Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cổng thông tin:Chiến tranh thế giới thứ hai”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Quangbao (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 18: Dòng 18:
<div style="float:left; width:55%;">
<div style="float:left; width:55%;">


{{Random portal component|header=''Bài viết chọn lọc''|subpage=Bài viết chọn lọc|max=16|seed=15}}
{{Random portal component|header=''Bài viết chọn lọc''|subpage=Bài viết chọn lọc|max=19|seed=18}}
{{Random portal component|header=''Khí tài quân sự''|subpage=Thiết bị và phương tiện được chọn|max=6|seed=5}}
{{Random portal component|header=''Khí tài quân sự''|subpage=Thiết bị và phương tiện được chọn|max=6|seed=5}}
{{Random portal component|header=''Bài viết tiêu biểu''|subpage=Bài viết tiêu biểu|max=22|seed=21}}
{{Random portal component|header=''Bài viết tiêu biểu''|subpage=Bài viết tiêu biểu|max=22|seed=21}}

Phiên bản lúc 14:42, ngày 13 tháng 2 năm 2011

Trang Chính   Bản đồ

Cổng tri thức Chiến tranh thế giới thứ hai

Tổng quan các mặt trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
Tổng quan các mặt trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).

Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm 1937 hoặc 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng MinhTrục (phát-xít). Hầu hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực. Nó là cuộc chiến rộng lớn và tai hại nhất trong lịch sử nhân loại.

Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương và phần lớn của Đông ÁĐông Nam Á. Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5, 1945 nhưng vẫn còn tiếp diễn tại châu Á cho đến khi Nhật đầu hàng vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai phái: một phía chịu ảnh hưởng phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước chịu sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ được phục hồi kinh tế sau khi nhận được viện trợ từ Kế hoạch Marshall trong khi các nước kia trở thành các nước cộng sản phụ thuộc Liên Xô. Tây Âu liên kết đồng minh trong Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương, trong khi các nước Đông Âu liên kết đồng minh theo Hiệp ước Warszawa. Các liên minh này đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh Lạnh sau này. Tại châu Á, sự chiếm đóng Nhật Bản của quân đội Hoa Kỳ đã Tây hóa nước này, trong khi Trung Quốc bị chia ra thành hai nước: nước cộng sản Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Trung Hoa Dân quốc tại Đài Loan. [ Đọc tiếp ]

Bài viết chọn lọc

Xác quân lính và xe tăng bị phá hủy thuộc Quân đoàn 17 Lục quân Nhật Bản tại cửa sông Matanikau sau cuộc tấn công phòng tuyến Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ thất bại ngày 23-24 tháng 10, 1942.
Trận chiến sân bay Henderson, hay còn được bên Nhật Bản gọi là trận Lunga Point, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal thuộc quần đảo Solomon. Trận đánh này diễn ra ở cả trên bộ, trên biển và trên không giữa Lục quânHải quân Đế quốc Nhật Bản với quân Đồng Minh (chủ yếu là Thủy quân lục chiến Hoa KỳLục quân Hoa Kỳ). Trận đánh này là một trong ba cuộc tấn công lớn của lục quân Nhật tại Guadalcanal.

Kết quả của trận đánh là nhiều cuộc tấn công của Quân đoàn 17 Lục quân Nhật Bản kéo dài trong ba ngày do trung tướng Harukichi Hyakutake chỉ huy đã bị lực lượng thủy quân lục chiến của thiếu tướng Alexander Vandegrift đẩy lùi với thương vong rất lớn của quân Nhật. Lực lượng Hoa Kỳ đã bảo vệ thành công phòng tuyến Lunga, vành đai bảo vệ sân bay Henderson tại Guadalcanal trong khi các máy bay của họ xuất phát từ chính sân bay này cũng đã tấn công các lực lượng hải quân và không quân Nhật.

Trận đánh này là cuộc tấn công trên bộ cuối cùng của quân Nhật tại Guadalcanal. Sau khi nỗ lực tăng thêm quân của người Nhật thất bại trong trận Hải chiến Guadalcanal vào tháng 11 năm 1942, quân Nhật xem như đã bị đánh bại và cuối cùng đã rút lui khỏi hòn đảo vào tháng 2 năm 1943.

Khí tài quân sự

Pháo đài bay B-17 Flying Fortress.
Boeing B-17 Flying Fortress (Pháo đài bay) là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ (USAAC) và được đưa vào sử dụng vào cuối những năm 1930. Cạnh tranh cùng với Douglas Aircraft Company và Glenn L. Martin Company trong một hợp đồng chế tạo 200 máy bay ném bom, thiết kế của hãng Boeing vượt trội hơn cả hai đối thủ và vượt xa những yêu cầu của Không lực. Cho dù Boeing bị mất hợp đồng do máy bay nguyên mẫu bị rơi, Không lực Mỹ vẫn bị ấn tượng bởi thiết kế của Boeing và đặt hàng 13 chiếc B-17. B-17 Flying Fortress tiếp tục được đưa vào sản xuất và được xem là chiếc máy bay lớn đầu tiên sản xuất hàng loạt, lần lượt trãi qua nhiều phiên bản cải tiến từ B-17A đến B-17G.

B-17 được Không lực Mỹ sử dụng chủ yếu trong các chiến dịch ném bom chiến lược chính xác ban ngày vào các mục tiêu công nghiệp, quân sự và dân sự của Đức trong Thế Chiến II. Các đơn vị Mỹ là Không Lực 8 đóng tại Anh và Không Lực 15 đóng tại Ý góp phần bổ sung cho nhiệm vụ ném bom khu vực ban đêm của Bộ chỉ huy Không quân Ném bom thuộc Không quân Hoàng gia Anh trong chiến dịch Pointblank, giúp đạt được ưu thế trên không trên các thành phố, nhà máy và chiến trường Tây Âu chuẩn bị cho Trận chiến Normandy. B-17 cũng tham gia, với quy mô hạn chế hơn, tại Mặt trận Thái Bình Dương, không kích vào tàu bè và sân bay Nhật Bản.

Ngay từ trước chiến tranh, Không lực Mỹ (sau này là Không quân Hoa Kỳ) đã xem máy bay này là vũ khí chiến lược quan trọng có uy lực lớn, bay cao, ném bom tầm xa, có sức phá hủy lớn trong khi có khả năng tự phòng thủ, và nhất là khả năng quay về sân bay nhà cho dù hư hại nặng trong chiến đấu. Độ bền của nó, nhất là đáp bằng bụng và đáp trên mặt nước, nhanh chóng lan truyền như một huyền thoại. Những câu chuyện và hình ảnh những chiếc B-17 sống sót sau những hư hại trong chiến đấu được truyền tay nhau, càng nâng cao tính biểu tượng của nó. Cho dù tầm bay và tải trọng bom đều kém hơn so với chiếc B-24 Liberator vốn có số lượng nhiều hơn, một cuộc điều tra trên các phi đội của Không Lực 8 cho thấy mức độ hài lòng cao hơn dành cho chiếc B-17. Với trần bay cao hơn mọi máy bay Đồng Minh đương thời, bản thân B-17 trở nên một hệ thống vũ khí tuyệt vời, ném nhiều bom hơn bất kỳ máy bay Mỹ nào khác trong Thế Chiến II. Trong số 1,5 triệu tấn bom từng được máy bay ném xuống Đức, 640.000 tấn đã được ném bởi B-17.

Bài viết tiêu biểu

Haruna vào năm 1934, sau khi được tái cấu trúc đợt hai.
Haruna (tiếng Nhật: 榛名), tên được đặt theo đỉnh núi Haruna, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong cả Thế Chiến IThế Chiến II. Nó là chiếc thứ tư và là chiếc cuối cùng của lớp Kongō. Được thiết kế bởi kỹ sư hàng hải người Anh George Thurston như một tàu chiến-tuần dương, nó được cải tạo hai lần trong suốt quá trình phục vụ: lần thứ nhất thành một thiết giáp hạm vào năm 1926, và lần thứ hai thành một thiết giáp hạm nhanh vào năm 1933.

Vào ngày 18 tháng 1 năm 1942, Lực lượng Chủ lực của Đô đốc Kondo đến Palau cùng với hai tàu sân bay nhanh với ý định yểm trợ cho cuộc chiếm đóng Borneo và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Vào ngày 29 tháng 5 năm 1942, Haruna hợp cùng chiếc tàu chị em với nó Kirishima tham gia lực lượng tàu sân bay của Phó Đô đốc Chūichi Nagumo trong trận Midway. Vào ngày 4 tháng 6, Haruna chịu đựng nhiều đợt tấn công của máy bay ném ngư lôi Mỹ, nhưng nó thoát ra mà không bị đánh trúng cú nào trong khi bắn rơi được năm máy bay đối phương. Sang ngày 5 tháng 6, Haruna vớt những người sống sót trên bốn chiếc tàu sân bay bị đánh chìm trước khi quay trở về Nhật Bản. Nó ở lại vùng biển Nhật Bản cho đến tháng 9 năm 1942, trải qua một số cải tiến nhỏ trong tháng 8 năm đó. Vào ngày 6 tháng 9 năm 1942, Haruna cùng với phần còn lại của Hải đội Thiết giáp hạm 3 được chuyển đến Truk, và đến ngày 10 tháng 9 năm 1942 con tàu khởi hành trong đội hình của Hạm đội 2 dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Kondo hướng về quần đảo Solomon. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1942, hạm đội được lệnh quay trở về Truk. Hai ngày sau trận chiến mũi Esperance, 13 tháng 10 năm 1942, HarunaKongō tham gia vào cuộc bắn phá sân bay Henderson, đã nả 918 quả đạn pháo 356 mm (14 inch), gây hư hỏng nặng cho sân bay cùng phá hủy 48 máy bay. Từ ngày 24 tháng 7 năm 1945, Lực lượng Đặc nhiệm TF38 của Hải quân Mỹ bắt đầu một loạt các cuộc không kích xuống căn cứ hải quân Kure với ý định tiêu diệt hoàn toàn phần còn lại của Hải quân Nhật. Trong ngày 24 tháng 7 năm 1945, thiết giáp hạm Hyūga bị đánh chìm, và Haruna bị đánh trúng một quả bom gây hư hại nhẹ. Ngày 28 tháng 7 năm 1945, Haruna chịu đựng một cuộc không kích nặng nề bởi máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm TF38, bị đánh trúng chín quả bom trước khi bị chìm tại nơi neo đậu lúc 16 giờ 15 phút. Trong hai ngày bị tấn công, 65 sĩ quan và thủy thủ của chiếc Haruna đã bị thiệt mạng. Đến năm 1946, phần còn lại của chiếc Haruna được trục vớt lên khỏi mặt nước, và trong hai năm sau đó nó được tháo dỡ.


Hình ảnh chọn lọc

Pháo đài bay B-17.

Boeing B-17 Flying Fortress (Pháo đài bay B-17) là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ (USAAC) và được đưa vào sử dụng vào cuối những năm 1930. Cạnh tranh cùng với Douglas và Martin trong một hợp đồng chế tạo 200 máy bay ném bom, thiết kế của hãng Boeing vượt trội hơn cả hai đối thủ và vượt xa những yêu cầu của Không lực.

Nhân vật lịch sử

Douglas MacArthur.
Thống tướng Douglas MacArthur (26 tháng 1 năm 1880 - 5 tháng 4 năm 1964) là một vị tướng của Hoa Kỳ và là Thống tướng Quân đội Philippines (Field Marshal of the Philippines Army). Ông là Tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ trong suốt thập niên 1930 và sau đó đã đóng một vai trò quan trọng trên mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai. MacArthur đã nhận được Huân chương Danh dự. Ông được bổ nhiệm chỉ huy cuộc xâm chiếm Nhật Bản mà đã được hoạch định tiến hành vào tháng 11 năm 1945. Nhưng khi thấy không còn cần thiết nữa, MacArthur chính thức chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Ông được biết đến với câu nói quân sự nổi tiếng: "In war, there is no substitute for victory" (Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng). MacArthur đã chiến đấu trong 3 cuộc chiến lớn (Đệ nhất Thế chiến, Đệ nhị Thế chiến và Chiến tranh Triều Tiên) và là một trong 5 người được phong quân hàm Thống tướng (General of the Army).

Bạn có biết...

Bạn có biết...
Bạn có biết...

Thể loại

Không có thể loại con

Diễn biến chiến sự

Châu Âu

Chiến trường châu Âu (1939-1945)
  Đồng MinhLiên Xô từ năm 1941
  Liên Xô đến năm 1941
  Nước trung lập

Châu Á-Thái Bình Dương

Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương (1937-1945)
  Đồng MinhLiên Xô từ năm 1941
  Liên Xô đến năm 1941
  Nước trung lập

Danh mục

Chiến tranh thế giới thứ hai
Mặt trận Sự kiện chính Khía cạnh khác Thành phần

Mở đầu

Mặt trận chính

Tổng quát

1939

1940

1941

1942

1943

1944

1945

xem thêm...

Ảnh hưởng dân thường và tội ác chiến tranh

Hậu quả

Đồng Minh

xem thêm...

Phe Trục

xem thêm...

Các tài liệu khác

Thể loại  · Chủ đề · Dự án
 Từ điển ·  Thông tin ·  Danh ngôn ·   Văn kiện và tác phẩm ·  Hình ảnh và tài liệu ·  Tin tức

Tham gia

Chủ đề Chiến tranh thế giới thứ hai đang được xây dựng nên rất cần sự giúp đỡ, đóng góp của các bạn về nội dung lẫn giao diện. Các bạn có thể:


Chủ đề liên quan

Bản mẫu:Cổng tri thức Wikipedia

Cổng tri thức Wikipedia