Minh Phụng
Minh Phụng Ngô Văn Thiệu | |
---|---|
![]() NSƯT Minh Phụng | |
Nghệ danh | Minh Phụng |
Biệt danh | Hoàng tử sân khấu |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Ngô Văn Thiệu 16 tháng 9, 1944 Mỹ Tho, Liên bang Đông Dương |
Mất | 29 tháng 11, 2008 Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam | (64 tuổi)
Nguyên nhân mất | Bệnh |
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Chùa Nghệ Sĩ |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | ![]() |
Nghề nghiệp | Diễn viên sân khấu |
Hôn nhân | Diệu Huê (1968–1976) Kiều Tiên (1977–2008) |
Con cái |
|
Lĩnh vực | Cải lương |
Danh hiệu | Nghệ sĩ Ưu tú (1993) |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Vai trò | Nghệ sĩ |
Dòng nhạc | Tân cổ, vọng cổ |
Hợp tác với | NSƯT Mỹ Châu NS Minh Cảnh NSND Lệ Thủy NS Phượng Liên NSND Minh Vương |
Tác phẩm | Bông cỏ may Đừng nói xa nhau Thương hận Trả lại thời gian |
Sự nghiệp sân khấu | |
Vai trò | Diễn viên |
Năm hoạt động | 1961–2008 |
Thành viên của | Tân Đô, Hoa Thảo – Hậu Tấn, Thanh Phương, Kim Chung, Hương Mùa Thu,... |
Vai diễn | Âu Thiên Vũ trong Xin một lần yêu nhau Mộ Dung Thạch trong Kiếp nào có yêu nhau |
Ảnh hưởng bởi
| |
Minh Phụng (16 tháng 9 năm 1944 – 29 tháng 11 năm 2008) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng từ trước năm 1975. Ông được mệnh danh là "Hoàng tử sân khấu" của cải lương Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Minh Phụng tên thật là Ngô Văn Thiệu, còn tên khai sinh sau này là Nguyễn Văn Hoài, sinh ngày 16 tháng 9 năm 1944 tại Mỹ Tho, con nhà nghèo, trong gia đình có 10 anh chị em.
- Trước năm 1975
Khi lên 7 tuổi, hàng ngày ông phải thức dậy từ 4 giờ sáng để phụ giúp mẹ bày hàng ra chợ Mỹ Tho để mẹ bán. Sau những giờ học buổi chiều, ông còn phải đi bán đậu rang, bánh chuối để kiếm thêm thu nhập. Những lúc đi bán bánh, mỗi khi gặp những cuộc đờn ca tài tử trong xóm tổ chức là ông ở lại nghe và đôi khi ông cũng tham gia ca vài bài.
Vì quá đam mê giọng ca của nghệ sĩ Minh Cảnh mà ông tự học hát cải lương qua radio, ѕau đó ông được nghệ nhân Tư Xuân ở Mỹ Tho dạу ca theo nhịp đờn. Nhân dịp đoàn cải lương Tân Đô tập tuồng tại sân khấu đình Điều Hòa, ông được soạn giả Hương Huyền Anh thử giọng ca và giới thiệu để bầu Công Tạo thu nhận ông vô đoàn hát và đặt cho nghệ danh Tân Tiến. Tân Tiến đóng vai "ông sư" là vai đầu tiên trong tuồng "Bến Tang Thương", hát tại rạp Viễn Trường Mỹ Tho năm 1962.
Sau đoàn hát Tân Đô, Tân Tiến đi hát ở các đoàn hát nhỏ khác như đoàn Hoa Thảo – Hậu Tấn, đoàn hát Thanh Phương. Tại đoàn hát Thanh Phương, ông bỏ nghệ danh Tân Tiến, lấy tên hai đứa cháu của một người bạn là Minh và Phụng để làm nghệ danh Minh Phụng. Ông đã thành công khi thủ vai kép chánh "Ai Dũng Phương" trong tuồng "Bên cầu định mệnh".
Đầu năm 1964, Minh Phụng về hát cho đoàn Quốc Việt, nhờ sắc vóc đẹp trai, giọng ca truyền cảm, Minh Phụng được các ký giả kịch trường viết nhiều bài báo khen tặng. Thời gian này Minh Phụng hát với nữ nghệ sĩ Kiều Tiên (là người vợ của ông sau này). Ông yêu Kiều Tiên vì cô trẻ đẹp, thông minh và là đào chánh của đoàn hát. Tình yêu chỉ mới khởi đầu thì Minh Phụng được ông Ba Bản, bầu gánh hát đại ban Thủ Đô mời về cộng tác với một số tiền contrat hậu hỉ. Lúc này, ông từ giã Kiều Tiên, về cộng tác với gánh hát Thủ Đô.
Lực lượng đào kép đoàn Thủ Đô lúc đó có Thanh Hải, Tấn Tài, Phước Trọng, Trương Ánh Loan, Như Ngọc, Thúy Nga, Dũng Thanh Lâm nên tuy được ông bầu Ba Bản mời về cộng tác, khởi đầu Minh Phụng vẫn phải làm công việc của người cầm bổn nhắc tuồng trong những suất hát của đoàn. Nhờ đứng trong cánh gà nhắc tuồng, Minh Phụng thuộc được nhiều vai trong các tuồng hát của đoàn, nắm được kỹ thuật diễn xuất của các diễn viên nên khi có dịp thế tuồng, Minh Phụng đã thể hiện thành công vượt bậc. Sau đó Minh Phụng được phân vai kép chánh hát các tuồng mới của đoàn không còn ở vị trí sơ cua hay đứng cánh gà nhắc tuồng.
Ông bầu Long (chủ đoàn Kim Chung) thấy Minh Phụng được khán giả ái mộ đông đảo và được báo giới kịch trường không tiếc lời khen ngợi, ông lập tức mời Minh Phụng ký hợp đồng với một số tiền contrat kỷ lục. Khi về đại bang Kim Chung, Minh Phụng hợp cùng Minh Cảnh, Minh Vương tạo thành bộ 3 kép chánh vô cùng ăn khách. Đây cũng là lúc giọng ca chín mùi, nét diễn trở nên sắc sảo, Minh Phụng bắt đầu đón nhận vinh quang của một ngôi sao sân khấu. Tên của ông sánh cùng tên với những cô đào hạng nhất thời bấy giờ như: Út Bạch Lan, Diệu Hiền, Mỹ Châu, Lệ Thủy,...
Từ năm 1965 - 1966, Minh Phụng hát cặp cùng Mỹ Châu. Cơ duyên cho sự kết hợp này là khi nghệ sĩ Minh Cảnh - ngôi sao đang hát cặp ăn ý với Mỹ Châu - rời Kim Chung để lập đoàn riêng. Ông bầu Long đã lập tức điều Minh Phụng về đoàn Kim Chung 2 thay thế Minh Cảnh hát cặp với Mỹ Châu. Dù hơn Mỹ Châu 6 tuổi nhưng khi Mỹ Châu đang là cô đào nổi danh thì Minh Phụng mới chớm gầy dựng tên tuổi, chân ướt chân ráo về đại bang Kim Chung ở vị trí kép 3. Không chỉ hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm trên sàn diễn, Mỹ Châu còn giới thiệu Minh Phụng đi thu đĩa. Bên cạnh giọng ca liêu trai của Mỹ Châu, chất giọng “quá đẹp và lạ” của Minh Phụng lập tức gây ấn tượng với giới mộ điệu cải lương. Từ Bình rượu nhiệm mầu đến Kiếm sĩ dơi, Tâm sự loài chim biển, Khi rừng mới sang thu, Băng Tuyền nữ chúa,... Liên danh "Minh Phụng - Mỹ Châu" thật sự bùng nổ. Họ sánh vai nhau qua nhiều cung bậc yêu thương của những đôi tình nhân lãng tử, giàu nghĩa hiệp trên sân khấu cải lương.
Vào đầu thập niên 70, Minh Phụng chuyển sang đoàn Kim Chung 5 hát cặp với Lệ Thủy. Sự kết hợp của hai giọng ca cao vút, hai gương mặt “sáng trưng” và hai nét diễn duyên dáng đã lập tức tạo hiệu ứng. Từ Nhất kiếm bá vương, nối tiếp là những Kẻ bên trời, Người trai sa mạc, Kiếp nào có yêu nhau, Xin một lần yêu nhau, Máu nhuộm sân chùa, Tây Thi - Gái nước Việt,... Báo chí kịch trường đã gọi "Minh Phụng - Lệ Thủy" là “Cặp bão biển đang dâng cao” đối trọng với “Cặp sóng thần” "Hùng Cường - Bạch Tuyết" của đoàn Dạ Lý Hương.
Minh Phụng còn là nghệ sĩ độc quyền của Dĩa Hát Việt Nam, ngoài các tuồng đã hát trên sân khấu Kim Chung được thu vào băng đĩa, Minh Phụng còn thâu thanh vọng cổ ca độc chiếc, tân cổ giao duyên ca chung với Út Bạch Lan, Mỹ Châu, Lệ Thủy, Phượng Liên, Diệu Hiền. Các dĩa vọng cổ ca độc chiếc của Minh Phụng có một thời gian dài được khán thính giả ưa thích, được hãng Dĩa Hát Việt Nam tái xuất bản nhiều đợt. Có thể kể đến các bài vọng cổ như: Trả lại thời gian, Nước mắt quê hương, Đêm tiền đồn, Thư cho vợ hiền, Bông cỏ mây, Đừng nói xa nhau, Mai lỡ hai mình xa nhau, Phố đêm, Nhớ nhau hoài,...
- Sau năm 1975
Sau năm 1975, Minh Phụng làm trưởng đoàn Tiếng Hát Quê Hương của tỉnh Bến Tre. Đến năm 1976, Minh Phụng về làm kép chánh của gánh hát Hương Mùa Thu và nổi tiếng qua các vở như: Gánh cỏ sông Hàn, Con cò trắng, Lửa phi trường,...
Năm 1994, ông lập lại đoàn hát Hương Mùa Thu với thành phần diễn viên như: Minh Phụng, Linh Cảnh, Kiều Tiên, Bảo Ngọc, Ngọc Cẩm Thúy, Vương Bình, Thanh Phú, Điền Tử Lang, Thanh Thủy, Ngọc Ánh, Diệu Thanh, hề Giang Tâm. Đoàn Hương Mùa Thu của Minh Phụng diễn ở tỉnh Minh Hải (Cà Mau) và các tỉnh lân cận. Sau đó, Minh Phụng đổi tên Hương Mùa Thu thành đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng. Từ năm 1996 trở về sau, các gánh hát thua lỗ, Đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng cầm cự, kéo dài đến qua năm 2000, rồi ngưng hát. Nghệ sĩ Minh Phụng đã thua lỗ khá nhiều cho đoàn hát.
Sau lần phẫu thuật tim vào năm 2005, cùng với điều trị suy thận và hoại tử chân kéo dài, sức khỏe Minh Phụng suy yếu dần. Đầu tháng 11 năm 2008, ông vẫn cố gắng xuất hiện trong liveshow của nghệ sĩ Ngọc Đáng tổ chức tại rạp Hưng Đạo. Đó là lần đứng trên sân khấu cuối cùng của ông.
Gần 50 năm gắn bó với sân khấu cải lương, trong giai đoạn hưng thịnh nhất của bộ môn nghệ thuật này, Minh Phụng đã đi vào lòng khán giả mộ điệu với hình ảnh một kép đẹp, có giọng hát đặc trưng với thanh âm cao, ngọt ngào và sâu lắng. Nhiều vở diễn có sự góp mặt của ông và do ông thể hiện đã đi sâu vào lòng khán giả như: Bóng hồng sa mạc (vai Thái tử Phi Sơn), Tâm sự loài chim biển (vai Áo Vũ Cơ Hàn), Xin một lần yêu nhau (vai Âu Thiên Vũ), Kiếp nào có yêu nhau (vai Mộ Dung Thạch),...
Ông qua đời ngày 29 tháng 11 năm 2008 và được an táng tại chùa Nghệ Sĩ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các vai diễn nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]
- Băng Tuyền nữ chúa (vai Đoàn Tất Linh)
- Bóng hồng sa mạc (vai Thái tử Phi Sơn)
- Chiều đông gió lạnh về (vai Kha Minh)
- Cho trọn cuộc tình (vai Thành)
- Dốc sương mù (vai Thái Điền Thứ Lang)
- Khi rừng mới sang thu (vai Hoàng Phi Hải)
- Kiếm sĩ dơi (vai Tân Xuyên)
- Kiếp nào có yêu nhau (vai Mộ Dung Thạch)
- Lá trầu xanh (vai Dũng)
- Lấy chồng xứ lạ (vai Tâm)
- Manh áo quê nghèo (vai Hoàng tử)
- Mùa thu lá bay (vai Mẫn Vân Lâu)
- Mùa xuân ngủ trong đêm (vai Vũ Trường Giang)
- Người phu khiêng kiệu cưới (vai Giang Châu Vĩnh Hạ)
- Người tình trên chiến trận (vai Cổ Thạch Xuyên)
- Tâm sự loài chim biển (vai Áo Vũ Cơ Hàn)
- Tây Thi gái nước Việt (vai Ngô Phù Sai)
- Tiêu Anh Phụng (vai Hoàng tử)
- Xin một lần yêu nhau (vai Âu Thiên Vũ)
Các bài tân cổ, vọng cổ[sửa | sửa mã nguồn]
- Ai hỏi tên anh (Tân nhạc: Minh Kỳ – Dạ Cầm; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Bá Nha khóc Tử Kỳ (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Bạch Thu Hà (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Bông cỏ may (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Cám ơn (Tân nhạc: Ngân Khánh; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Chân trời tím (Tân nhạc: Anh Chương; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Chuyến đi về sáng (Tân nhạc: Mạnh Phát; cổ nhạc: Yên Lang)
- Chuyện một chiếc cầu đã gãy (Tân nhạc: Trầm Tử Thiêng; cổ nhạc: Thế Châu)
- Có bao giờ (Tân nhạc: Đài Phương Trang); cổ nhạc: Xuyên Vân Tử)
- Đêm tiền đồn (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Đêm nhớ người tình (Tân nhạc: Đài Phương Trang; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Đêm trao kỷ niệm (Tân nhạc: Hùng Cường; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Đôi lời tâm sự (Tân nhạc: Thanh Hằng; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Đừng nói xa nhau (Tân nhạc: Châu Kỳ – Hồ Đình Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Em là cô gái trời cho đẹp (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Em có buồn không em (Tân nhạc: Thu Hồ; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Gặp em trong quán nhỏ (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Khi đã yêu (Nhạc: Phượng Linh; lời vọng cổ: Đông Phương Tử)
- Khung trời kỷ niệm (Tân nhạc: Chế Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Làng xưa xa bóng mẹ (Tác giả: Văn Giai)
- Lời ru – Mùa thu lá bay (Tác giả: Lê Duy Hạnh – Nguyễn Thị Khánh An)
- Mai lỡ hai mình xa nhau (Tân nhạc: Tú Nhi; lời vọng cổ: Yên Trang)
- Một ngày gần đây (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Mưa ngâu dứt hạt (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Mưa trên phố Huế (Tân nhạc: Minh Kỳ – Tôn Nữ Thụy Khương; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Nấu bánh đêm xuân (Tác giả: Quy Sắc)
- Ngày buồn (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Thế Châu)
- Người bạn tình xưa (Tân nhạc: Anh Việt Thu; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Người giãi bày tâm sự (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Thế Châu)
- Người phu xích lô đạp (Tác giả: Văn Giai)
- Nhớ nhau hoài (Tân nhạc: Anh Việt Thu; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Những chuyện tình mong manh (Tân nhạc: Mai Văn Hiên; cổ nhạc: Thế Châu)
- Nỗi buồn hoa phượng (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Nửa đêm ngoài phố (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Nước mắt quê hương (Tân nhạc: Anh Bằng; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Nước cuốn hoa trôi (Tân nhạc: Hồng Vân; cổ nhạc: Xuyên Vân Tử)
- Phận bạc (Tân nhạc: Doãn Bình; cổ nhạc: Yên Ba)
- Rồi hai mươi năm sau (Nhạc: Trầm Tử Thiêng – Tấn An; lời vọng cổ: Loan Thảo)
- Sao anh nỡ đành quên (Tân nhạc: Tô Thanh Tùng; cổ nhạc: Xuyên Văn Tử)
- Tần Quỳnh khóc bạn (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Tháng đợi năm chờ (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Thói đời (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Thư cho vợ hiền (Nhạc: Song Ngọc; lời vọng cổ: Loan Thảo)
- Thương hận (Tân nhạc: Tú Nhi; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Thương về miền Trung (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Tình phụ tử (Sáng tác: Quy Sắc)
- Tình nghèo có nhau (Tân nhạc: Đài Phương Trang; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Trả lại thời gian (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Trên dòng sông Hậu (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Huyền Nhung)
- Trường cũ tình xưa (Nhạc: Duy Khánh; lời vọng cổ: Loan Thảo)
- Trường hận (Sáng tác: NSND Viễn Châu)
- Tu là cội phúc (Sáng tác: NSND Viễn Châu)
- Tương phùng nơi đất khách (Tác giả: Yên Lang)
- Võ Đông Sơ (Tác giả: Viễn Châu)
- Vòng tay nào cho em (Tân nhạc: Hoàng Lê Vũ; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Vì sao chưa nói (Tân nhạc: Trần Quý; cổ nhạc: Xuyên Vân Tử)
- ...
Trung tâm Asia[sửa | sửa mã nguồn]
STT | Tiết mục | Thể hiện với | Chương trình | Năm |
---|---|---|---|---|
1 | Cô Gái Bán Sầu Riêng (Viễn Châu) | Y Phụng | Asia 55 | 2007 |
1 | Cải lương: Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà | Solo | Asia 56 |
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
Ông sống chung với nghệ sĩ Diệu Huê lúc ở đoàn Kim Chung và có ba người con, trong đó có nghệ sĩ Tiểu Phụng. Đến năm 1976, cả hai chia tay.
Năm 1977, khi hát cho đoàn Hương Mùa Thu, ông kết hôn với nghệ sĩ Kiều Tiên, sinh con gái là nghệ sĩ Y Phụng.
Năm 2005, ông đăng báo từ con trên báo Sân khấu TPHCM đối với Tiểu Phụng vì cho rằng Tiểu Phụng lợi dụng lúc ông bị bệnh nặng đã liên lạc với bạn bè, người thân và người ái mộ ông ở bên Mỹ để quyên góp tiền, quà.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Ông hoàng cải lương |
---|
Út Trà Ôn | Minh Cảnh | Minh Phụng | Thanh Tòng | Minh Vương | Thanh Tuấn | Chí Tâm | Vũ Linh | Linh Tâm | Kim Tử Long |