Yann Aurel Bisseck

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Yann Aurel Bisseck
Bisseck trong màu áo 1. FC Köln năm 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Yann Aurel Ludger Bisseck[1]
Ngày sinh 29 tháng 11, 2000 (23 tuổi)
Nơi sinh Köln, Đức
Chiều cao 1,96 m
Vị trí Trung vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
Inter Milan
Số áo 31
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2004–2007 SV Adler Dellbrück
2007–2018 1. FC Köln
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2017–2021 1. FC Köln 3 (0)
2018 1. FC Köln II 15 (2)
2019Holstein Kiel (mượn) 3 (0)
2019Holstein Kiel II (mượn) 5 (0)
2019–2020Roda JC (mượn) 10 (1)
2020–2021Vitória Guimarães B (mượn) 9 (1)
2021–2022AGF (mượn) 30 (1)
2022–2023 AGF 32 (4)
2023– Inter Milan 13 (2)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2016–2017 U-17 Đức 4 (1)
2018 U-18 Đức 3 (0)
2018–2019 U-19 Đức 7 (1)
2022–2023 U-21 Đức 8 (1)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22:56, 17 tháng 3 năm 2024 (UTC)
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 19:14, 28 tháng 6 năm 2023 (UTC)

Yann Aurel Ludger Bisseck (sinh ngày 29 tháng 11 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ bóng đá Inter Milan tại Serie A.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

1. FC Köln[sửa | sửa mã nguồn]

Bisseck bắt đầu chơi bóng tại SV Adler Dellbrück và chuyển đến học viện trẻ của 1. FC Köln. Ban đầu, anh được xếp vào đội trẻ F (U8).

Bisseck có trận ra mắt cho đội một của 1. FC Köln trước Hertha BSC vào ngày 26 tháng 11 năm 2017 ở tuổi 16 khiến anh trở thành cầu thủ người Đức trẻ nhất ra sân trong một trận đấu tại Bundesliga.[2] Lần ra sân này của Bisseck cũng khiến anh trở thành cầu thủ trẻ thứ hai trong lịch sử giải đấu sau Nuri Şahin.[2]

Cho mượn tại các câu lạc bộ khác nhau[sửa | sửa mã nguồn]

Vào giữa tháng 1 năm 2019, Bisseck chuyển đến Holstein Kiel dưới dạng cho mượn.[3] Tính đến cuối mùa giải 2018–19, anh đã ra sân ba lần ở giải hạng hai dưới thời huấn luyện viên Tim Walter. Ngoài ra, Bisseck còn ra sân bốn lần cho đội hai ở giải hạng tư Regionalliga Nord.

Sau khi Bisseck chỉ ra sân một lần ở Regionalliga Nord vào đầu mùa giải mới, hợp đồng cho mượn với Holstein Kiel đã được kết thúc sớm vào cuối tháng 8 năm 2019. Bisseck sau đó được cho câu lạc bộ hạng hai Hà Lan là Roda JC Kerkrade mượn đến hết mùa giải 2019–20.[4] Tuy nhiên, anh chỉ có thể ra sân cho Roda JC vào tháng 11 do chấn thương ở chân. Sau đó, anh đã ra sân 10 lần ở giải đấu và ghi được một bàn thắng. Mùa giải đã bị hủy vào tháng 3 sau ngày thi đấu thứ 29 vì đại dịch COVID-19 và Bisseck rời câu lạc bộ khi hết hạn hợp đồng.

Trong mùa giải 2020–21, Bisseck gia hạn hợp đồng với 1. FC Köln đến ngày 30 tháng 6 năm 2023 và chuyển đến câu lạc bộ hạng nhất Bồ Đào Nha Vitória Guimarães theo dạng cho mượn có thời hạn hai năm với điều khoản tùy chọn mua.[5] Vì chưa thể khẳng định mình với đội một nên anh chỉ thi đấu cho đội hai. Bisseck đã chơi 9 trận cho đội hai ở giải hạng ba Campeonato Nacional de Seniores, trong đó anh ghi được một bàn thắng.

AGF[sửa | sửa mã nguồn]

Bisseck đã kết thúc thời gian thi đấu dưới dạng cho mượn ở Bồ Đào Nha sau khi không đạt được mong muốn gì. Tiếp theo đó, anh được cho câu lạc bộ hạng nhất Đan Mạch là AGF mượn cho mùa giải 2021–22.[6] Trong thời gian gắn bó của Bisseck với AGF, anh ngay lập tức trở thành cầu thủ đá chính và sau đó ký hợp đồng vào cuối năm 2021 có thời hạn đến ngày 30 tháng 6 năm 2026.[7]

Inter Milan[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 12 tháng 7 năm 2023, Bisseck gia nhập câu lạc bộ Inter Milan tại Serie A trong bảng hợp đồng có thời hạn đến năm 2028 với trị giá khoảng 7 triệu euro kèm theo chi phí phụ.[8]

Bisseck có trận ra mắt cho Inter trong chiến thắng 2–0 trước Monza trong trận mở màn mùa giải 2023–24 của đội.[9] Anh có trận đấu đầu tiên tại UEFA Champions League trong chiến thắng 1–0 trước RB Salzburg vào ngày 8 tháng 11 năm 2023.[10]

Vào ngày 23 tháng 12, Bisseck ghi bàn thắng đầu tiên cho Inter trong chiến thắng 2–0 trước Lecce tại San Siro.[11]

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bisseck từng là cầu thủ trẻ của Đức. Anh từng thi đấu cho đội U-17 Đức kể từ ngày từ tháng 11 năm 2016. Cùng với đội U-17, anh đã tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 thế giớiẤn Độ vào tháng 10 năm 2017, trong đó anh chơi ba trận và ghi một bàn thắng. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2018, Bisseck có 3 lần ra sân cho đội U-18 Đức. Kể từ năm 2018 đến năm 2019, anh đã thi đấu cho đội U-19 Đức.[12]

Sau hơn ba năm không thi đấu quốc tế, Bisseck có trận ra mắt đội tuyển U-21 quốc gia do huấn luyện viên Antonio Di Salvo vào tháng 6 năm 2022 trong khuôn khổ vòng loại Giải vô địch U-21 châu Âu 2023.

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Bisseck sinh ngày 29 tháng 11 năm 2000 tại Köln, Đức, có cha mẹ là người Cameroon. Trước khi anh chào đời, cha mẹ anh đã đến Đức từ Cameroon sau khi nhận được học bổng.[13]

Ở tuổi 16, Bisseck đậu bằng tốt nghiệp trung học (Abitur).[14] Từ học kỳ mùa đông năm 2017, anh lần đầu tiên đi học kinh tế tại Đại học Köln[15] và sau đó là khóa học từ xa về Quản lý Truyền thông và Tiếp thị tại trường Đại học Khoa học Ứng dụng Köln.[13]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 17 tháng 3 năm 2024[16]
Số lần ra sân và bàn thắng theo câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia[a] Châu lục Khác Tổng cộng
Hạng đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
1. FC Köln 2017–18 Bundesliga 3 0 0 0 3 0
1. FC Köln II 2017–18 Regionalliga 1 0 1 0
2018–19 14 2 14 2
Tổng cộng 15 2 0 0 0 0 0 0 15 2
Holstein Kiel (mượn) 2018–19 2. Bundesliga 3 0 0 0 3 0
Holstein Kiel II (mượn) 2018–19 Regionalliga 4 0 4 0
2019–20 1 0 1 0
Tổng cộng 5 0 0 0 0 0 0 0 5 0
Roda (mượn) 2019–20 Eerste Divisie 10 1 0 0 10 1
Vitória Guimarães B (mượn) 2020–21 Campeonato do Portugal 9 1 9 1
AGF (mượn) 2021–22 Danish Superliga 30 1 1 0 2[b] 0 33 1
AGF 2022–23 Danish Superliga 32 4 3 1 35 5
Tổng cộng 62 7 4 1 2 0 0 0 68 6
Inter Milan 2023–24 Serie A 13 2 1 0 3[c] 0 1[d] 0 18 2
Tổng cộng sự nghiệp 120 11 5 1 5 0 1 0 131 12

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Inter Milan

Cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “FIFA U-17 World Cup India 2017 – List of Players” (PDF). FIFA.com (bằng tiếng Anh). FIFA. 28 tháng 10 năm 2017. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ a b Quang Minh (27 tháng 11 năm 2017). “Yann Bisseck trở thành cầu thủ Đức trẻ nhất lịch sử Bundesliga”. Bongdaplus-Báo Bóng đá. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ “U19-Nationalspieler Yann Aurel Bisseck kommt aus Köln” [Cầu thủ đội tuyển U19 quốc gia Yann Aurel Bisseck đến từ Cologne]. Holstein Kiel (bằng tiếng Đức). 17 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ “Roda JC Kerkrade contracteert Yann Aurel Bisseck” [Roda JC Kerkrade ký hợp đồng với Yann Aurel Bisseck]. Roda JC Kerkrade (bằng tiếng Hà Lan). 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ “1. FC Köln: Yann Aurel Bisseck wechselt đến Portugal” [1. FC Köln: Yann Aurel Bisseck chuyển sang Bồ Đào Nha]. Bundesliga (bằng tiếng Đức). 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ “Yann Aurel Bisseck wechselt zu Aarhus GF” [Yann Aurel Bisseck chuyển đến Aarhus GF]. 1. FC Köln (bằng tiếng Đức). 22 tháng 6 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ “Yann Bisseck bliver i AGF” [Yann Bisseck sẽ ở lại AGF] (bằng tiếng Đan Mạch). 27 tháng 10 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ Hưng Tình (13 tháng 7 năm 2023). “Inter Milan công bố trung vệ thay thế Milan Skriniar”. Báo Lao Động. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ “Six debuts, one return and an unstoppable Lauti: Inter's opener”. FC Internazionale Milano (bằng tiếng Anh). 19 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ “FC Salzburg 0-1 Inter”. UEFA (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  11. ^ “A first Inter goal for Bisseck: "I felt the joy of the entire stadium". FC Internazionale Milano (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ “Personenprofil von Yann-Aurel Bisseck” [Hồ sơ cá nhân của Yann-Aurel Bisseck]. Trung tâm dữ liệu DFB (DFB Datencenter) (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  13. ^ a b Auf einen Kaffee mit... Yann Aurel Bisseck [Một cốc cà phê với... Yann Aurel Bisseck] (Video) (bằng tiếng Đức). 14 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  14. ^ Steinberg, Arne (29 tháng 11 năm 2018). “Yann Aurel Bisseck: Ein Lichtblick in düsteren Zeiten” [Yann Aurel Bisseck: Tia hy vọng trong những thời kỳ đen tối]. effzeh.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  15. ^ Krämer, Jonas (26 tháng 11 năm 2017). “Jüngster FC-Debütant Wer ist Yann Aurel Bisseck? Er durfte gegen Hertha ran” [Cầu thủ trẻ nhất ra mắt FC Yann Aurel Bisseck là ai? Anh ấy được phép thi đấu với Hertha đấy.]. Express. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ Yann Aurel Bisseck tại Soccerway
  17. ^ “Internazionale seal historic 20th Serie A title with derby victory over Milan”. The Guardian. 22 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2024.
  18. ^ Nguyên Lâm (23 tháng 1 năm 2024). “Inter Milan giành Siêu cúp Ý lần thứ 3 liên tiếp”. Người Lao Động. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  19. ^ “Fritz-Walter-Medaille in Gold an Kühn, Bühl und Adeyemi” [Huy chương vàng Fritz Walter được trao cho Kühn, Bühl và Adeyemi] (bằng tiếng Đức). Hiệp hội Bóng đá Đức (DFB). 6 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]