trong thần thoại Hy Lạp. Dactyl có đường kính trung bình chỉ bằng một phần mười hai kích thước của 243 Ida, tức vào khoảng 1,4 kilômét (4.600 ft). Quỹ đạo của nó quanh 243 Ida không thể xác định chính xác. Dactyl và 243 Ida khá giống nhau, cho thấy chúng có thể có một nguồn gốc chung.

Từ các hình ảnh của tàu Galileo, người ta có thể biết về đặc điểm địa chất 243 Ida cũng như các tiểu hành tinh khác trong họ Koronis. Trước khi Galileo bay ngang 243 Ida, có nhiều giả thuyết xác định đặc điểm địa chất của các tiểu hành tinh trong họ này.

Khám phá và quan sát

Johann Palisa, người phát hiện 243 Ida

243 Ida được phát hiện ngày 29 tháng 9 năm 1884 bởi nhà thiên văn học người Áo Johann Palisa tại đài quan sát Viên, Áo.[11] Nó là tiểu hành tinh thứ 45 mà ông tìm được.[1] Người đặt tên cho nó là Moriz von Kuffner. Moriz von Kuffner là một nhà thiên văn nghiệp dư và là nhà sản xuất biaViên, Áo.[12][13] Trong thần thoại Hy Lạp, Ida (tiếng Hy Lạp: Ίδη) là một nữ thần lớn lên tại Crete.[14] Kiyotsugu Hirayama đã liệt nó vào họ Koronis vào năm 1918.[15]

Quang phổ của 243 Ida được đo ngày 16 tháng 9, 1980 bởi hai nhà thiên văn David J. Tholen và Edward F. Tedesco.[16] Đài quan sát Hải quân Hoa Kỳ tại Flagstaff cùng đài quan sát Oak Ridge đã nhiều lần quan sát nó từ đầu năm 1993.[17]

Thăm dò

Quỹ đạo của 243 Ida (chấm tròn màu trắng) vào ngày 28 tháng 8, 1993

Tàu Galileo bay ngang

Tàu Galileo đã bay ngang qua 243 Ida vào ngày 28 tháng 8 năm 1993. Trước đó, không có tàu vũ trụ nào bay ngang qua nó.[18] [19] Galileo được phóng ngày 18 tháng 10, 1980.[20] Để tiếp cận 243 Ida, nó cần 34 kg (75 lb) nhiên liệu đẩy.[21] Nhưng cuối cùng, việc tiếp cận 243 Ida phải dừng lại do có thể khiến tàu không còn nhiên liệu để thực hiện sứ mệnh đến sao Mộc.[22]

Hình ảnh 243 Ida của tàu Galileo từ lúc còn cách xa cho đến khi tiếp cận gần nhất.

Như vậy, tàu chuyển hướng sang chỉ bay ngang qua 243 Ida. Tàu Galileo đã bay ngang nó với vận tốc 12.400 m/s (41.000 ft/s).[22]. Khi bay ngang 243 Ida, tàu có chụp vài tấm ảnh về tiểu hành tinh này. 243 Ida là tiểu hành tinh thứ hai được một tàu vũ trụ chụp ảnh, sau Gaspra.[23] Khoảng hơn 95% bề mặt 243 Ida được chụp.[7]

Các hình ảnh 243 Ida lẫn sao Mộc chậm gửi về Trái Đất do hoạt động liên lạc giữa tàu với Trái Đất bị trì hoãn trong một thời gian dài.[24] Những hình ảnh đầu tiên được gửi về Trái Đất vào tháng 9, 1993.[25] Đến tháng 2, 1994, các hình ảnh còn lại được gửi về khi tàu Galileo đang nằm gần Trái Đất giúp tàu dễ gửi nhiều dữ liệu và hình ảnh về mặt đất. [2][25][26]

Chi tiết về 243 Ida qua các cuộc thăm dò, nghiên cứu

Sau khi tàu Galileo bay ngang 243 Ida, một tàu khác là NEAR Shoemaker có nhiệm vụ nghiên cứu địa chất tiểu hành tinh này.[27] 243 Ida đa dạng trong các đặc điểm địa chất.[28] Việc phát hiện Dactyl, vệ tinh tự nhiên của 243 Ida là một bước tiến trong nghiên cứu về tiểu hành tinh.[29]

Kiểu phổ của 243 Ida được xác định thuộc loại S qua các đo đạc vào năm 1980.[30] Ngoài đất đá, nó còn chứa khá nhiều sắt và có nguồn nickel phong phú. Ước tính khoảng 40% lõi của nó trống rỗng.[29]

Các dữ liệu từ tàu Galileo cho thấy trên bề mặt 243 Ida còn xảy ra hiện tượng phong hóa, khiến cho lớp bề mặt 243 Ida đỏ hơn theo thời gian.[31][32] Hiện tượng này cũng xảy ra trên mặt trăng của nó, Dactyl mặc dù ít xảy ra hơn.[33].

Phần đánh bóng của một thiên thạch

Các phát hiện về hiện tượng phong hóa ngoài không gian đã đem đến sự hiểu biết mới về mối quan hệ giữa các tiểu hành tinh có kiểu phổ là S và các thiên thạch loại OC. Đa số tiểu hành tinh trong vành đai chính có kiểu phổ S.[34] Còn OC là một thành phần chiếm đa số trong các thiên thạch được tìm thấy trên Trái Đất.[34] Từ các dữ liệu của tàu Galileo cho thấy các tiểu hành tinh có kiểu phổ loại S, nhất là những tiểu hành tinh trong họ Koronis có thể là nguồn gốc của một số thiên thạch loại OC.[33]

Đặc điểm vật lý

Sự so sách kích thước của 243 Ida với một số tiểu hành tinh, hai hành tinh lùnCeres, Vesta và sao Hỏa

Khối lượng của 243 Ida là khoảng 4,2 ± 0,6 × 1016 kg.[35] Hấp dẫn bề mặt nó chỉ vào 0,3 – 1,1 cm/s2.[7] Với hấp dẫn bề mặt nhỏ như vậy, một phi hành gia có thể nhảy từ đầu này tới đầu kia của 243 Ida[36][37] và một vật thể nếu di chuyển với vận tốc vượt quá 20 m/s (70 ft/s) sẽ thoát khỏi tiểu hành tinh này.

Hình ảnh trực tiếp 243 Ida

243 Ida là một tiểu hành tinh có hình dạng thon dài[38] với một bề mặt bất thường.[39][40] Bề mặt của 243 Ida có một "eo" tách nó thành hai nửa có địa chất khác nhau.[25] "Eo" này thực chất là một rãnh lớn có các mảnh vụn lấp đầy ở giữa. Tuy nhiên, các hình ảnh có độ phân giải cao của tàu Galileo không thấy các mảnh vụn nằm ở giữa.[40] Trên Ida có nhiều sườn dốc nghiên lên đến 50° và không dưới 35°.[7] Hình dạng của 243 Ida có đóng vai trò về sự hấp dẫn bề mặt không đồng đều của nó.[41] Ngoài ra, còn có sự chênh lệch vận tốc ở hai nửa bề mặt do tiểu hành tinh này tự quay quanh trục quá nhanh.[7]

Bề mặt

Hình ảnh trực tiếp của 243 Ida trước khi tàu Galileo tiếp cận gần nhất tiểu hành tinh này

Bề mặt của 243 Ida bị các thiên thạch khác bắn phá rất nhiều và có màu xám.[14] Bên cạnh các hố thiên thạch (còn gọi là hố núi lửa), dãy núi, đường rãnh và các chỗ lồi lõm. Trên lớp đất mặt (regolith), lớp vỏ mỏng che lấp lớp đá rắn bên trong. Phía dưới lớp vỏ mỏng là những khối đá núi lửa.

Regolith

Bề mặt 243 Ida được bao phủ bởi một lớp bụi rất mịn (vật chất võ thành các phân tử rất nhỏ), gọi là regolith. Lớp này dày khoảng 50–100 m (160–330 ft).[25]

Regolith trên Ida có hợp chất silicat, olivinpyroxen.[2][42] Ngoài ra, lớp này đỏ dần theo thời gian do phong hóa.[33][32]

Hình minh họa của một khối đá núi lửa to khoảng 150 km (490 ft) trên 243 Ida từ tàu Galileo[43]

Khoảng 20 khối đá núi lửa đã được phát hiện trên tiểu hành tinh này.[25][44] Hầu hết các khối đá núi lửa nằm ở hai hố núi lửa Lascaux và Mammoth, hoặc hình thành ở nơi khác.[45] Khu vực này có nhiều khối đá núi lửa do hấp dẫn bề mặt không đều của 243 Ida.[41] Một số khối hình thành tại hố núi lửa trẻ Azzurra.[46]

Cấu trúc

Hai nửa bề mặt 243 Ida có địa chất khác nhau, được phân tách bởi một "eo".[25] "Eo" này khó nhìn thấy do có thể bị lớp vỏ mỏng phía trên che lấp.[25][46]

Nửa bên trái 243 Ida có một dãy núi tên là Townsend dài 40 km (25 mi)[47] và một rãnh lớn có tên Vienna Regio.[25]

Nửa còn lại có nhiều rãnh, hầu hết đều dài khoảng 100 m (330 ft), thậm chí là 40 km (2,5 dặm).[25][48] Chúng nằm gần nhau nhưng không nối với nhau.[49] Một số rãnh được hình thành từ những vụ bắn phá như một rãnh nằm đối diện rãnh Vienna Regio.[50]

Hố núi lửa

243 Ida được xem là tiểu hành tinh bị bắn phá nhiều nhất chưa được nghiên cứu kỹ trong hệ Mặt Trời.[46][51] Các vụ bắn phá có ảnh hưởng nhiều lên bề mặt của nó.[52] Lớp vỏ mỏng của 243 Ida có rất nhiều hố núi lửa hay hố thiên thạch là tàn tích từ những vụ bắn phá trên tiểu hành tinh này.[46] Một số hố hình thành ở thời kỳ đầu của 243 Ida.[25] Hố lớn nhất là hố Lascaux có đường kính lên đến 12 km (7,5 mi).[40][53] Nửa bên trái 243 Ida có rất nhiều hố núi lửa có đường kính trên 6 km (3,7 mi) nhưng ở nửa bên phải thì rất ít.[25]

Một hố núi lửa tên Fingal có đường kính 1,5 km trên 243 Ida[53]

Một số hố núi lửa trên 243 Ida và các tiểu hành tinh khác thường được đặt tên theo các hang động và núi lửa trên Trái Đất. Ví dụ như hố Azzurra được đặt tên theo một hang động cùng tên tại đảo Capri, Ý, còn được gọi là Blue Grotto.[54] Một hố núi lửa khá nổi bật là Afon, đánh dấu kinh tuyến gốc trên 243 Ida.[9]

Các hố núi lửa có cấu trúc khá đơn giản: hình cái bát có đáy không bằng phẳng và đỉnh không nằm ở trung tâm cùng thường xuyên bị bắn phá,[55] ngoại trừ hố Choutoutien bằng phẳng và ít bị bắn phá hơn.[56]

Thành phần

Hình ảnh quang phổ của 243 Ida thể hiện thành phần của nó. Những chỗ có màu xanh là mới hình thành gần đây

Kiểu phổ của 243 Ida thuộc loại S.[10] Các tiểu hành tinh hay thiên thạch có kiểu phổ S thường chứa đá sắt hoặc OC.[10] Thành phần của 243 Ida chưa được phân tích trực tiếp, nhưng người ta biết rằng mật độ OC trên tiểu hành tinh này vào khoảng 2,27 – 3,10 g/cm3.[33][57] OC chứa olivin, pyroxen, sắt và fenspat, mà olivin và pyroxen đã được tìm thấy ở 243 Ida bởi tàu Galileo.[2] Giả sử OC trên đây có mật độ dao động 3,48 – 3,64 g/cm3 thì 243 Ida sẽ dày hơn 11 – 42%.[57]

Quỹ đạo và sự quay

Quỹ đạo và vị trí của 243 Ida (chấm trắng, vòng màu cam) với năm hành tinh: sao Mộc (vòng ngoài cùng, bên phải), sao Hỏa (vòng thứ tư từ Mặt Trời, bên phải), Trái Đất (vòng thứ ba từ Mặt Trời, bên trái), sao Kim (vòng thứ hai từ Mặt Trời, bên trái), sao Thủy (vòng thứ nhất từ Mặt Trời, đối diện sao Mộc) vào ngày 9 tháng 3, 2009. Mặt Trời là chấm vàng ở trung tâm

243 Ida là một tiểu hành tinh thuộc họ Koronis nằm trong vành đai chính.[31] Khoảng cách trung bình giữa 243 Ida và Mặt Trời là 2,862 AU. Quỹ đạo của nó nằm giữa sao Hỏa và sao Mộc.[2][3] 243 Ida mất 4,84089 năm để hoàn thành quỹ đạo quanh Mặt Trời.[3]

243 Ida có chu kỳ quay quanh trục chỉ mất 4,63 giờ,[8][38] trở thành tiểu hành tinh có chu kỳ quay quanh trục nhanh nhất từng được khám phá.[58] Tuế sai của trục 243 Ida với thời gian 77 ngàn năm, do lực hấp dẫn của Mặt Trời và hình dạng phi cầu của nó.[59]

Hình thành

243 Ida có nguồn gốc từ sự tan rã của một tiểu hành tinh cổ thuộc họ Koronis có đường kính khoảng 120 km (75 dặm).[8] Các tiểu hành tinh cổ có khác biệt với các tiểu hành tinh ngày nay ở điểm chúng có thành phần kim loại nặng trong lõi.[60]243 Ida đã kế thừa đáng kể đặc tính này.[60] Theo phân tích cho thấy bề mặt của 243 Ida đã 1 tỷ năm tuổi.[60] Tuy nhiên, điều này không phù hợp với ước tính tuổi Dactyl là 100 triệu năm khi tuổi của 243 Ida quá chênh lệch so với vệ tinh tự nhiên của nó.[61] Có lẽ Dactyl được hình thành do một vụ va chạm trên Ida hoặc là một mảnh võ của một tiểu hành tinh cổ bị Ida bắt được.[62]

Vệ tinh tự nhiên

Hình ảnh có độ phân giải cao nhất của Dactyl từ tàu Galileo khi tàu này đang cách nó 3.900 km

243 Ida có một vệ tinh tự nhiên là Dactyl, có tên chỉ định chính thức (243) Ida I Dactyl (/ˈdæktl/ DAK-til). Nó được phát hiện bởi tàu vũ trụ Galileo khi bay ngang qua 243 Ida vào tháng 8, 1993.[29] Vào thời điểm đó, tàu Galileo cách nó khoảng 90 km (56 dặm) và đang di chuyển theo chuyển động nghịch hành. Dactyl bị bắn phá nhiều và có nhiều điểm giống 243 Ida. Nguồn gốc của nó không được chắc chắn, nhưng bằng chứng từ tàu Galileo cho thấy nó có thể là một mảnh võ của một tiểu hành tinh cổ trong họ Koronis, sau đó thì bị Ida bắt được.

Khám phá

Dactyl được tìm thấy ngày 17 tháng 2, 1994 khi Ann Harch đang kiểm tra các hình ảnh do tàu Galileo gửi về.[2] Tàu Galileo đã chụp 47 tấm ảnh về Dactyl trong 5,5 giờ vào tháng 8 năm 1993.[63] Tàu Galileo cách 243 Ida 10.760 km (6.690 dặm)[64] và cách Dactyl 10.870 km (6.750 dặm) trước khi bức ảnh đầu tiên được chụp.[65]

Dactyl ban đầu được đặt tên là 1993 (243) 1.[64][66] Tên chỉ định lẫn tên thường gọi của nó được đặt bởi Hiệp hội Thiên văn Quốc tế năm 1994.[65] Tên nó đặt từ một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp.[67][68]

Đặc điểm vật lý

Dactyl có hình dạng gần cầu.[29] Trục Dactyl chỉ về phía 243 Ida.[29] Bề mặt nó có hơn chục hố núi lửa và đa số có đường kính lớn hơn 80 m (260 ft), chứng tỏ nó phải chịu nhiều vụ bắn phá trong lịch sử.[14] Các hố trên Dactyl có đỉnh nằm ở trung tâm, khác với trên Ida.[69] Giống như Ida, nó có nhiệt độ khoảng 200 K (-73 ° C; -39,2 ° F).[2]

Các đặc điểm của Dactyl và 243 Ida rất giống nhau, ví dụ như suất phản chiếu và kiểu phổ của chúng khớp nhau.[70] Sự khác biệt nhỏ là hiện tượng phong hóa ít xảy ra trên Dactyl.[33] Ngoài ra, lớp đất mặt trên Dactyl mỏng hơn trên Ida.[33][64]

Hai hố núi lửa lớn nhất trên Dactyl là Acmon và Celmis. Trong hình trên, Acmon là hố lớn ở trên còn Celmis đã bị bóng tối che khuất. Acmon có đường kính khoảng 300 m, còn Celmis là 200 m.[71]

Quỹ đạo

Sơ đồ các quỹ đạo tiềm năng của Dactyl quanh 243 Ida
Một sơ đồ khác về các quỹ đạo tiềm năng của Dactyl quanh 243 Ida

Quỹ đạo Dactyl vẫn chưa được xác định chính xác. Dactyl có quỹ đạo theo chuyển động nghịch hành[72] và nghiêng khoảng 8° với xích đạo của 243 Ida.[63] Dựa trên mô phỏng máy tính, cùng điểm quỹ đạo của Dactyl với Ida phải cách nhau hơn 65 km (40 dặm) thì quỹ đạo của nó mới ổn định.[73] Khoảng cách từ nó tới Ida có thể giúp nó dễ quan sát hay khó quan sát. Tàu Galileo đã quan sát được nó vào tháng 8 năm 1993 khi nó đang cách 243 Ida 90 km (56 dặm).[74][75] Trong khi đó, vào ngày 26 tháng 4, 1994, kính thiên văn Hubble đã quan sát Ida suốt tám giờ đồng hồ mà không thể nào thấy được Dactyl. Hubble đã có thể thấy Dactyl nếu Dactyl nằm cách Ida hơn 700 km (430 dặm).[30]

Dactyl có chu kỳ quỹ đạo chỉ khoảng 20 giờ[70] và vận tốc quỹ đạo là 10 m/s (33 ft/s).[30]

Tuổi tác và nguồn gốc

Dactyl có thể hình thành cùng thời điểm với 243 Ida, từ sự phân rã của một tiểu hành tinh cổ.[76][45] Tuy nhiên, qua các cuộc phân tích, tuổi của Dactyl và Ida quá chênh lệch và điều này là không đúng. Cũng có thể nó được hình thành từ một vụ va chạm mạnh trên Ida.[77] Nó cũng có thể là một mảnh võ bị Ida bắt giữ.[65]

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ a b Raab 2002
  2. ^ a b c d e f g h Holm 1994
  3. ^ a b c d e JPL 2008
  4. ^ Belton et al. 1996
  5. ^ a b Britt và đồng nghiệp 2002, tr. 486
  6. ^ Belton, M. J. S.; Chapman, C. R.; Thomas, P. C.; M. E. Davies; R. Greenberg; K. Klaasen; D. Byrnes; L. D'Amario; S. Synnott; T. V. Johnson; A. McEwen; J. W. Merline; D. R. Davis; J. M. Petit; A. Storrs; J. Veverka; B. Zellner (1995). “Bulk density of asteroid 243 Ida from the orbit of its satellite Dactyl”. Nature. 374 (6525): 785–788. Bibcode:1995Natur.374..785B. doi:10.1038/374785a0.
  7. ^ a b c d e Thomas et al. 1996
  8. ^ a b c Vokrouhlicky, Nesvorny & Bottke 2003, tr. 147
  9. ^ a b c Seidelmann Archinal A'hearn et al. 2007, tr. 171
  10. ^ a b c Wilson, Keil & Love 1999, tr. 479
  11. ^ Ridpath 1987, tr. 206
  12. ^ Schmadel 2003, tr. 36
  13. ^ Berger 2003, tr. 241
  14. ^ a b c NASA 2005
  15. ^ Chapman 1996, tr. 700
  16. ^ Zellner, Tholen & Tedesco 1985, tr. 357, 373
  17. ^ Owen & Yeomans 1994, tr. 2295
  18. ^ D'Amario, Bright & Wolf 1992, tr. 26
  19. ^ Chapman 1996, tr. 699
  20. ^ D'Amario, Bright & Wolf 1992, tr. 24
  21. ^ D'Amario, Bright & Wolf 1992, tr. 72
  22. ^ a b D'Amario, Bright & Wolf 1992, tr. 36
  23. ^ Cowen 1993, tr. 215
  24. ^ Chapman 1994, tr. 358
  25. ^ a b c d e f g h i j k Chapman 1996, tr. 707
  26. ^ Monet et al. 1994, tr. 2293
  27. ^ Geissler, Petit & Greenberg 1996, tr. 57
  28. ^ Chapman et al. 1994, tr. 238
  29. ^ a b c d e Chapman 1996, tr. 709
  30. ^ a b c Byrnes & D'Amario 1994
  31. ^ a b Chapman 1996, tr. 700
  32. ^ a b Chapman 1996, tr. 710
  33. ^ a b c d e f Chapman 1995, tr. 496
  34. ^ a b Chapman 1996, tr. 699
  35. ^ Petit et al. 1997, tr. 179–180
  36. ^ Geissler et al. 1996, tr. 142
  37. ^ Lee et al. 1996, tr. 99
  38. ^ a b Geissler, Petit & Greenberg 1996, tr. 58
  39. ^ Chapman 1994, tr. 363
  40. ^ a b c Bottke et al. 2002, tr. 10
  41. ^ a b Cowen 1995
  42. ^ Chapman 1996, tr. 701
  43. ^ Lee et al. 1996, tr. 90
  44. ^ Geissler et al. 1996, tr. 141
  45. ^ a b Lee et al. 1996, tr. 97
  46. ^ a b c d Stooke 1997, tr. 1385
  47. ^ Sárneczky & Kereszturi 2002
  48. ^ Sullivan et al. 1996, tr. 131
  49. ^ Sullivan et al. 1996, tr. 132
  50. ^ Thomas & Prockter 2004
  51. ^ Chapman et al. 1994, tr. 237
  52. ^ Gleisser, Petit & Greenberg 1996, tr. 57-58
  53. ^ a b USGS
  54. ^ Greeley & Batson 2001, tr. 393
  55. ^ Sullivan et al. 1996, tr. 124
  56. ^ Sullivan et al. 1996, tr. 128
  57. ^ a b Wilson, Keil & Love 1999, tr. 480
  58. ^ Greenberg et al. 1996, tr. 107
  59. ^ Slivan 1995, tr. 134
  60. ^ a b c Greenberg et al. 1996, tr. 117
  61. ^ Hurford & Greenberg 2000, tr. 1595
  62. ^ Carroll & Ostlie 1996, tr. 878
  63. ^ a b Petit et al. 1997, tr. 177
  64. ^ a b c Belton & Carlson 1994
  65. ^ a b c Mason 1994, tr. 108
  66. ^ Green 1994
  67. ^ Schmadel 2003, tr. 37
  68. ^ Pausanias & 5.7.6
  69. ^ Asphaug, Ryan & Zuber 2003, tr. 463
  70. ^ a b Chapman et al. 1994, tr. 455
  71. ^ “Tiểu hành tinh: Dactyl”. IAU. Truy cập 15 tháng 1 năm 2017.
  72. ^ Petit et al. 1997, tr. 179
  73. ^ Petit et al. 1997, tr. 195
  74. ^ Petit et al. 1997, tr. 188
  75. ^ Petit et al. 1997, tr. 193
  76. ^ Greenberg et al. 1996, tr. 116
  77. ^ Petit et al. 1997, tr. 182

Các tài liệu tham khảo khác

Các bài báo

Sách

Khác

Liên kết ngoài