Triều Tiên Tuyên Tổ
Triều Tiên Tuyên Tổ 朝鮮宣祖 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Triều Tiên | |||||||||
![]() Triều Tiên Tuyên Tổ (1592 ~ 1593) | |||||||||
Quốc vương Triều Tiên | |||||||||
Trị vì | 28 tháng 6 năm 1567 - 1 tháng 2 năm 1608 40 năm, 218 ngày ![]() | ||||||||
Tiền nhiệm | Triều Tiên Minh Tông | ||||||||
Kế nhiệm | Quang Hải Quân | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Thê thiếp | Ý Nhân Vương hậu Nhân Mục Vương hậu Trữ Khánh Cung Nhân tần Cung tần Kim thị | ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Triều đại | Nhà Triều Tiên | ||||||||
Thân phụ | Đức Hưng Đại viện quân | ||||||||
Thân mẫu | Hà Đông Phủ đại phu nhân Trịnh thị | ||||||||
Sinh | Hán Thành | 11 tháng 11, 1552||||||||
Mất | 1 tháng 2, 1608 Đức Thọ Cung | (55 tuổi)||||||||
An táng | Mục Lăng (穆陵) |
Triều Tiên Tuyên Tổ | |
Hangul | 선조 |
---|---|
Hanja | 宣祖 |
Romaja quốc ngữ | Seonjo |
McCune–Reischauer | Sŏn-jo |
Hán-Việt | Tuyên Tổ |
Tên khai sinh | |
Hangul | 이연 |
Hanja | 李蚣 |
Romaja quốc ngữ | I Yeon |
McCune–Reischauer | I Yŏn |
Triều Tiên Tuyên Tổ (chữ Hán: 朝鮮宣祖; Hangul: 조선 선조; 11 tháng 11, 1552 - 1 tháng 2 năm 1608), là vị quốc vương thứ 14 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm 1567 đến khi qua đời vào năm 1608, tổng cộng 41 năm; trở thành một trong những vị quốc vương trị vì lâu dài nhất của Triều Tiên.
Thời gian đầu khi mới lên ngôi, Tuyên Tổ đại vương là một vị quốc vương cai trị tốt và hiệu quả, biết lo lắng và quan tâm tới chính sự. Nhưng sau này, ông đã bỏ bê việc triều chính. Triều đại của Tuyên Tổ phải đối mặt với cuộc xâm lăng Triều Tiên của Phong Thần Tú Cát từ Nhật Bản. Dù cuộc xâm lược này thất bại, nhưng đã buộc Tuyên Tổ và triều đình phải bỏ chạy về phía Bắc Bình Nhưỡng, cho đến khi Minh Thần Tông gửi quân cứu viện sang. Sau khi trở về Hán Thành, ông là người đầu tiên sử dụng Đức Thọ Cung (德壽宮; 덕수궁) như một cung điện chánh trong khi tất cả các cung điện khác ở Hán Thành đã bị đốt phá trong thời gian chiến tranh.
Ngày nay, Tuyên Tổ đại vương bị nhận xét là một trong những vị quốc vương bất tài nhất trong lịch sử nhà Triều Tiên, đặc biệt do cách ông đối xử với Đô đốc Lý Thuấn Thần, nhân vật mà nhiều người cảm thấy xứng đáng được ưu ái cho chiến thắng liên tiếp chống lại cường địch Nhật Bản. Nhưng thay vào đó, ông lại giáng Đô đốc Lý xuống làm lính cho đến khi mất.
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Tuyên Tổ đại vương có tên húy là Lý Diên (李昖; 이연), sinh ra vào ngày 11 tháng 11 năm 1552 ở Hán Thành. Ông là con trai thứ ba của Đức Hưng Đại viện quân Lý Thiệu (德興大院君李岹, 1530 - 1559), con trai của Triều Tiên Trung Tông và Xương tần An thị; mẹ ông là Hà Đông Phủ đại phu nhân Trịnh thị (河東府大夫人). Lúc đầu, ông được phong làm Hà Thành Quân (河城君), nhưng không được nhiều người chú ý vì ông không có nhiều quyền lực.
Năm 1567, Triều Tiên Minh Tông qua đời mà không có con trai để kế vị, vì vậy quan viên triêu đình đã phải tìm một thành viên khác trong vương tộc để lên ngôi. Hà Thành Quân mới 15 tuổi được chọn để kế tục vương nghiệp, bởi ông còn trẻ và chưa biết gì về chính trị.
Thời gian đầu[sửa | sửa mã nguồn]
Thời gian đầu trị vì (1567 - 1575), Tuyên Tổ đại vương là một vị quân vương rất tốt; ông đã cống hiến cuộc sống và triều đại của mình để cải thiện cuộc sống cho dân chúng, cũng như củng cố lại đất nước sau sự mục nát chính trị do cách cai trị tàn bạo của Yên Sơn Quân và các quy định lỏng lẻo trong triều đại Triều Tiên Trung Tông.
Tuyên Tổ khuyến khích nhiều học giả Nho giáo, những người bị ngược đãi bởi tầng lớp quý tộc dưới thời Yên Sơn Quân và Trung Tông. Ông tiếp tục thực hiện những cải cách mà Minh Tông đang tiến hành, ông trọng dụng nhiều nho sĩ nổi tiếng, trong đó có Lý Hoảng, Lý Nhị, Trịnh Triệt (鄭澈), và Liễu Thành Long (柳成龍) làm cố vấn.
Tuyên Tổ cải cách lại hệ thống các kỳ thi, đặc biệt là sát hạch quy cách và trình độ. Các kỳ thi trước đây chủ yếu đều liên quan tới văn học, không phải là chính trị hay lịch sử. Ông ra lệnh cho hệ thống này sẽ được cải tổ bằng việc tăng tầm quan trọng của những đề tài khác. Ông cũng phục hồi danh tiếng cho các học giả như Triệu Quang Tổ (趙光祖), và lên án sự bại hoại, mục nát của những quý tộc, đáng chú ý là Nam Cổn (南袞), nghị chính dưới thời Triều Tiên Trung Tông, đã góp phần lớn vào việc tham nhũng. Những hành động này của ông tạo cho dân chúng sự kính trọng và tin tưởng, nhờ thế đất nước có được một thời gian ngắn để ổn định.
Đảng tranh[sửa | sửa mã nguồn]
Trong số các Nho sĩ được Tuyên Tổ trọng dụng thì Thẩm Nghĩa Khiêm (沈義謙) và Kim Hiếu Nguyên (金孝元) là hai nhân vật được nhà vua sủng ái nhất. Thẩm Nghĩa Khiêm là một cận thần của Nhân Thuận Vương hậu, nặng về bảo thủ; còn Kim Hiếu Nguyên lại là lãnh đạo của tầng lớp quan lại có đầu óc đổi mới và kêu gọi những cuộc cải cách. Các Nho sĩ của Tuyên Tổ bắt đầu phân chia thành hai Đảng phái, đứng đầu bởi họ Thẩm và họ Kim. Những thành viên của hai phe sống xen lẫn trong cùng một khu vực. Nhóm của Thẩm Nghĩa Khiêm sống ở phía Tây kinh thành trong khi những người của Kim Hiếu Nguyên tập hợp ở phía Đông. Do đó, hai phe bắt đầu được gọi là phái Tây Nhân (西人黨) và phái Đông Nhân (東人黨); hệ thống của hai phe này kéo dài 400 năm đã góp phần vào sự sụp đổ của nhà Triều Tiên.
Ban đầu, phái Tây Nhân nhận được những đặc ân của nhà vua, kể từ lúc Thẩm Nghĩa Khiêm theo Nhân Thuận Vương hậu và cũng đã có được sự ủng hộ từ những đại quý tộc. Tuy nhiên, các cải cách của phái Đông Nhân đã giúp họ đoạt được ảnh hưởng và loại dần phái Tây Nhân ra khỏi quyền lực. Thời gian đầu, những cải cách của phái Đông Nhân phát triển nhanh chóng để lấy ảnh hưởng; nhưng sau đó nhiều người trong phái Đông Nhân bắt đầu yêu cầu những người khác kìm hãm các cải cách. Phái Đông Nhân lại một lần nữa được tách thành phái Bắc Nhân (北人黨) và phái Nam Nhân (南人黨).
Liễu Thành Long (柳成龍), người lãnh đạo phái Nam Nhân, trong khi phái Bắc Nhân thậm chí còn bị chia cắt nhiều hơn nữa sau khi không đồng nhất ý kiến qua nhiều vấn đề; phái Đại Bắc Nhân là phái tả cực đoan về vấn đề cải cách, trong khi phái Tiểu Bắc Nhân trở nên ít có đầu óc cải cách hơn so với phái Đại Bắc Nhân, nhưng vẫn còn hướng cải cách hơn phái Nam Nhân.
Những thiên hướng chính trị đã làm cho đất nước suy yếu đi, vì số lượng binh lính phục vụ quân đội cũng là một trong số những vấn đề của cuộc cải cách. Lý Nhị, một người bảo thủ trung lập đã đề nghị nhà vua tăng số lượng quân lính để chống lại những cuộc xâm lược của Nữ Chân và Nhật Bản trong tương lai. Tuy nhiên, cả hai phe đều bác bỏ các đề xuất của Lý Nhị, và số lượng quân đội đã được giảm khá nhiều vì đa số mọi người đều tin tưởng rằng nền hòa bình sẽ còn kéo dài. Mãn Châu và Nhật Bản đã nhân lợi dụng cơ hội này để mở rộng ảnh hưởng ở Đông Á, dẫn đến Cuộc chiến tranh Bảy năm, nền tảng của nhà Thanh ở Trung Quốc mà cả hai việc này đều sẽ dẫn tới sự tàn phá trên bán đảo Triều Tiên.
Ngoại xâm[sửa | sửa mã nguồn]
Tuyên Tổ đại vương đương thời phải giáp mặt cùng nhiều khó khăn để qiải quyết và đối phó với cả hai mối đe dọa mới. Ông cử nhiều vị tướng có tài cầm quân lên biên giới phía Bắc, trong khi ở phía Nam thì ông chỉ đàm phán với Chức Điền Tín Trường, Phong Thần Tú Cát và Đức Xuyên Gia Khang và lơi lỏng sự bố phòng. Tuy nhiên, sau khi Phong Thần Tú Cát thống nhất Nhật Bản, người Nhật đã nhanh chóng sớm chứng tỏ mình mới thực sự là mối đe dọa của Triều Tiên. Người Triều Tiên bắt đầu quan ngại và lo sợ rằng đất nước mình sẽ bị xâm lăng bởi Nhật Bản. Nhiều quan lại đã khẩn thiết yêu cầu nhà vua gửi sứ thần đến gặp Phong Thần Tú Cát, mục đích chính của họ là để tìm hiểu xem liệu có phải ông ta đang chuẩn bị cho cuộc xâm lược hay không.
Tuy nhiên, hai phái đứng đầu triều đình đã không đồng ý về vấn đề mang tầm quan trọng của đất nước, vì thế một thỏa hiệp đã được thực hiện và mỗi nhóm sẽ cử một đại diện đến gặp Phong Thần Tú Cát. Khi trở về, báo cáo của các vị đại biểu đã gây ra sự nhầm lẫn và tranh cãi nhiều hơn. Hwang Yun-gil của phái Tây Nhân bảo rằng Hideyoshi đã nâng cao thêm số lượng rất lớn cho quân đội, nhưng Kim Seong-il của phái Đông Nhân lại cho rằng những lực lượng lớn không phải là để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Triều Tiên, kể từ lúc ông ta cố gắng hoàn thành những cải cách của mình một cách nhanh chóng để ngăn chặn tình trạng vô kỉ luật và dẹp bỏ nạn cướp bóc đang lan xuống nông thôn. Khi mà phái Đông Nhân đang có tiếng nói trong triều đình lúc bấy giờ thì thông báo của Hwang đã bị bỏ qua, và Tuyên Tổ quyết định không chuẩn bị cho chiến tranh, mặc dù thái độ và lời lẽ của Phong Thần Tú Cát, trong bức thư gửi cho nhà vua rõ ràng cho thấy sự quan tâm của mình trong cuộc chinh phục của châu Á.
Trong Chiến tranh Nhật Bản - Triều Tiên (1592 - 1598), mặc dù Triều Tiên giành được thắng lợi nhưng chiến tranh đã làm cho đất nước bị suy kiệt hết sức nặng nề. Mà các triều đại sau này không bao giờ có thể lấy lại được sự thịnh vượng như trước đây.
Cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi chiến tranh kết thúc, việc tái thiết đất nước đã bị cản trở bởi hai phe phái lớn trong triều đình. Phái Đông Nhân có thể lực lớn sau chiến tranh, với nhiều người trong số đó được ca ngợi là những anh hùng quân sự. Sau đó, phái Đông Nhân lại bị chia rẽ giữa những người vào trước và sau, các cuộc tranh giành của những phe phái trở nên thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Tuyên Tổ chán nản, không màng đến chính sự nên để cho Quang Hải Quân giải quyết thay mình. Tuy nhiên, khi Nhân Mục Vương hậu sinh được vương tử cho nhà vua, vấn đề kế vị lại trở thành một sự tranh chấp giữa các phe phái trong triều, vì Quang Hải Quân là con của một hậu cung.
Năm 1608, ngày 1 tháng 2, Tuyên Tổ đại vương thăng hà ở Đức Thọ Cung, hưởng thọ 56 tuổi. Ông được an táng ở Mục Lăng (穆陵), miếu hiệu là Tuyên Tông (宣宗), thụy hiệu ngắn gọn là Chiêu Kính Thánh Duệ Đạt Hiếu Đại Vương (昭敬聖睿達孝大王). Sau khi cháu nội ông là Triều Tiên Nhân Tổ lên ngôi, ông được đổi miếu hiệu thành Tuyên Tổ, cách gọi mà ngày nay gọi ông.
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
- Thân phụ: Đức Hưng Đại viện quân Lý Triệu (德興大院君李岹; 1530 - 1559), là con trai của Triều Tiên Trung Tông và Xương tần An thị (昌嬪安氏).
- Thân mẫu: Hà Đông Phủ đại phu nhân Trịnh thị (河東府大夫人鄭氏; 1530 - 1567), con gái của Trịnh Thế Hổ (鄭世虎), sau khi thành hôn với Đức Hưng quân thì có phong hiệu là Hà Đông quạn phu nhân (河東郡夫人). Bà qua đời vào ngày 18 tháng 5, trước khi Tuyên Tổ lên ngôi 2 tháng. Sau đó, bà được tặng phong hiệu Phủ đại phu nhân (府大夫人).
- Huynh tỉ:
- Hà Nguyên quân (河原君; 1545 - 1597), lấy Nam Dương quận phu nhân Hồng thị (南陽郡夫人洪氏) và Tân An quận phu nhân Lý thị ở Tinh Châu (新安郡夫人星州李氏).
- Hà Lăng quân (河陵君; 1546 - 1592), lấy Bình Sơn quận phu nhân Thân thị (平山郡夫人申氏). Về sau nhận con nuôi thờ tự là Cẩm Nguyên quân Lý Tĩnh (錦原君李岭).
- Trinh phu nhân Lý thị (貞夫人李氏; 1548 - 1637), tên là Minh Thuận (明順), lấy Quảng Dương quân An Hoảng (廣陽君安滉).
- Hậu cung:
- Ý Nhân Vương hậu Phác thị (懿仁王后朴氏, 1555 - 1600), người ở Phan Nam, là con gái của Phan Thành phủ viện quân Phác Ứng Thuận (潘城府院君朴應順) và Hoàn Sơn phủ phu nhân Lý thị ở Toàn Châu (完山府夫人全州李氏). Bà không sinh được con.
- Nhân Mục Vương hậu Kim thị (仁穆王后金氏, 1584 - 1632), người ở Diên An, là con gái của Diên Hưng phủ viện quân Kim Đễ Nam (延興府院君金悌男) và Quang Sơn phủ phu nhân Lô thị ở Quang Châu (光山府夫人光州盧氏). Bà hạ sinh ra Vĩnh Xương Đại Quân Lý Nghĩa, con trai út của Tuyên Tổ.
- Cung tần Kim thị (1553 - 1577), người Kim Hải. Nhập cung năm 1571, ban đầu là Thục viên, dần thăng đến Quý nhân, sau khi mất truy tặng chức tần. Là sủng thiếp của Tuyên Tổ những năm đầu. Sinh bốn con trai: Lâm Hải quân, Quang Hải quân và hai vương tử chết yểu. Sau khi Quang Hải quân kế vị, truy tôn là Cung Thánh vương hậu. Quang Hải bị phế, Nhân Tổ hạ chiếu tước bỏ tôn hiệu của bà.
- Kính Huệ Nhân tần Kim thị (敬惠仁嬪金氏, 1555 - 1613), người ở Thủy Nguyện, là con gái của Kim Hán Hựu (金漢佑) và Toàn Châu Lý thị (全州李氏), sủng thiếp của Tuyên Tổ những năm cuối. Bà hạ sinh 4 vương tử và 5 vương nữ, gồm: Nghĩa An Quân, Tín Thành Quân, Định Viễn Quân, Nghĩa Xương Quân, Trinh Thận ông chúa, Trinh Huệ ông chúa, Trinh Thục ông chúa, Trinh An ông chúa và Trinh Huy ông chúa. Về sau khi cháu nội của bà là Triều Tiên Nhân Tổ kế vị, bà được dâng cung hiệu là Trữ Khánh Cung (儲慶宮).
- Thuận tần Kim thị (順嬪金氏, ? - 1647), không rõ xuất thân. Năm 1592, tấn phong Thục dung (淑容). Đến năm 1604, tấn phong làm Thục nghi (淑儀). Hạ sinh ra Thuận Hòa Quân Lý Phổ là con trai duy nhất.
- Tĩnh tần Mẫn thị (靜嬪閔氏, 1567 - 1626), người ở Li Hưng, là con gái của Mẫn Sĩ Tuấn (閔士俊) và Tân Xương Mạnh thị (新昌孟氏).
- Trinh tần Hồng thị (貞嬪洪氏), người ở Nam Dương. Con gái của Tặng Lại tào Tham phán Hồng Nhữ Khiêm và Tặng Trinh phu nhân họ Tào ở Xương Ninh.
- Ôn tần Hàn thị (溫嬪韓氏, 1581 - 1664), người ở ở Thanh Châu. Con gái của Trung nghĩa vệ Hàn Sĩ Hưởng và phu nhân họ Phác ở Trúc Sơn.
- Quý nhân Trịnh thị (貴人鄭氏), người ở Diên Nhật. Con gái của Tặng Tư hiến đại phu, Binh tào Phán thư Trịnh Hoảng và Tặng Trinh phu nhân họ Hàn ở Phú Bình.
- Thục nghi Trịnh thị (淑儀鄭氏), người ở Đông Lai. Con gái của Trịnh Thuần Hi và Phu nhân họ Doãn ở Hải Bình.
- Phế Chiêu viên họ Doãn (昭媛尹氏).
Vương tử[sửa | sửa mã nguồn]
- Lâm Hải Quân Lý Duật [臨海君李珒; 1572 - 1609], mẹ là Cung tần họ Kim. Lấy quân phu nhân họ Hứa ở Dương Xuyên. Bị em cùng mẹ là Quang Hải quân giết hại.
- Quang Hải Quân Lý Hồn [光海君李琿], mẹ là Cung tần họ Kim. Lấy Văn Thành quân phu nhân họ Liễu ở Văn Hóa.
- Nghĩa An Quân Lý Thành [義安君李珹; 1577 - 1588], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần.
- Tín Thành Quân Lý Dực [信城君李珝; 1578 - 1592], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. Lấy quận phu nhân họ Thân ở Bình Sơn.
- Định Viễn Quân Lý Phu [定遠君李琈; 1580 - 1619], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. Sinh ra Triều Tiên Nhân Tổ, được tấn tôn làm Nguyên Tông đại vương (元宗大王).
- Vương tôn tử: Chiêu Hiến Thế tử Lý Uông [昭顯世子李汪, 1612 - 1645], mẹ là Nhân Liệt Vương hậu. Lấy Mẫn Hoài tần cung Khương thị ở Câm Xuyên (愍懷嬪衿川姜氏).
- Trưởng tằng tôn nữ: Quận chúa (1629 - 1631)
- Thứ tằng tôn nữ: Quận chúa (1631 - 1640)
- Trưởng tằng tôn tử: Khánh Thiện quân Lý Bách (李栢; 1636 - 1648)
- Vương tằng tôn nữ: Khánh Thục Quận chúa (1637 - 1655), hạ giá lấy Tặng (贈) Lăng Xương Phó úy (綾昌副尉) Cù Phụng Chương (具鳳章)
- Thứ tằng tôn tử: Khánh Hoàn quân Lý Thạch Lân (李石磷; 1640 - 1648)
- Vương tằng tôn nữ: Khánh Ninh Quận chúa (1642 - 1682), hạ giá lấy Hành (行) Cẩm Xương Phó úy (錦昌副尉) Phác Thái Định (朴泰定)
- Vương tằng tôn nữ: Khánh Thuận Quận chúa Lý Chính Ôn (李正溫; 1643 - 1654), hạ giá lấy Hoàng Xương Phó úy (黃昌副尉) Biên Quang Phụ (邊光輔)
- Vương tằng tôn tử: Khánh An quân Lý Cối (李檜; 1644 - 1665)
- Vương huyền tôn tử: Lâm Xương quân Lý Hỗn (李焜)
- Vương tôn tử: Triều Tiên Hiếu Tông Lý Hạo [李淏], mẹ là Nhân Liệt Vương hậu. Đương thời ông có phong hiệu là Phượng Lâm Đại quân (鳳林大君). Lấy Nhân Tuyên vương hậu Trương thị (仁宣王后 張氏, 1618 - 1674), người ở Đức Thủy (德水).
- Vương tằng tôn tử: Triều Tiên Hiển Tông Lý Túc [李棩], lấy Minh Thánh Vương hậu Kim thị (明聖王后金氏; 1642 - 1683), người ở Thanh Phong (清風).
- Vương huyền tôn tử: Triều Tiên Túc Tông Lý Đôn [李焞], lúc mới được sinh ra đã sắc phong làm Vương thế tử. Lấy Nhân Kính Vương hậu Kim thị (仁敬王后金氏, 1661 - 1680) ở Quang Sơn (光山), Nhân Hiển Vương hậu Mẫn thị (仁顯王后閔氏, 1667 - 1701) ở Ly Hưng (驪興) và Nhân Nguyên Vương hậu Kim thị (仁元王后金氏, 1687-1757) ở Khánh Châu (慶州).
- Vương lai tôn tử: Triều Tiên Cảnh Tông Lý Quân [李昀], mẹ là Ngọc Sơn phủ Đại tần Trương thị. Lấy Đoan Ý vương hậu Thẩm thị (端懿王后沈氏, 1686 - 1718) ở Thanh Tùng và Tuyên Ý vương hậu Ngự thị (宣懿王后魚氏, 1705 - 1730) ở Hàm Tùng.
- Vương lai tôn tử: Triều Tiên Anh Tổ Lý Khâm [李昑], nguyên phong là Diên Nhưng Quân (延礽君), mẹ là Hòa Kính Thục tần Thôi thị. Lấy Trinh Thánh Vương hậu Từ thị (貞聖王后徐氏, 1692 - 1757) ở Đạt Thành và Trinh Thuần Vương hậu Kim thị (貞純王后金氏, 1745 - 1805) ở Khánh Châu.
- Vương côn tôn tử: Hiếu Chương Thế tử [孝章世子, 1719 – 1728], mẹ là Ôn Hi Tĩnh tần Lý thị. Truy tặng làm Chân Tông đại vương (真宗大王). Lấy Hiếu Thuần Vương hậu Triệu thị (孝純賢嬪趙氏, 1715 - 1751) ở Phong Nhưỡng.
- Vương côn tôn tử: Trang Hiến Thế tử [莊獻世子, 1735 - 1762], mẹ là Chiêu Dụ Ánh tần Lý thị. Truy tặng làm Trang Tổ Ý hoàng đế (莊祖懿皇帝). Lấy Hiến Kính Vương hậu Hồng thị (獻敬惠嬪洪氏, 1735 - 1815) ở Phong Sơn.
- Vương nhưng tôn tử: Ý Chiêu Thế tôn Lý Chấn (懿昭世孫李琔, 1750 - 1752), mẹ là Hiến Kính Vương hậu.
- Vương nhưng tôn tử: Triều Tiên Chính Tổ Lý Toán [李祘]. Lấy Hiếu Ý Vương hậu Kim thị (孝懿王后 金氏, 1753 - 1821) ở Thanh Phong.
- Vương vân tôn tử: Văn Hiếu Vương thế tử Lý Hanh (文孝王世子李㬀, 1782 - 1786), mẹ là Nghi tần Thành thị. Thời Đại Hàn Đế quốc, truy tặng làm Văn Hiếu Hoàng thái tử (文孝皇太子).
- Vương vân tôn tử: Triều Tiên Thuần Tổ Lý Công (李玜), mẹ là Hiển Mục Tuy tần Phác thị. Lấy Thuần Nguyên Vương hậu Kim thị (純元王后金氏, 1789 - 1857) ở An Đông.
- Vương nhĩ tôn tử: Hiếu Minh Thế tử (孝明世子, 1809 -1830) Lý Thái (李旲), sau được truy phong làm Dực Tông đại vương (翼宗大王). Lấy Thần Trinh Vương hậu Triệu thị ở Phong Nhưỡng (神貞王后趙氏).
- Vương tự tôn tử: Triều Tiên Hiến Tông Lý Hoán (李煥). Lấy Hiếu Hiển vương hậu Kim thị và Hiếu Định vương hậu Hồng thị.
- Vương nhĩ tôn tử: Hiếu Minh Thế tử (孝明世子, 1809 -1830) Lý Thái (李旲), sau được truy phong làm Dực Tông đại vương (翼宗大王). Lấy Thần Trinh Vương hậu Triệu thị ở Phong Nhưỡng (神貞王后趙氏).
- Vương nhưng tôn tử: Ân Ngạn quân Lý Nhân (恩彦君李䄄, 1754 - 1801), mẹ là Túc tần Lâm thị. Lấy Thường Sơn quận phu nhân họ Tống ở Trấn Xuyên và Toàn Sơn quận phu nhân họ Lý ở Toàn Châu.
- Vương vân tôn tử: Toàn Khê Đại viện quân Lý Khoáng (李壙). Lấy Long Thành phủ đại phu nhân Liêm thị ở Long Đàm (龍城府大夫人龍潭廉氏).
- Vương nhĩ tôn tử: Triều Tiên Triết Tông Lý Biện (李昪). Lấy Triết Nhân vương hậu Kim thị ở An Đông.
- Vương vân tôn tử: Toàn Khê Đại viện quân Lý Khoáng (李壙). Lấy Long Thành phủ đại phu nhân Liêm thị ở Long Đàm (龍城府大夫人龍潭廉氏).
- Vương huyền tôn nữ: Công chúa [公主; 1658], chết yểu.
- Vương huyền tôn nữ: Minh Thiện công chúa [明善公主; 1659 - 1673], chết trẻ.
- Vương huyền tôn nữ: Minh Huệ công chúa [明惠公主; 1662 - 1679], chết trẻ.
- Vương huyền tôn nữ: Minh An công chúa [明安公主; 1665 - 1687], hạ giá lấy Hải Xương úy Ngô Thái Chu (吳泰周).
- Vương huyền tôn tử: Triều Tiên Túc Tông Lý Đôn [李焞], lúc mới được sinh ra đã sắc phong làm Vương thế tử. Lấy Nhân Kính Vương hậu Kim thị (仁敬王后金氏, 1661 - 1680) ở Quang Sơn (光山), Nhân Hiển Vương hậu Mẫn thị (仁顯王后閔氏, 1667 - 1701) ở Ly Hưng (驪興) và Nhân Nguyên Vương hậu Kim thị (仁元王后金氏, 1687-1757) ở Khánh Châu (慶州).
- Vương tằng tôn nữ: Thục Thận công chúa (淑愼公主), mất sớm.
- Vương tằng tôn nữ: Thục An công chúa (淑安公主, 1636 - 1697), mẹ là Nhân Tuyên vương hậu. Hạ giá lấy Ích Bình úy Hồng Đắc Cơ (洪得箕).
- Vương tằng tôn nữ: Thục Minh công chúa (淑明公主, 1640 - 1699), mẹ là Nhân Tuyên vương hậu. Hạ giá lấy Thanh Bình úy Thẩm Ích Hiển (沈益顯).
- Vương tằng tôn nữ: Thục Huy công chúa (淑徽公主, 1642 - 1696), mẹ là Nhân Tuyên vương hậu. Hạ giá lấy Dần Bình úy Trịnh Tề Hiền (鄭齊賢).
- Vương tằng tôn nữ: Thục Tĩnh công chúa (淑靜公主, 1645 - 1645), mẹ là Nhân Tuyên vương hậu. Hạ giá lấy Đông Bình úy Trịnh Tải Lôn (鄭載崙).
- Vương tằng tôn nữ: Thục Kính công chúa (淑敬公主, 1648 - 1671), mẹ là Nhân Tuyên vương hậu. Hạ giá lấy Hưng Bình úy Nguyên Mộng Lân (元夢鱗).
- Vương tằng tôn nữ: Thục Ninh ông chúa (淑寧翁主, 1649 - 1668), con gái duy nhất của Lý An tần. Hạ giá lấy Cẩm Bình úy Phác Bật Thành (朴弼成).
- Vương tằng tôn tử: Triều Tiên Hiển Tông Lý Túc [李棩], lấy Minh Thánh Vương hậu Kim thị (明聖王后金氏; 1642 - 1683), người ở Thanh Phong (清風).
- Vương tôn tử: Lân Bình Đại quân (麟坪大君, 1622-1658), mẹ là Nhân Liệt Vương hậu.
- Vương vân tôn tử: Nam Diên quân Lý Cầu [李球]
- Vương nhĩ tôn tử: Hưng Tuyên Đại Viện Quân Lý Thị Ứng (李昰應).
- Vương tự tôn tử: Triều Tiên Cao Tông Lý Mệnh Phúc (李命福).
- Triều Tiên Thuần Tông Lý Thạch (李坧).
- Vương tự tôn tử: Triều Tiên Cao Tông Lý Mệnh Phúc (李命福).
- Vương nhĩ tôn tử: Hưng Tuyên Đại Viện Quân Lý Thị Ứng (李昰應).
- Vương vân tôn tử: Nam Diên quân Lý Cầu [李球]
- Vương tôn tử: Long Thành Đại quân (1624-1629), mẹ là Nhân Liệt Vương hậu.
- Vương tôn tử: Sùng Thiện quân Lý Trừng [崇善君李澂, 1639 - 1690], mẹ là Phế Quý nhân Triệu thị. Lấy Vĩnh Phong quận phu nhân Thân thị ở Bình Sơn.
- Vương tằng tôn tử: Đông Bình quân Lý Hàng (李杭; 1660 - 1701).
- Vương tằng tôn tử: Đông Thành Đô chính Lý Cương (李棡).
- Vương tôn tử: Lạc Thiện quân Lý Tiêu [樂善君李潚, 1641 - 1695], mẹ là Phế Quý nhân Triệu thị. Lấy Đông Nguyện quận phu nhân Kim thị ở Giang Lăng.
- Vương tôn nữ: Công chúa [公主; 1625], mẹ là Nhân Liệt Vương hậu, chết yểu.
- Vương tôn nữ: Phế Hiếu Minh ông chúa [廢孝明翁主; ? - 1700], mẹ là Phế Quý nhân Triệu thị. Hạ giá lấy Lạc Thành úy Kim Thế Long (金世龍).
- Vương tôn tử: Chiêu Hiến Thế tử Lý Uông [昭顯世子李汪, 1612 - 1645], mẹ là Nhân Liệt Vương hậu. Lấy Mẫn Hoài tần cung Khương thị ở Câm Xuyên (愍懷嬪衿川姜氏).
- Thuận Hòa Quân Lý Thổ [順和君李𤣰; 1580 - 1607], mẹ là Thuận tần Kim thị. Lấy quận phu nhân họ Hoàng ở Trường Thủy
- Nhân Thành Quân Lý Cộng [仁城君李珙; 1588 - 1628], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Lấy Hải Bình quận phu nhân họ Doãn
- Nghĩa Xương Quân Lý Quang [義昌君李珖; 1589 - 1645], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. Lấy quận phu nhân họ Hứa ở Dương Xuyên
- Khánh Xương Quân Lý Đan [慶昌君李珘; 1596 - 1604], mẹ là Trinh tần Hồng thị. Lấy quận phu nhân họ Tào ở Xương Ninh
- Hưng An Quân Lý Thi [興安君李瑅; 1598 - 1624], mẹ là Ôn tần Hàn thị. Lấy quận phu nhân họ Hàn ở Thanh Châu và quận phu nhân họ Doãn ở Pha Bình.
- Khánh Bình Quân Lý Lực [慶平君李玏; 1600 - 1643], mẹ là Ôn tần Hàn thị. Lấy quận phu nhân họ Thôi ở Sóc Ninh.
- Nhân Hưng Quân Lý Anh [仁興君李瑛; 1604 - 1651], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Lấy quận phu nhân họ Tống ở Lệ Sơn.
- Ninh Thành Quân Lý Quý [寧城君李㻑; 1606 - 1649], mẹ là Ôn tần Hàn thị. lấy quận phu nhân họ Hoàng ở Xương Nguyện.
- Vĩnh Xương Đại Quân Lý Nghĩa [永昌大君李㼁; 1606 - 1614], mẹ là Nhân Mục Vương hậu.
Vương nữ[sửa | sửa mã nguồn]
- Trinh Thận Ông chúa [貞慎翁主; 1582 - 1653], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Đạt Thành úy Từ Cảnh Thọ (徐景霌).
- Trinh Huệ Ông chúa [貞惠翁主; 1584 - 1638], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Hải Tung úy Doãn Tân Chi (尹新之).
- Trinh Thục Ông chúa [貞淑翁主; 1587 - 1627], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Đông Dương úy Thân Dực Thánh (申翊聖).
- Trinh Nhân Ông chúa [貞仁翁主; 1590 - 1656], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Hạ giá lấy Đường Nguyện úy Hồng Hữu Kính (洪友敬).
- Trinh An Ông chúa [貞安翁主; 1590 - 1660], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Cẩm Dương quân Phác Di (朴瀰).
- Trinh Huy Ông chúa [貞徽翁主; 1593 - 1653], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Toàn Xương quân Liễu Đình Lượng (柳廷亮).
- Trinh Thiện Ông chúa [貞善翁主; 1594 - 1614], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Hạ giá lấy Cát Thành quân Quyền Đại Nhâm (權大任).
- Trinh Chính Ông chúa [貞正翁主; 1595 - 1666], mẹ là Trinh tần Hồng thị. Hạ giá lấy Tấn An úy Liễu Phước (柳頔).
- Trinh Cẩn Ông chúa [貞謹翁主; 1599 - 1613], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Hạ giá lấy Nhất Thiện úy Kim Khắc Tấn (金克鑌).
- Trinh Minh Công chúa [貞明公主; 1603 - 1685], mẹ là Nhân Mục Vương hậu. Hạ giá lấy Vĩnh An úy Hồng Trụ Nguyên (洪柱元).
- Công chúa [公主; 1604], mẹ là Nhân Mục vương hậu.
- Trinh Hòa Ông chúa [貞和翁主; 1604 - 1666], mẹ là Ôn tần Hàn thị. Hạ giá lấy Đông Xương úy Quyền Đại Hằng (權大恒).
Thụy hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
- King Seonjo Sogyung Jeongryun Ripgeuk Seongdeok Hongryeol Jiseong Daeeui Gyeokcheon Heeun Gyungmyung Sinryeok Honggong Yungeop Hyeonmun Euimu Seongye Dalhyo the Great of Korea.
- 선조소경정륜립극성덕홍렬지성대의격천희운경명신력홍공융업현문의무성예달효대왕.
- 宣祖昭敬正倫立極盛德洪烈至誠大義格天熙運景命神曆弘功隆業顯文毅武聖睿達孝大王.
- Tuyên Tổ Chiêu Kính Chính Luân Lập Cực Thịnh Đức Hồng Liệt Chí Thành Đại Nghĩa Cách Thiên Hy Vận Cảnh Mệnh Thần Lịch Hoằng Công Long Nghiệp Hiển Văn Nghị Vũ Thánh Duệ Đạt Hiếu Đại Vương.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Bài này được dịch từ Wikipedia tiếng Anh và tiếng Trung.